Cảm nhận Đoàn thuyền đánh cá chọn lọc
Tổng hợp bài cảm nhận Đoàn thuyền đánh cá chọn lọc giúp người đọc nắm rõ ca khúc lao động đẹp đẽ của tác giả Huy Cận. Các bài văn mẫu sẽ làm rõ sự đẹp đẽ, hùng tráng mà tác giả muốn truyền tải trong bài thơ.
Bài làm số 1
Được sáng tác ngày 04/10/1958 trong chuyến đi thực tế tại Hòn Gai, Quảng Ninh, in trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng (1958), bài thơ là khúc tráng ca, ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ, với niềm vui. Đó là đặc điểm quy định nội dung và phong cách nghệ thuật của bài thơ.
Thông thường người ta lao động ban ngày. Ở đây, Huy Cận chọn một thời điểm lao động đặc biêt: khi mặt trời xuống, màn đêm bao phủ vùng biển thì một ngày lao động mới của người đánh cá mới bắt đầu. Như vậy, tạo được ấn tượng về một cuộc sống khẩn trương, nhộn nhịp ngày đêm không lúc nào ngừng…
Hai câu đầu vẽ lên cảnh hoàng hôn trên biển và đêm tối thật lộng lẫy. Mặt trời xuống biển như hòn lửa vĩ đại, báo hiệu ngày tàn. Dĩ nhiên vịnh Hạ Long nước ta ở phía Đông và nếu đứng từ bờ nhìn ra thì chỉ thấy mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển được. Nhà thơ có thể đứa phía Hòn Gai hoặc xa hơn nhìn về phía Tây thì mới thấy được cảnh này (có thể nhà thơ cũng đi trên một chiếc thuyền ra khơi).
Với Huy Cận, vũ trụ là một mái nhà, màn đêm sập xuống như cánh cửa; còn những làn sóng chạy lăn tăn qua lại như những chiếc then cài vào màn đêm. Tất cả báo hiệu trời đã tối hoàn toàn.
Chính vào lúc đó, đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Chữ lại cho ta biết đây là một hoạt động thường nhật lặp đi lặp lại hằng ngày chứ không phải là đột xuất, cá biệt. Nhưng chữ lại còn biểu hiện nghĩa ngược lại; như muốn nói trời biển đã nghỉ ngơi còn con người lại đi làm. Ý này biểu hiện tinh thần chủ động mạnh mẽ của con người sáng tạo. Câu thơ Câu hát căng buồm với gió khơi càng gợi lên cảnh tượng hùng vĩ. Thuyền ra khơi xa không chỉ nhờ cánh buồm no gió mà tiếng hát cũng có thể thổi căng cánh buồm. Đoàn thuyền ra đi nhờ buồm gió và niềm vui, chan hòa con người và vũ trụ, Tính chất hành khúc của bài thơ biểu hiện rõ trong hình ảnh, câu chữ và nhịp điệu. Bài thơ là lời ca của chính người lao động ca ngợi niềm say sưa hứng khởi lao động của chính mình.
Khổ thứ hai trực tiếp thể hiện khúc ca say mê của người đánh cá. Một khúc ca gọi cá vào lưới thật vui vẻ, rộn ràng. Cá bạc là loài cá nhỏ, thân bầu dục dài, dẹt hai bên, màu trắng đục, còn gọi là cá mắm mỡ, sống gần bờ ở độ sâu 30 – 60m nước. Có lẽ vì thế nhà thơ nhắc đến trước tiên và là loài cá làm mặt biển lặng. Khác với cá bạc là loài cá chim, cá thu, hai loài cá nổi điển hình của đại dương. Hằng năm, chúng bơi hàng đàn lớn vào gần bờ để đẻ và vỗ béo. Chúng đi rào rào sát mặt nước như đoàn thoi, làm sóng biển chứa lân tinh nổi lên muôn luồng sáng. Lời mời gọi cuối khổ thơ thật thân thiết. Khổ thơ cho thấy nhà thơ miêu tả thật chính xác nhưng không hề tẻ nhạt, lời thơ vẫn bay bổng trong tưởng tượng.
Khổ thơ thứ ba tiếp tục khúc ca vui, tự hào của những người lao động làm chủ đất nước…
Hình như trăng đã lên, làm cho cánh buồm hòa vào ánh trăng trở nên to rộng với tầm cỡ vũ trụ. Gió trăng trong thơ cổ chỉ sự thanh nhàn, ở đây mang ý nghĩa hoàn toàn mới, mạnh mẽ. Thuyền lướt giữa mây cao và biển bằng cũng gợi không gian bao la, phóng khoáng còn con người thì dò bụng biển, dàn trận, bủa lưới như những chủ nhân đầy sức mạnh và quyền uy.
Khổ thơ thứ tư ca ngợi sự phong phú, giàu có của biển. Phương thức liệt kê thích hợp nhưng nhà thơ không lạm dụng nó…
Cá nhụ, còn gọi là lụ, lận, là thứ cá thon dài, dẹt, mình dày, khoảng 25 – 30cm, thịt ngon và lành. Cá chim thân dẹt, dài, được xếp hàng đầu: chim, thu, nhụ, đé. Cá đé thân thon dài, chiều dài gấp 3 – 4 lần chiều cao thân. Đêm xuống, chúng thường nổi lên hàng đàn cho đến rạng đông. Cá song thuộc loài cá với nhiều chủng loại khác nhau, còn được gọi là cá mú. Màu sắc cá song rực rỡ, da sẫm có vằn đỏ như lửa. Hai câu cuối là hình ảnh hùng vĩ và lộng lẫy của biển đêm. Những chiếc đuôi cá vẫy nước làm ánh trăng lấp lánh. Vàng chóe, sáng chói mắt. Thủy triều lên tạo thành hơi thở của biển đêm, đốm sao bóng sao trên mặt nước cũng nâng lên hạ xuống một cách kì ảo.
Câu thơ Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao là một hình ảnh tinh vi. Nhịp gõ thuyền và nhịp hát đã làm ánh trăng rung động, có cảm tưởng như trăng ở trên cao giữ nhịp cho tiếng gõ thuyền. Thực sự là bài ca lao động say sưa, hùng tráng, thơ mộng, đầy lòng biết ơn. Ví von biển cho ta cá như lòng mẹ vô tận, vô tư đã thành khúc ca. Ân tình thủy chung trong bài tráng ca…
Đêm tàn, trời sắp sáng nên sao mờ. Câu thơ gợi lên vẻ đẹp lao động đầy chất tạo hình. Cơ bắp cuồn cuộn. Dưới những cánh tay săn chắc là mẻ lưới trĩu nặng cá vàng cá bạc. Hai câu cuối tạo sự nhịp nhàng giữa lao động con người và sự vận hành của vũ trụ. Chữ lóe thật hay, vừa gợi ánh bình minh đang đến, vừa gợi sự nhảy nhót của đàn cá trong lưới. Gam màu rực rỡ, lộng lẫy.
Khổ cuối khép lại bài thơ, chuyến đi.
