Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù lớp 10 hay
Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân được đánh giá là một trong những áng văn nổi bật của văn học Việt Nam. Bên cạnh hình tượng nhân vật Huấn Cao, các đề văn về cảnh cho chữ trong tác phẩm cũng xuất hiện nhiều trong đề kiểm tra.
Học sinh có thể tham khảo dàn ý và bài văn mẫu phân tích do The POET tổng hợp để biết cách làm bài.
Dàn ý phân tích cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù
Mở bài: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và cảnh cho chữ trong truyện ngắn được trích tại sách ngữ văn 10 .
Thân bài: Chia thân bài thành 4 phần để phân tích.
- Tóm tắt hoàn cảnh xảy ra trong tác phẩm trước khi cho chữ.
- Diễn biến, thời gian và không gian của cảnh cho chữ.
- Lý giải và phân tích cảnh cho chữ được xem là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
- Ý nghĩa cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù: Đề cao tấm lòng lương thiện của con người. Từ đó thể hiện quan niệm của Nguyễn Tuân.
Kết bài: Khái quát lại vấn đề và liên hệ bản thân.
Phân tích cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù
Học sinh nên tham khảo những bài mẫu phân tích văn 10 Kết nối tri thức với cảnh cho chữ trong tác phẩm. Qua đó, nhận biết cách viết bài và có những đánh giá về giá trị nội dung – nghệ thuật của chi tiết này.
Mẫu 1 phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tài hoa của nền văn học Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của ông luôn khát khao hướng tới chân – thiện – mỹ. Và một trong số những tác phẩm nổi bật được đặc điểm ấy là truyện ngắn Chữ người tử tù. Nguyễn Tuân đã rất khéo léo khi sáng tạo tình huống truyện độc đáo và lôi cuốn. Đặc biệt, phần đặc sắc nhất của truyện này là cảnh cho chữ trong nhà giam – “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Chi tiết cảnh cho chữ nằm ở phần cuối của tác phẩm khi tình huống truyện được đẩy lên cao trào. Viên quản ngục nhận được công văn phải xử lý những tên phản nghịch, trong đó có nhân vật Huấn Cao. Do đó, cảnh tượng cho chữ được xem như chi tiết cởi nút, giải tỏa những băn khoăn cho người đọc. Qua chi tiết ấy đã thể hiện được những giá trị nhân văn lớn lao của tác phẩm này.
Ngay khi nhận được lệnh, viên quản ngục giãi bày tâm sự của mình với thầy thơ lại. Nghe nỗi niềm ấy, thầy thơ đã chạy tới buồng giam Huấn Cao để kể rõ về nỗi lòng người quản ngục. Đêm hôm ấy, tại buồng giam tối tăm và chật hẹp, chỉ với ánh sáng len lỏi của một bó đuốc tẩm dầu, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đã diễn ra. Thông thường khi muốn sáng tạo nghệ thuật, người ta thường tìm đến những không gian đẹp và thoáng đãng. Tuy nhiên, ngay tại không gian nhơ bẩn và tối tăm như chốn ngục tù thì việc ấy vẫn đang xảy ra. Thời gian xảy ra cảnh tượng này phần nào gợi cho ta liên tưởng đến tình cảnh của người tử tù. Bởi lẽ đây là đêm cuối cùng của người tử tù, cũng chính là Huấn Cao. Trong hoàn cảnh khốn cùng ấy, hình ảnh “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn xuất hiện một cách ung dung “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Trong khoảnh khắc ấy, viên quản ngục và thầy thơ trở nên khúm núm hơn. Điều này phản ánh trật tự xã hội dường như đang bị đảo lộn. Đáng lẽ trong hoàn cảnh ấy, viên quản ngục phải hô hào và răn đe kẻ có tội. Thế nhưng thật trái ngược khi tù nhân lại trở thành người ban phát cái đẹp.