Câu thơ đầu tạo cảm giác tuần hoàn. Câu hát căng buồm đưa thuyền đi nay đưa thuyền về. Nhưng nó về với tư thế mới: chạy đua cùng mặt trời. Và trong cuộc đua này, con người đã về đích trước, đã chiến thắng. Khi mặt trời vừa đội biển mà lên đem màu đỏ sáng cho đất trời thì thuyền đã về bến từ lâu, cá đã dỡ xuống phươi dài muôn dặm. Ánh nắng ban mai làm cho thành quả lao động thêm rực rỡ, huy hoàng. Lại diễn ra sự hòa hợp nhịp nhàng giữa con người và lao động và vũ trụ. Câu thơ Mặt trời đội biển nhô màu mới miêu tả chính xác chuyển động của mặt trời, từ từ, ánh sáng nhô lên, mặt trời ló mặt. Mặt trời nhô lên kết thúc một đêm lao động hô ứng với mặt trời xuống biển như hòn lửa ở đầu bài thơ.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một tráng ca đẹp ca ngợi người lao động biển cả làm chủ lao động và Tổ quốc. Bài thơ khắc họa sự nhịp nhàng của lao động của con người với sự vận hành của thời gian và thiên nhiên vũ trụ. Trong cảnh trời biển bao la, con người trở nên hùng vĩ, lãng mạn. Trong cảnh biển đêm, một vùng thiên nhiên của Tổ quốc hiện lên thật giàu đẹp, thơ mộng.
Bài làm số 2
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài, lời đề tài ấy trong bài thơ Tràng giang đã trở thành một truyện ngắn về cảm hứng không gian, cảm hứng vũ trụ luôn ngự trị trong thơ Huy Cận. Mặc dù từ Lửa thiêng tới Trời ngày lại sáng là cả một bước chuyển dài tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ. Nhưng cảm hứng vũ trụ vẫn luôn là một đặc điểm không thay đổi trong thơ ông. Nếu nói tới Xuân Diệu là nói tới cảm xúc về thời gian thì với Huy Cận, không gian luôn là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tư tưởng nghệ thuật của mình.
Trong Lửa thiêng, hình ảnh của không gian thường gắn với cảm giác cô đơn, rợn ngợp: lòng quê dờn dợn vời con nước đến Trời mỗi ngày lại sáng đã có những thay đổi nhất định trong cảm xúc về không gian. Nhiều nhà phê bình đều khẳng định Đoàn thuyền đánh cá là một thành công trong giai đọaan sáng tác mới của nhà thơ Huy Cận xúc cảm về không gian, nhưng đoàn thuyền đánh cá lại mang một hình ảnh không gian mới mẻ, huy hoàng, đầy khoáng đạt và đậm đà bút pháp tượng trưng Huy Cận.
Một trong những yếu tố khắc họa sự huy hoàng mới mẻ của không gian tạo nên ấn tượng về một cuộc sống mới sối nổi và đầy hứng khởi trong bài thơ là sự có mặt của một loại những từ ngữ miêu tả màu sắc được nhà thơ sử dụng trong tác phẩm.
Trong Tràng giang, gắn với cảm giác cô đơn rợn ngợp trước không gian là những từ ngữ gợi liên tưởng về sự chia lìa trăm ngả của nước và sóng, của nắng và trời, của sông và bến – Những sự vật ngỡ chẳng bao giờ có thể tách rời nhau. Đến Đoàn thuyền đánh cá, để khắc họa cảm giác tự do phóng khoáng bay bổng, tư thế làm chủ, tinh thần tự tin và đặc biệt khắc họa không gian ấm áp, sôi động và tràn đầy sức sống, nhà thơ đã dùng một loạt những từ ngữ chỉ màu sắc với mức độ sắc thái nghĩa tuyệt đối đầy thú vị.
Mở đầu là màu sắc của mặt trời khi xuống biển: Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Bằng hình ảnh so sánh như hòn lửa, cả không gian mặt biển trong giây phút cuối cùng của một ngày được khắc họa đầy đủ và thật ấn tượng. Hình ảnh như hòn lửa không chỉ gọi màu sắc mà còn gợi cả hình khối – một hình khối huy hoàng tương phản với màn đêm đang loang ra trên mặt biển: Sóng đã cài then đêm sập cửa làm người đọc bị cuốn hút ngay từ những giây phút đầu tiên khi tiếp xúc với bài thơ. Ta cũng đã từng gặp màu sắc của mặt trời tương tự trong một bài thơ mới: Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng/ Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt (Nhớ rừng – Thế Lữ), Khác chăng mặt trời trong Nhớ rừng chỉ được miêu tả như một vầng sáng chói lòa của ký ức.
Bắt đầu từ hình ảnh mặt trời xuống biển, cả bài thơ là một bức tranh mà gam màu chủ đạo là màu vàng với các mức độ lấp lánh khác nhau:
- Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
- Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
- Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
- Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
- Mặt trời đội biển nhô màu mới
- Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Bên cạnh những tính từ “lấp lánh”, “đen hồng”, “sáng”, “vàng chóe”, “bạc”, vàng là những danh từ rạng đông, màu mới. Sự xuất hiện của các từ ngữ miêu tả này cũng theo một trình tự nhất định: Từ ấn tượng chung: luồng sáng đến những chi tiết miêu tả cụ thể Trăng – vàng chóe, lóe rạng đông và cuối cùng, tất cả những ánh sáng ấy hội tụ trong một hình ảnh: Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Những câu thơ và sự có mặt của các từ ngữ ấy không chỉ để khẳng định sự giàu đẹp của vùng biển quê hương mà còn góp phần xây dựng biểu tượng về cuộc sống mới – một cuộc sống dựng xây đầy phấn khởi say sưa với một cảm hứng lãng mạn và vô cùng bay bổng.
Kết thúc bài thơ là đoàn thuyền trở về sau một đêm lao động. Tràn ngập không gian là một câu hát khỏe khoắn yêu đời, Đặc biệt, hình ảnh mặt trời với màu sắc rất riêng với những xúc cảm của tâm hồn tác giả – đã khép lại trọn vẹn một ngày làm việc và mở ra một không gian lao động mới. Kiểu kết hợp hai từ không cùng một phạm vi biểu đạt màu mới gợi nhiều liên tưởng cho người đọc về hình ảnh một cuộc sống mới, một sự đổi thay đầy lạc quan, một không gian “trời mỗi ngày lại sáng”.
Chính vì thế, hình ảnh cuối cùng kết thúc bài thơ là một hình ảnh mà màu sắc của nó choáng ngợp toàn bộ không gian Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Lối nói khoa trường rất Huy Cận đã thực sự mang lại hiệu quả thẩm mỹ cho bài thơ. Chính không khí say sưa khôi phục và phát triển kinh tế những năm đầu thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất là điểm tựa của cảm hứng lãng mạn trong Đoàn thuyền đánh cá, cảm hứng ấy đã làm nên linh hồn của bức tranh không gian trong bài thơ. Xuân Diệu cũng đã từng diễn đạt cảm hứng này bằng một màu sắc dựng xây ngói mới. Có lẽ với Huy Cận, sắc vàng rực rỡ đầy mãnh lực là gam màu chủ đạo đầy cuốn hút, đủ khả năng biểu đạt chính xác những gì ông cảm nhận được từ cuộc sống mới. Màu sắc ấy đã làm cho không gian vũ trụ trong Đoàn thuyền đánh cá không còn lạnh lẽo, cô đơn mà trở nên rực rỡ, ấm áp hơi thở của cuộc sống.
Cùng với các yếu tố nghệ thuật khác, hệ thống từ ngữ miêu tả màu sắc trong Đoàn thuyền đánh cá đã góp phần không nhỏ trong việc thể hiện tư tưởng chủ đạo của bài thơ.
Bài làm số 3
Trước đây nửa thế kỷ, khi mới cầm bút, nhà thơ Huy Cận trình làng bài Tràng giang với khổ thơ đầu rất đặc sắc:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng…
Giữa cái mênh mông, rộng dài của sông nước, con thuyền và cành củi khô – biểu tượng cho kiếp sống của con người – trôi xuôi, bơ vơ, vô định. Trước cái bơ vơ vô định ấy, thi sĩ đã bâng khuâng thương mình, thương người, muốn chia sẻ tấm lòng “sầu trăm ngả” tới bạn đọc. Từ ấy trở đi, hình tượng thơ: “con người” và “vũ trụ” trở thành một nét riêng trong thi pháp của Huy Cận. Đến năm 1958, nét riêng ấy lại hiện lên thật rõ ràng trong bài Đoàn thuyền đánh cá.
Hình ảnh: “đoàn thuyền” – (những ngư dân) và “vũ trụ” – (mặt trời, biển cả, gió khơi, trăng sao,…) song hành, lung linh rực rỡ từ chữ đầu đến chữ cuối bài thơ:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Biển hoàng hôn – mặt trời lặn, như hòn lửa bị nhúng nước. Sóng cồn lên, cài chặt then, nhốt ánh sáng bằng một động tác sập cửa mau lẹ. Đêm bao trùm, vũ trụ đẹp một vẻ đẹp huyền bí, mênh mang đầy thách thức. Vậy mà con người – những ngư dân vẫn không ngại ngần, e sợ. Xưa kia, khi đất nước chìm đắm trong bóng den xâm lược, con ngược thấy rợn ngợp, hãi hùng trước cái bao la rộng lớn của vũ trụ. Ngày nay, đất nước được giải phóng, con người được làm chủ, thì vũ trụ, thiên nhiên trở thành nơi đi tới để thử thách, để khai phá:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn thuyền ngư dân đã xuống, đẩy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát. Nhà thơ không ghi âm mà chỉ miêu tả, miêu tả bằng ẩn dụ: câu hát căng buồm…, nhưng người đọc vẫn nghe văng vẳng những tiếng hát, vẫn thấm thía những niềm vui và quyết tâm lao động của con người.
Niềm vui và quyết tâm tràn ngập không gian, vũ trụ, đánh thức tất cả. Họ gọi cá như bè bạn gọi nhau: cá nhụ, cá chim cùng cá đé… . Họ gọi biển, tiếng gọi trìu mến của con gọi mẹ. Rồi họ gõ thuyền, thả lưới, kéo lưới… Những cánh tay xoăn chắc cuồn cuộn sức người, sôi nổi hào hứng như trong một trận chiến đầu thế mặt trời – tất cả đã hiệp đồng để động viên, giúp đỡ con người. Vũ trụ không đối lập mà trờ thành bè bạn thân thương của con người, đền đáp công sức con người một cách xứng đáng.
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc, đuôi vàng lóe rạng động.
Vẩy cá, đuôi cá bắt ánh sáng, lóe sắc vàng, sắc bạc, hay chính là bạc vàng trong kho trời vô tận thưởng công cho con người? Tài sử dụng ngôn từ, phép liên tưởng, ví von cùng tình cảm mê say, hào hứng của nhà thơ đã hòa nhập với cuộc sống, đem lại cho thơ những hình ảnh thật thú vị!
Thú vị hơn nữa là khung cảnh rạng đông rực rỡ khi đoàn thuyền hát khúc khải hoàn, về bến:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Đoạn thơ dựng lại cuộc đua tài tốc độ giữa đoàn thuyền và mặt trời – con người và vũ trụ. Thực ra cuộc đua ấy khởi phát ngay từ đầu bài thơ. Đến đây, vào giờ phút hừng đông đẹp nhất, trường đua càng hiejn rõ. Hai đối thủ cách xa nhau. Đoàn thuyền và mặt trời ở hai đầu mút của câu thơ – Đoàn thuyền chạy đua cùng… mặt trời – cả hai đang lướt tới, cùng vượt lên hối hả. Ai sẽ thắng? Con người cất cao tiếng hát. Còn mặt trời?
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Thi sĩ như người trọng tài, đang nhìn đoàn thuyền (hai câu trên) chuyển sang phía mặt trời (hai câu dưới), từ mặt trời nhìn lại. Đội biển nhô lên, mặt trời tới đích, thì… ôi chao, đối thủ đã tới từ lâu rồi kìa! Không thấy con thuyền nào trên nước nữa. Trang trải mênh mang muôn dặm chỉ thấy cá và… cá. Cá nhiều, ken khít, xếp đầy không tách được từng con, từng loại, chỉ thấy mắt cá huy hoàng nhấp nháy chào mặt trời, hóa thành triệu mặt trời nhỏ, hồng hào, ấm áp khắp không gian. Nghệ thuật nhân hóa và điểm nhìn linh hoạt của nhà thơ khiến cho hình ảnh mặt trời vốn xa xôi, khắc nghiệt thành gần gũi, hiền hòa. Và chân dung con người bỗng trở nên lướn lao, cao rộng. Thêm vào là sự lãng mạn ngợi ca hùng tráng. Phải có một tình yêu sâu nặng, sự gắn bó lâu dài bền chặt với cuộc sống, với quê hương, đất nước, nhà thơ Huy Cận mới biểu hiện một cách thấm thía, sảng khoái đến thế niềm vui, lòng mến phục và tự hào trước thiên nhiên kì ảo, trước sức sống và bàn tay lao động của con người.
Kỉ niệm 70 tuổi đời, ngót năm chục năm tuổi làm thơ, trả lời phóng viên báo Văn nghệ về sự tâm đắc nhất trong sáng tác, nhà thơ Huy Cận nói: “Con người sống trong xã hội và sống trong vũ trụ… là thành viên của vũ trụ. Đó là hai cực của cuộc sống, hai cực của tư tưởng, hai cực của thơ…”, vẻ đẹp của vũ trụ và vẻ đẹp của con người – nhất là những con người đã được giải phóng đang làm chủ cuộc đời, hòa đồng với vũ trụ – nguồn cảm hứng lớn trong thơ Huy Cận đã tạo nên những vần thơ đẹp, làm giàu, làm đẹp thêm cho trí tuệ và tâm hồn mỗi chúng ta.
Bài làm số 4
Nói đoàn thuyền đánh cá, thực chất là nói đến những người dân chài trên biển, nói đến con người, nhân vật ta. Chú ý rằng nhân vật ta là một trong những nét đặc trưng nổi bật của thơ ca cách mạng.
Những người đánh cá căng buồm ra khơi trong cảnh hoàng hôn chạng vạng. Tiếng hát mở đầu đầy khí thế, lồng ngực ta căng như cánh buồm no gió.
Biển Đông giàu có chứa trong lòng bao nhiêu loài cá mà ta đã rất am tường: cá bạc, cá thu, cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song… Tình yêu cuộc sống mới thể hiện qua tiếng hát. Khổ thơ đầu tiên và khổ thơ cuối cùng đều có tiếng hát căng lồng ngực, được gió đưa đi xa khơi: Câu hát căng buồm với gió khơi. Lao động không còn là việc cực nhọc bất đắc dĩ nữa, đây là lao động của ta, cho ta con người mới, chủ nhân của chính cuộc đời mình. Tình yêu biển cũng tức là tình yêu đất nước hòa vào tình yêu cuộc đời mới:
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
Ý nghĩa cao cả của lao động đánh cá trong tất cả các “công đoạn” đều được hình dung mang tầm kích của những hành động trong vũ trụ, hòa điệu cùng vũ trụ. Lúc thuyền ta tiếng ra khơi:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng,
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Khi ta gõ thuyền mời gọi các loài cá đến “dệt” vào lưới ta:
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Và khi thuyền đã đầy ắp cá:
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Rồi thuyền ta đem cá từ phía biển Đông tiến về bờ,
Thuyền ta chạy đua cùng mặt trời.
Hình tượng ta, chủ nhân chân chính của cuộc sống mới được khắc họa bằng thi pháp đặc sắc. Sức mạnh của bàn tay lao động con người được đo và tả bằng những hình tượng lớn lao, hào sảng.
Bức tranh biển cả tráng lệ bao gồm cả vũ trụ, thiên nhiên, với mặt trời, mặt trăng, gió,… Những hình ảnh Mặt trời xuống biển như hòn lửa/Sóng đã cài then, đêm sập cửa gợi ý đất trời, biển cả có linh hồn, có sự sống như một con người. Gió cũng như phụ họa với câu hát, với cánh buồm căng phơi phới tình yêu đời và niềm lạc quan, con người hòa nhịp với vũ trụ. Biển giàu có với hàng trăm loài cá nuôi ta lớn. Nếu ta là trung tâm của bức tranh vũ trụ thì cá là nhân vật trung tâm của biển: Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng; Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng động, lấp lánh đuốc đen hồng, cái đuôi quẫy trăng vàng chóe. Tâm trạng phấn chấn, yêu cuộc sống của người đánh cá trong không khí náo nức dựng xây cuộc sống mới đã hiện lên qua những sắc màu sinh động của biển cả. Tác giả đã sáng tạo nhiều hình ảnh đặc sắc để diễn tả vẻ đẹp huy hoàng, lãng mạn của biển cả, của các loài cá, cảnh quăng lưới,…
Không gian thơ mang tầm kích rộng lớn và đầy màu sắc là môi trường hoạt động của ta. Biển bằng mênh mông, đối xứng với mây cao tạo nên ấn tượng khoảng không bao la, khoáng đạt. Gió là hình tượng vũ trụ, gió là sức mạnh. gió căng buồm, đẩy thuyền đi xa, gợi sự tự do. Mặt trời, mặt trăng là nguồn sáng tạo nên bức tranh đầy màu sắc cho thế giới. Như hòn lửa đỏ rực – mặt trời đang lặn sau mặt biển. Buồm căng sáng dưới trăng; những con cá quẫy dưới trăng gợn ánh vàng chóe, ánh đuốc đên hồng và ngày mai, lại một rạng đông, mặt trời lại nhô lên tô điểm cho biển trời một màu mới, màu nắng hồng, vẩy bạc đuôi vàng của cá lóe rạng trong bình minh. Trung tâm của bức tranh vũ trụ ấy vẫn là con người. Con người cùng đất trời, biển cả vẽ nên bức tranh lao động thật tươi sáng, lạc quan.
Nghệ thuật trong bài thơ mang tiết tấu nhịp điệu của thời gian lao động khẩn trương, mạnh mẽ. Lúc đoàn thuyền ra khơi là hoàng hôn và khi ta từ biển quay về đất liền, mặt trời lại nhô lên mang màu mới. Thuyền lướt gió, ta hát, gõ nhịp gọi cá vào, cá đêm ngày dệt muôn luồng sáng trên tấm thảm biển trăng lên cao dần trong đêm như gõ nhịp cùng ta, cá quẫy, đêm thở, rồi sao mờ ta kéo lưới trĩu nặng cá – kéo xoăn tay – cho kịp trời sáng và lóe sáng rạng đông là vẩy bạc đuôi vàng. Một buổi mai nắng hồng và ta xếp lưới chào một ngày mới, mặt trời lại đội biển nhô màu mới. Tất cả nhịp nhàng, khẩn trương, hài hòa giữa nhịp lao động của con người và nhịp vũ trụ. Ngày và đêm, nhịp sống vĩnh cửu của con người và biển cả. Một bài thơ có rất nhiều động từ diễn tả hành động, tiết tấu của những người đánh cá và của đại dương, của vũ trụ!
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là tiếng hát lao động tươi vui, khỏe khoắn, đầy niềm tự hào trước cuộc sống mới. Phù hợp với âm hưởng chung đó, thể thơ và ngôn ngữ được sử dụng rất linh loạt, sáng tạo.
Theo mô hình chung, trong mỗi khổ thơ, sự việc được kể, tả trước, tiếp sau đó là liên tưởng, cảm xúc. Chẳng hạn như trong khổ thơ thứ nhất, sau hai câu tả, kể không gian hoàng hôn Mặt trời xuống biển như hòn lửa/Sóng đã cài then, đêm sập cửa và một câu kể Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi ta gặp một câu diễn tả cảm hứng phơi phới Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Tuy nhiên, mạch cảm xúc mạnh mẽ của nhân vật trữ tình làm vỡ khuôn khổ cổ điển của các khổ thơ truyền thống này. Trong khổ thơ thứ hai, ta thấy có câu thơ bắc cầu nối hát ở khổ thơ thứ nhất sang khổ thơ thứ hai: Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng… Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Có khổ thơ không kể hay tả mà chỉ thuần túy liên tưởng:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Do vậy mà về hình thức thì bài thơ vẫn có dáng dấp truyền thống song nội dung mới đã thay đổi thi pháp của thể thơ.
Không nói đến thơ tự do, trong thơ nói chung, vần thơ và thanh điệu của các từ đứng ở vị trí hiệp vần rất quan trọng, tạo nên đặc trưng nhạc tính của toàn bài.
Về cách hiệp vần, bài thơ không phải là dạng thơ tự do, không vần, song vần thơ đã được tổ chức không theo cách hiệp vần truyền thống. Khổ đầu có hai vần thơ đã được tổ chức không theo cách hiệp vần truyền thống. Khổ đầu có hai vần lửa, cửa và khơi. Hai câu đầu hiệp vần lửa, cửa đều ở thanh trắc; hai câu sau hiệp vần khơi lại thuộc thanh không. Khổ thức hai, lại tổ chức hiệp vần hai câu 1 và 3 (lặng và sáng – thanh trắc), hai câu 2 và 4 (thoi và ơi – thanh không). Khổ thứ ba lại hiệp vần như một khổ thơ Đường luật,… Nhìn chung, dạng thức hiệp vần và thanh điệu của các khổ thơ rất đa dạng. Nhịp điệu, thanh điệu trong mỗi câu thơ cũng đa dạng, bất ngờ. Phương tiện ngôn từ đã tạo nên giọng điệu chung phù hợp với điệu tâm hồn khỏe khoắc, mạnh mẽ trong không khí lạc quan của cuộc sống mới.
Bài làm số 5
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm!
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa.
Đó là Huy Cận của “thuở xưa” khi đang là một nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Thơ ca của tác giả chất chứa nỗi u hoài cho kiếp nhân sinh. Nỗi buồn đó đã lan tỏa, tràn ngập vũ trụ, thiên nhiên. Cách mạng tháng Tám đã tái sinh nhiệm màu cho nhà thơ, thổi một luồng sinh khí mới vào hồn thơ của Huy Cận. Những áng thơ của ông trở nên “tươi nhạc, tươi vần” cất cao lời ngợi ca quê hương, nhịp điệu lao động của cuộc sống mới trên miền Bắc những buổi đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhân chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Hòn Gai năm 1958, Huy Cận cho ra đời bài thơ Đoàn thuyền đánh cá thật đặc sắc.
Mở đầu bài thơ là những nét phác họa thật đặc sắc về cảnh vật.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Một quang cảnh thật bao la, hoành tráng. Nghệ thuật so sánh “mặt trời như hòn lửa” sử dụng thật khéo léo báo hiệu hoàng hôn đã buông xuống. Mặt trời khổng lồ đỏ rực thả những tia sáng loang loáng và chìm dần vào đại dương mênh mông. Chỉ bằng vài nét phác thảo, Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh rực rỡ, hùng vĩ về biển khơi lúc chiều tà. Khi những tia nắng cuối cùng lịm tắt thì bóng đêm lan tỏa, ngự trị khắp đại dương:
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Câu thơ là một liên tưởng thật độc đáo: vũ trụ là một ngôi nhà vĩ đại với đêm là cửa và sóng là then. Cơn sóng, bóng đêm ấy lại được nhân hóa như con người đang cài then, sập cửa để nghỉ ngơi. Nhịp thơ mạnh mẽ, dứt khoát kết hợp với vần trắc “lửa, cửa”, âm thanh tắt lại như nhấn mạnh thời khắc chấm dứt mọi hoạt động của thiên nhiên, vũ trụ.
Thật bất ngờ, đối lập với trạng thái tĩnh lặng của thiên nhiên là hoạt động của con người:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Ra khơi không phải chỉ một chiếc thuyền lẻ loi, đơn độc mà là cả một “đoàn thuyền” đông đảo làm xao động, nhộn nhịp cả không gian. Từ “lại” khẳng định đây không phải là một chuyến đi đột xuất mà đã trở thành một công việc thường xuyên, có mục đích. Khi đêm xuống họ ra khơi, khi vũ trụ nghỉ ngơi thì họ lao động. Thái độ tự nguyện, nhiệt tình lao động của họ thật đáng trân trọng, quý mến.
Người ngư dân ra đi với tiếng hát rộn rã, sôi nổi. Tiếng hát xua tan màn đêm, phá tan không khí im lìm của đêm tối. Tiếng hát vang lên từ bầu nhiệt huyết yêu cuộc sống, yêu lao động, niềm tin yêu, lạc quan của họ đối với cuộc đời. Trước kia mất nước, ta chỉ là thân nô lệ, nay đất nước đã về, ta người lao động đã ở tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời của chính mình, đúng như lời thơ của Tố Hữu:
Đời vui đó, tiếng ca đoàn kết
Ta nắm tay nhau xây lại đời ta.
Bằng sự liên tưởng của bút pháp lãng mạn, Huy Cận lại tưởng chừng như “câu hát căng buồm” chứ không còn phải gió căng buồm nữa. Sự liên tưởng ấy càng làm đẹp thêm ý thơ, diễn tả khí thế, sự phấn khởi đang ngập tràn tâm hồn người lao động. Câu thơ với vần bằng “khơi – khơi” thật êm, thật nhẹ như cùng với sức gió, câu hát đẩy thuyền ra khơi.
Người ngư dân vẫn tiếp tục cất cao những câu hát vui tươi:
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
Bài hát ngợi ca biển Việt Nam có nguồn hải sản thật dồi dào, phong phú. Biện pháp liệt kê “cá bạc, cá thu” kết hợp với nghệ thuật so sánh “cá thu… như đoàn thoi” đã biến những chú cá như những con thoi lao nhanh, tạo thành đoàn thoi dệt biển. Càng sinh động hơn khi trên biển xanh, vẩy cá ánh bạc chuyển động dọc ngang không ngừng nghỉ. Đoàn cá lại được nhân hóa trở thành những người thợ đang miệt mài dệt lưới.
Lời hát gọi cá thể hiện một ước vọng chân thành, giản dị của người ngư dân: đánh bắt được thật nhiều cá ngon. Lời hát ấy cũng là một khát vọng được cống hiến thật nhiều, thật hữu ích cho đất nước.
Đánh cá ban đêm đầy vất vả, khó nhọc bỗng trở nên đầy chất thơ trong suy tưởng của người ngư dân:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Vẫn với bút pháp lãng mạn bao trùm, xuyên xuốt khắp bài thơ, Huy Cận lại đưa ta đến một liên tưởng thật thi vị, đẹp đẽ: chiếc thuyền “lái gió” ấy chở theo cả một “buồm trăng”. Gió trăng đã chan hòa khắp đại dương, khắp con thuyền, biến chiếc thuyền đánh cá thành một “thuyền tiên, thuyền thơ” giữa một không gian thơ mộng, huyền ảo. Những hình ảnh kì vĩ “mây cao, biển bằng” tuy mang phong vị thơ cổ nhưng vẫn đậm chất hiện thưc, đã nâng con người lên ngang tầm vũ trụ, thiên nhiên, sống chan hòa với cảnh trời nước bao la tuyệt vời. Công việc đánh cá nặng nhọc sao giờ bỗng trở nên nhẹ nhàng, nên thơ quá. Đó chính là tâm trạng của con người khi được sống, được cống hiến, được làm chủ biển khơi, đất nước nên luôn lạc quan, yêu đời.
Lãng mạn, bay bổng với dòng cảm xúc nhưng họ lại rất thực tế khi trở về với công việc:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Bằng vài nét chấm phá, Huy Cận đã biến đoàn thuyền thành đoàn thám hiểm đại dương để tìm ra nguồn tài nguyên quý gia. Chỉ có hai câu thơ nhưng lại sử dụng liên tiếp hàng loạt động từ “…đậu…dò…dàn đan…vây giăng”, phải chăng tác giả muốn diễn tả được nhiệt tình lao động, sự khẩn trương, hối hả của đoàn thuyền trong công việc. Họ làm việc với tất cả sức lực, kinh nghiệm, tài năng, trí tuệ để đem lại kết quả cao nhất. Hình ảnh “dàn đan thế trận” khắc họa một nét đẹp nữa của ngư dân: họ đang hiệp đồng, trợ lực nhau để lao vào một “trận đánh” thực sự với khát vọng giành thắng lợi.
Lời thơ lại tiếp tục ngân vang những giai điệu ca ngợi biển quê hương:
Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Nhà thơ đã liệt kê những loài cá ngon được kể trong câu thành ngữ “chim, thu, nhụ, đé”. Vâng, biển Việt Nam không chỉ đẹp mà còn giàu nữa. Những loại hải sản dồi dào, quý giá đó là một nguồn lợi lớn mà thiên nhiên ban tặng cho con người Việt Nam. Giờ đây, biển cả hiện ra như một bức tranh sơn mài điểm tô bởi những màu sắc tươi sáng “vàng chóe, đen hồng”. Và cũng thật kì diệu, tất cả màu sắc ấy xuất phát từ cái đuôi chú cá “quẫy” làm xao động mặt nước, từ thân mình chú cá song đang tung tăng bơi lội. Chính từ cảm xúc say mê, ngây ngất trước vẻ đẹp giàu của biển cả, nhà thơ đã gọi cá bằng “em”. Cách gọi ấy thể hiện tình cảm trìu mến, thái độ trân trọng những sản vật của biển khơi và sự gắn bó, yêu mến mà tác giả dành cho thiên nhiên, biển cả. Trong sự tĩnh lặng của vũ trụ, Huy Cận chợt nghe:
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Chất lãng mạng đã tạo nên một liên tưởng hết sức độc đáo: đêm như một sinh vật với hơi thở của sự sống. Nhịp thở của đêm chính là nhịp sống đang nhấp nhô. Thật là một sáng tạo nghệ thuật đầy thi vị làm gợi nhớ đến lời thơ:
Nghe hơi thở của đồng quê mộc mạc
Bãi phù sa xanh mượt ngô non.
Phải lắng tâm hồn lại, phải hiểu biết và yêu mến thiên nhiên thì mới có thể cảm nhận được điều đó.
Chính gió tạo nên sóng và những ngọn sóng ấy đang lùa muôn vì sao phản chiếu trên mặt nước chuyển động, tan biến. Nhưng với tâm hồn lãng mạn của người thi sĩ, Huy Cạn đã diễn tả đến một hình ảnh thật gợi cảm: hòa trong nhịp sóng có trăng vàng, sao lấp lánh huyền ảo. Những vì sao “không ngủ” ấy đang “lùa nước Hạ Long”. Thật là một liên tưởng bất ngờ diễn tả vẻ đẹp sinh động, lung linh của biển cả. Khi đã yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời tha thiết thì hồn thơ của tác giả mới khai mở những tứ thơ đẹp, đầy ngẫu hứng như thế.
Lời hát đưa thuyền ra khơi cũng chính là lời bài hát lại vang lên trong nhịp điệu lao động của những ngư dân:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Tiếng hát xua tan bao vất vả, mệt nhọc, thể hiện ngọn lửa nhiệt tình không hề tắt trong tâm hồn người ngư dân. Họ vẫn thiết tha yêu đời, yêu lao động. Lời hát gọi cá chính là một ước vọng, khát khao được cống hiến thật tốt, thật nhiều cho xã hội, đất nước, hòa nhịp vào không khí chung những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nếu hình ảnh “buồm trăng” là một liên tưởng độc đáo, sáng tạo thì càng thú vị hơn khi nhà thơ nghe “trăng gõ nhị” trong bản hùng ca lao động của đoàn thuyền. Từ hiện thực ánh trăng in trên mặt nước được sóng xô vào mạn thuyền đã được bút pháp lãng mạn chắp cánh làm đẹp thêm công việc đánh bắt cá.
Cảm nhận của nhà thơ về biển vừa thân thương lại vừa mang tính triết lí, suy tư:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
Câu thơ khiến ta nhớ đến suy nghĩ của thạc sĩ Y Vân:
Lòng mẹ bao ra như biển Thái Bình dạt dào.
Ở đây nhà thơ đảo ngược lại sự vật, hình ảnh khi so sánh “biển…như lòng mẹ”. Có gì bao dung, nhân hậu hơn tấm lòng của mẹ. Mẹ cho con dòng sữa ngọt ngào, lời ru êm ái, mẹ sẵn sàng quên mình hi sinh vì con. Biển như lòng mẹ vì đã nuôi đàn con khôn lớn bằng nguồn hải sản dồi dào, đã vỗ về, an ủi những ưu phiền của con bằng lời ru muôn thuở của sóng, chắp cánh cho bao ước mơ bay bổng của đàn con.
Cả bài chỉ có một chi tiết tả thực cảnh kéo lưới nhưng chi tiết này cũng nằm trong mạch cảm xúc lãng mạn:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Khi “sao mờ” cũng là lúc một đêm sắp tàn. Đoàn thuyền đã lao động miệt mài suốt đêm mà giờ đây khí thế nhịp điệu chẳng những không suy giảm mà còn được đẩy lên cao, cao mãi. Điệp từ “kéo” diễn tả động tác liên tiếp, thuần thục của ngư dân; “kéo xoăn tay” gợi lên hình ảnh người ngư dân với những cơ bắp cuồn cuộn đem hết sức lực để kéo những mẻ lưới lên. Chỉ với chi tiết, hình ảnh gợi tả trên, Huy Cận đã “tạc” bức tượng người ngư dân tràn trề sức sống. Biển cả đã không phụ lòng người khi những mẻ lưới đầy ắp cá, những mẻ lưới được thi vị như những “chùm” quả sai trái, ngon lành.
Bóng đêm dần tàn đi để bức tranh đại dương chỉ còn lại những gam màu tươi sáng.
Vẩy bạc, đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Thật bất ngờ, kì diệu khi rạng đông lại “lóe” lên từ “vẩy bạc, đuôi vàng” của những chú cá. Tất cả màu sắc tươi tắn, đẹp đẽ ấy là của cá, từ cá mà có. Người ngư dân đã tìm thấy nơi lao động ý nghĩa của cuộc sống, nhận ra nơi thành quả lao động một niềm vui sướng, hạnh phúc lớn lao.
Người ngư dân “lưới xếp, buồm lên” để chuẩn bị ra về. Họ chờ đón “nắng hồng” của ngày mới hay chờ đón niềm vui, niềm hạnh phúc, hi vọng vào cuộc sống đang đến với họ?
Đoàn thuyền kết thúc buổi lao động để trở về với những hình ảnh lao động thật gợi cảm:
Câu hát căng buồm với gió khơi.
Đây chính là câu thơ được lặp lại, tạo nên một âm hưởng hào hùng, sôi nổi của điệp khúc lao động. Ra đi với câu hát phấn khởi, lao động bằng bài hát nhiệt tình thì họ đã trở về với câu hát đầy hạnh phúc, vui sướng vì kết quả thắng lợi tốt đẹp của chuyến đi biển. Điệp từ “hát” cho ta cảm nhận được niềm lạc quan, yêu đời của người lao động. Bên cạnh những hình ảnh quen thuộc lại xuất hiện những hình ảnh mới lạ, gợi cảm khi đoàn thuyền trở về”
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Bình minh trên đại dương thật đẹp đẽ, kì vĩ! Hình ảnh “mặt trời đội biển” không chỉ là ý niệm về thời gian mà còn diễn tả sự vận động mạnh mẽ của mặt trời đi lên từ sâu thẳm đại dương. Cả thiên nhiên như bừng dậy sau một đêm dài. Con người cũng nào kém, hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua…” diễn tả sự khẩn trương của ngư dân, muốn mau chóng về bến trước khi trời sáng hẳn. Đặc biệt là hình ảnh “mắt cá huy hoàng” mang ý nghĩa ẩn dụ làm liên tưởng đến muôn ngàn mặt trời nhỏ bé đang tỏa sáng niềm vui, niềm hạnh phúc. Đoàn thuyền trở về trong không gian chan hòa màu sắc của thiên nhiên và cả màu sắc của thành quả lao động. Cả một mạch thơ như đang tuôn chảy, một mạch thơ của niềm vui xốn xang như Xuân Diệu đã viết:
Muốn chùm hạnh phúc giữa trời xanh
Có lẽ lòng tôi cũng hóa thành ngói mới.
Đoàn thuyền đánh cá thật là một tác phẩm nổi bật, thành công về nội dung và nhất là nghệ thuật của thơ ca hiện đại Việt Nam. Bằng nét bút tài hoa, sắc sảo, bằng tâm trạng ngây ngất “say cảnh, say người”, Huy Cận đã giúp ta khám phá vẻ đẹp, sự giàu có của biển cả, thiên nhiên, nét đẹp rực sáng trong tâm hồn người lao động. Chất lãng mạn, trữ tình của bài thơ lan truyền, thổi bùng trong trái tim mỗi người nguồn cảm xúc dạt dào, thêm yêu đời, yêu cuộc sống, thể hiện thiết tha ước vọng đóng góp bàn tay, khối óc để xây dựng quê hương Việt Nam ngày thêm giàu mạnh.
Hai bàn tay ta hãy làm tất cả!
Xuân đã đến rồi. Hối hả tương lai.
Bài làm số 6
Huy Cận là một nhà thơ của tình yêu cuộc sống thiết tha và say đắm, cũng giống như người bạn thơ gần gũi nhất của ông “Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trầu – Chân hóa rễ để hút màu dưới đất” (Xuân Diệu). Có khác chăng, một nét thường thấy trong thơ ông là cảm xúc về cuộc sống, về con người luôn gắn bó với cảm xúc về vũ trụ, dường như ông muốn tìm câu trả lời về ý nghĩa, sự tồn sinh của con người trong vũ trụ bao la, huyền bí, khôn cùng. Trong thơ ông trước Cách mạng tháng Tám, cảm nhận đó thật cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng, bơ vơ qua hình ảnh một cành củi khô, những cánh bèo dập dềnh, trôi nổi không biết về đâu giữa một không gian “Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót – Sông dài, trời rộng bến cô liêu”, qua hình ảnh “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc – Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa” (Tràng Giang). Chính Cách mạng tháng Tám kỳ diệu và cuộc sống mới sau Cách mạng đã mang tới cho ông một cái nhìn ấm áp, tươi trẻ, tràn đầy niềm tin vào con người, con người trong sự giao cảm với đất trời, vũ trụ. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của ông là một minh chứng về điều đó.
Bài thơ ra đời năm 1958 trong nguồn mạch cảm xúc biết bao thương yêu về cuộc sống “mỗi ngày lại sáng”. Đó vừa là một bức tranh đẹp đẽ, vừa là một khúc ra hào hùng về những người đánh cá trên biển cả bao la của Tổ quốc, những người thật hào hứng, phấn khởi, say mê với công việc của mình trong tư thế thực sự làm chủ biển trời, làm chủ cuộc đời mới. Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn trên biển vừa diễm lệ, huy hoàng, vừa hùng vĩ, đầy sức sống:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Điểm nhìn của nhà thơ ở đây là điểm nhìn tưởng tượng, phải ở rất xa bờ mới thấy được vùng biển phía Tây, nơi mặt trời đang lặn xuống giống như một hòn lửa rực cháy khổng lồ – cảnh này chỉ có thể thấy vào một buổi chiều hè. Cảm quan vũ trụ của nhà thơ mở ra trong trí tưởng tượng người đọc những liên tưởng so sánh thật bất ngờ, thú vị: Vũ trụ bao la, huyền bí như một cái nhà khổng lồ mà đêm tối là cánh cửa sập xuống và những con sóng chạy ngang trên biển là những chiếc then cài. Cái quang cảnh kết thúc thật kỳ vĩ, tráng lệ của một chu kỳ thiên nhiên ấy lại là sự mở đầu “một ngày” lao động mới của con người:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Từ “lại” cho thấy đây chỉ là sự tiếp diễn nhịp điệu lao động của họ, cảnh ra khơi khi hoàng hôn xuống này diễn ra thường xuyên trong nhiều đêm. Và trên “con đường mòn” vô hình mà xiết bao thân thuộc ấy, cũng như mọi lần, tiếng hát họ vút cao, vang xa trên sóng nước mênh mông. Ở đây “buồm căng” là có thật (vì gió mạnh trên biển khơi) nhưng “câu hát căng buồm” lại là hư ảo. Tuy vậy chính cái hư ảo ấy lại biểu hiện được một cái có thực, đó là khí thế mạnh mẽ của con người trong lao động tập thể. Tiếng hát chính là sự thể hiện niềm vui của những người đánh cá, khi họ cảm nhận rõ ràng sức mạnh vĩ đại của tập thể trong lao động, sức mạnh ấy sẽ tạo ra những điều kỳ diệu mà một vài cá nhân đơn lẻ không thể làm được. Chỉ một tiếng hát thôi mà nói được bao điều về thân phận, về sự tự ý thức của con người qua hai chế độ. Cũng không còn nữa cái cảm nhận từ nghìn xưa về sự nhỏ bé, yếu đuối của con người trước biển cả bí ẩn, chứa đầy sức mạnh tàn phá, hủy diệt vô cùng dữ dội. Tiếng hát của họ là tiếng hát của từng con người chinh phục biển khơi:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!
Biển cả thật đẹp đẽ, giàu có và thân thiết biết bao đối với con người. Trong câu thơ thứ nhất, từ “bạc” là một định ngữ nghệ thuật, có ý nghĩa số lượng cá nhiều, phong phú, tạo nên sự giàu có, quý giá của biển. Cái giàu có đó còn được cụ thể hóa ở câu thơ thứ hai. Hình ảnh so sánh rất đẹp này được xây dựng trên một liên tưởng thực tế: cá thu mình lấp lánh ánh trăng lướt rất nhanh trên mặt biển như con thoi chạy đi chạy lại trên khung cửi dệt vải. Từ đó mới hiểu được hai câu thơ sau là những phép nhân hóa rất tinh tế. Trong sự tưởng tượng của những người đánh cá yêu quý biển cả quê hương của mình, cá đi trên biển, cá dệt biển và cá vào lưới là cá dệt lưới. “Đến dệt lưới ta” bắt đầu từ đây, từ “ta” sẽ vang lên đầy từ hào, kiêu hãnh trong suốt bài thơ, không còn là cái tôi nhỏ bé, đơn côi như những ngày xưa nữa mà lại là cái ta tập thể đầy sức mạnh, trong đó có sự nhân lên đến vô hạn tiềm lực của mỗi cá nhân. Dường như đó mới là sức mạnh chính tạo nên cái phơi phới của đoàn thuyền đang lướt giữa trùng khơi:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Đoàn thuyền đánh cá như đi trong sự vây bọc, nâng đỡ của thiên nhiên đầy yêu thương, gắn bó. Biển cả bao la mà êm ả, hiền hòa; gió như người bạn thân thiết lái con thuyền ra khơi gió thồi phồng căng cánh buồm giống như vầng trăng khuyết; trời mây như cũng cao hơn, thoáng đãng hơn, tất cả được nhìn với con mắt chan chứa tình yêu thương của những con người đã giành được quyền làm chủ trời biển quê hương. Cảnh phóng khoáng, thoáng rộng bởi con người sảng khoái, tự do. Trong mối quan hệ giao hòa, thiên nhiên càng huy hoàng, kỳ vĩ bao nhiêu thì càng tôn vẻ đẹp của con người lên bấy nhiêu. Tầm vóc của họ vượt lên cao, sánh ngang với trời biển, vũ trụ. Đoàn thuyền, hay cũng chính là những con người đi giữa cái bao la, hùng vĩ của biển và trời – cảnh thực mà đẹp như trong mơ. Động từ “lướt” cho thấy đoàn thuyền chạy rất nhanh và rất nhẹ nhàng trên mặt biển, nó càng biểu hiện rõ hơn khí thế của những người lao động đang thực sự làm chủ cuộc sống mới. Họ được tự do, chủ động tìm đến những vùng biển xa (ra đậu dặm xa) để thăm dò nơi nào nhiều cá dò bụng biển. Cũng chính tư thế làm chủ khiến họ có được quyết tâm cao độ và khí thế chuẩn bị lao động mạnh mẽ như trong chiến đấu (Dàn đan thế trận lưới vây giăng).
Huy Cận không chỉ tinh tế về cảm xúc thẩm mỹ mà còn phong phú về vốn sống. Bài thơ cho thấy ông hiểu biết khá tường tận công việc của những người đánh cá, ông cảm nhận được những gì đang diễn ra trong tâm hồn những con người hồn hậu, bình dị và rất đáng yêu mến ấy. Đoàn thuyền đã tìm đúng “bãi cá” lưới đã buôn xuống. Những người đánh cá nghĩ gì trong những giây phút đợi chờ ấy? Đây là cảnh thực hay là tưởng tượng?
Cá nhụ, cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Đúng ra ở đây có sự pha trộn cả thực tế và ảo mộng, làm cho biển dêm có vẻ đẹp thật lãng mạn, huyền ảo. Những con cá song lấp lánh như những ngọn đuốc hồng giữa biển đêm thăm thẳm. Họ như đã nhìn thấy cái đuôi cá song quẫy chẳng khác gì mảnh trăng vàng lóe sáng trên mặt biển. Hình ảnh thật nên thơ ấy cùng với cách gọi cá là “em” biểu hiện niềm say mê cuộc sống thật hồn nhiên và mãnh liệt của những người đánh cá, và trước hết là của nhà thơ. Nhà thơ mở rộng hồn mình để đón nhận bao vẻ đẹp kỳ diệu của cuộc sống, để cảm thấy nhịp thơ của biển đêm qua những đợt sóng dâng lên và hạ xuống đầy ánh sao. Biển và trời như đã hòa vào nhau và hình thành con người càng hiện lên đẹp đẽ biết bao giữa cái vũ trụ lung linh ấy. Một lần nữa, tiếng hát của họ lại cất lên giữa bao la trời nước:
Ta hát bài ca gọi cá vào.
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Có biết bao âu yếm và thân thiết với biển khơi, với vũ trụ mênh mông, huyền diệu trong tiếng hát ấy. Tiếng hát còn biểu hiện niềm vui trong lao động tập thể của họ, biểu hiện niềm mong muốn của họ sẽ đánh bắt được thật nhiều cá đẻ làm giàu cho Tổ quốc. Cảm xúc của họ thật phóng khoáng, bay bổng, chan chứa niềm yêu đời: họ lao động khẩn trương, luôn tay gõ nhịp dồn cá vào lưới mà vẫn không quên vẻ đẹp của biển cả, trăng gió, trời mây. Vầng trăng trên trời cao là được nhân hóa trở nên gần gũi, thân thiết; trăng như đồng cảm với tâm trạng của con người, trăng gõ nhịp cho tiếng hát của họ. Đó thật sự là một bài ca lao động vừa hào hùng vừa giàu chất thơ. Và bài ca say đắm nhất là bài ca vè sự giao hòa xiết bao thân thiết, ưu ái giữa con người và biển cả. “Biển cho ta cá như lòng mẹ” – một so sánh thật đẹp: lòng biển bao la như lòng mẹ, nguồn tình cảm yêu thương vô hạn đã nuôi dưỡng mỗi con người. Biển không chỉ đẹp đẽ giàu có mà còn rất ân tình, biển không chỉ nuôi dưỡng con người hôm nay và mai sau mà biển đã “Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”, từ khi con người mới xuất hiện trên Trái Đất. Biển và ta thêm một lần nữa, tầm vóc những người đánh cá vụt lớn cao hơn và càng gắn bó với biển cả yêu thương.
Nhưng đêm sắp tàn rồi, một ngày mới đang đến:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Khổ thơ hình dung một bức họa thật khỏe, đẹp. Câu chữ gân guốc, giàu sức tạo hình: “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Chỉ một từ “xoăn” mà vừa tả được những bắp tay rắn chắc nổi cuồn cuộn khi kéo lưới, vừa nói được cái hăm hở, hồ hởi của những người lao động mong muốn thấy được kết quả công việc của mình. Và lưới rất nhiều cá, đúng với niềm mong muốn, ước ao của họ. Câu thơ thứ ba miêu tả thật đẹp hình ảnh những con cá đang được kéo từ biển lên; vẩy, đuôi của chúng lấp lánh ánh bình minh rực rỡ. Ở những từ “bạc”, “vàng” vừa là những định ngữ thông thường chỉ màu sắc, vừa là những định ngữ nghệ thuật tượng trưng cho sự quý giá, giàu có của biển cả, đồng thời cho thấy thái độ trân trọng của những người đánh cá đôi với thành quả lao động của mình, dường như đó còn là niềm biết ơn của họ trước sự hào phóng ưu ái của biển cả đối với con người. Công việc đã kết thúc tốt đẹp, họ chuẩn bị trở về. Những từ “đón nắng hồng” biểu hiện tâm trạng sảng khoái, phấn chấn của họ. Họ như muốn chia sẻ niềm vui của mình với ánh bình minh, với mặt trời – một người bạn thiên nhiên cũng rất thân thiết với con người.
Hay nhất trong toàn bộ bài thơ là khổ thơ cuối cùng, miêu tả đoàn thuyền đánh cá trở về trong ánh bình minh. Bốn câu thơ dựng lên một quang cảnh kì vĩ về cuộc chạy đua giữa đoàn thuyền đánh cá với mặt trời trên biển cả, qua đó thêm một lần nữa Huy Cận khắc họa thật đậm nét vẻ đẹp khỏe mạnh của những người đánh cá và vẻ đẹp giàu có, hùng vĩ của biển trời, của thiên nhiên Tổ quốc. Ý thơ phảng phất không khí thần thoại, anh hùng ca trong lao động.
Mở đầu là một câu thơ lặp lại gần nguyên văn câu cuối trong khổ thơ thứ nhất:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Có cảm giác đó là điệp khúc trong một bài hát, bài hát ca ngợi niềm say mê lao động trên biển quê hương. Đây là lần thứ ba tiếng hát vang lên, có khác chăng tiếng hát ở đây biểu hiện rõ hơn niềm vui của những người đánh cá khi họ thu được kết quả rực rỡ sau một đêm lao động vất vả, đó là niềm vui chiến thắng của con người khi thêm một lần nữa họ cảm nhận được sức mạnh vĩ đại, kỳ diệu của tập thể. Tiếng hát ấy vang lên say sưa, hùng tráng trên đoàn thuyền đang băng băng rẽ sóng trở về:
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Hình ảnh hào hùng của câu thơ này là một nhân hóa mang tính chất ngoa dụ, những người đánh cá thức suốt đêm làm việc không mệt mỏi nhưng họ v ẫn quyết tâm trở về trước khi trời sáng. Động từ “chạy đua” cho thấy sức lực của họ vẫn dồi dào, khí thế lao động của họ vẫn mạnh mẽ, đó thật sự là khí thế của những con người tự do, những chủ nhân chân chính của cuộc sống mới. Họ chạy đua với thời gian, chạy đua với một đối tượng thiên nhiên thật hùng vĩ là mặt trời, cái đích của cuộc chạy đua là bình minh. Đặt trong sự tương ứng với một đối tượng hùng vĩ như thế, sức mạnh của đoàn thuyền đánh cá, cũng là của những người đánh cá, càng được thể hiện nổi bật hơn. Câu thơ cũng nâng cao tầm vóc của con người trước vũ trụ rộng lớn, bao la. Vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của bình minh trên biển được miêu tả thật gợi cảm, sinh động ở câu thơ thứ ba:
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Nhân hóa này gợi cảm giác thần thoại, hư ảo: Sức mạnh của mặt trời thật vô cùng mạnh mẽ, dường như nó đang đội biển mà lên. Câu thơ làm toàn cảnh thiên nhiên sáng lên với màu mới, màu hồng của bình minh và cái màu hồng rực rỡ, tươi vui, đầy sức sống ấy chính là lời chào đón ân cần, thắm thiết của thiên nhiên với những người lao động cần cù, có nghị lực phi thường. Và “cái thần” của quang cảnh bình minh ấy là câu thơ cuối cùng:
Mắt cá huy hoàn muôn dặm phơi
Câu thơ có thể gợi ra hai hình ảnh trong liên tưởng của người đọc. Một là hình ảnh đoàn thuyền nối đuôi nhau trở về, chiếc nào cũng cá đầy khoang, hàng triệu triệu mắt cá phản chiếu ánh mặt trời rực rỡ, lấp lánh huy hoàng trên biển cả một vùng biển rộng. Hai là hàng triệu triệu gợn sóng cũng phản chiếu ánh bình minh rực rỡ giống như vô vàn mắt cá trên muôn dặm khơi. Dù là hình ảnh nào thì câu thơ cũng thể hiện được vẻ đẹp bao la, hùng vĩ và sự giàu có, phong phú của biển cả, của thiên nhiên đất nước dưới con mắt của những con người được thực sự làm chủ biển trời Tổ quốc của mình.
Có thể nói, chính niềm tin yêu nồng nhiệt với cuộc sống mới, với những người lao động mới, chính khả năng suy tưởng sâu sắc trong cảm quan vũ trụ đã dẫn tới thành công của Đoàn thuyền đánh cá. Đây là một trong số không nhiều bài thơ hay viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kết luận
Các mẫu văn cảm nhận Đoàn thuyền đánh cá chọn lọc hay nhất đã được chia sẻ đầy đủ đến người đọc. Những bài viết này chắc chắn sẽ giúp bạn có được cái nhìn sâu sắc hơn về bài ca lao động của tác giả Huy Cận.
Xem thêm:
- Hai khổ thơ cuối Đoàn thuyền đánh cá có gì đặc sắc?
- Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đầy đủ và chi tiết
- Phân tích khổ đầu và khổ đuối Đoàn thuyền đánh cá hay nhất