Cuộc gặp gỡ ấy xưa nay chưa từng có. Khi Huấn Cao – người có tài viết chữ nhanh và đẹp gặp mặt viên quản ngục và thầy thơ – những người có sở thích chơi chữ. Họ gặp nhau trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Khi một bên là kẻ đang phải lĩnh án tử và một bên là những người thực thi cho pháp luật và công lý. Đứng trên phương diện xã hội, họ là hai phía đối lập nhau nhưng khi xét theo phương diện nghệ thuật, họ lại là tri kỷ của nhau. Thật chua xót vì đây là lần đầu cũng như lần cuối ba con người ấy gặp mặt và giao lưu. Hơn hết, họ gặp nhau với những mong muốn chân thật nhất của bản thân. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật so sánh để làm nổi bật sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Từ đó, khiến câu chuyện đi theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng hình ảnh đối lập giữa cái hỗn loạn của nhà giam đối lập với nét thanh khiết của nền lụa trắng và nét chữ đẹp đẽ. Qua những chi tiết trên, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên hình ảnh nhân vật Huấn Cao là một người đại diện cho sự lương thiện. Hình ảnh đối lập được sử dụng để làm bật lên chủ đề của tác phẩm. Đó là cái đẹp sẽ chiến thắng sự xấu và lương thiện sẽ luôn chiến thắng tội ác. Thông qua chi tiết này, tác giả muốn bày tỏ sự tôn vinh cái chân – thiện – mỹ.
Sau khi cho chữ, Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Điều này muốn ám chỉ rằng, muốn chơi chữ thì phải giữ được sự thiện lương trong tâm hồn. Nếu ở trong môi trường của sự ác thì cái đẹp sẽ khó bền vững được. Bởi cái đẹp có thể nảy sinh trong chốn tối tăm như nơi ngục tù nhưng không thể sống chung với cái ác. Nguyễn Tuân mượn chi tiết này để nhắc đến thú vui chơi chữ là một môi nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận bằng cả tâm hồn. Những người thưởng thức cái đẹp ấy không chỉ nhìn mà còn cảm nhận bằng các giác quan khác. Do đó, người chơi chữ hãy biết tìm trong chữ hương vị của sự lương thiện. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.
Nghe lời khuyên của người tử tù, viên quản ngục xúc động “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, Huấn Cao đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện tốt đẹp hơn. Trong khung cảnh đen tối nơi ngục tù, hình tượng nhân vật Huấn Cao trở nên cao lớn lạ thường, vượt trên cả những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Qua đó, tác giả ca ngợi niềm tin vững chắc của con người: Trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân – thiện – mỹ.
Có nhiều ý kiến cho rằng Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm trong sáng tác chỉ là cái đẹp và nghệ thuật. Tuy nhiên qua truyện ngắn Chữ người tử tù, tác giả đã ca ngợi cái đẹp luôn gắn liền với cái thiện lương của con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật giai đoạn trước cách mạng. Bên cạnh đó, truyện ngắn còn là lời ca ngợi viên quản ngục và thầy thơ. Họ là những người sống trong môi trường độc ác, xấu xa nhưng vẫn luôn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó, tác phẩm còn thể hiện tấm lòng yêu nước và căm ghét bọn thực dân thống trị đương thời. Đồng thời, thể hiện thái độ trân trọng đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lý truyền thống của nhà văn.
Chữ người tử tù là tác phẩm bi tráng và bất diệt về tấm lòng thiên lương và nhân cách cao cả của một con người. Hành động cho chữ của nhân vật Huấn Cao mang ý nghĩa cái tài hoa trong sáng sẽ luôn truyền lại cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lại này thì tức là cái đẹp sẽ mai một. Và đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời mà tác giả muốn thể hiện thông qua tác phẩm. Ngoài ra, tác giả sử dụng nhịp điệu chậm rãi và những câu văn giàu tính liên tưởng. Từ đó, giúp người đọc có thể cảm nhận từng hình ảnh hiện lên một cách chân thật. “Một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả của tác giả cũng thể hiện tư tưởng cách rõ nét nhất khi chuyển từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngoài ra, tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng bút pháp tả thực và phân tích tâm lí nhân vật.
Cảnh cho chữ trong tác phẩm thể hiện sự sáng tạo và tư tưởng độc đáo của tác giả Nguyễn Tuân. Thông qua chi tiết này, tác giả muốn thể hiện tâm sự tiếc nuối và lòng ngưỡng vọng với những con người tài hoa và có nhân cách cao thượng. Đồng thời, tác giả muốn bày tỏ nỗi niềm đau xót khi cái đẹp chân chính đang ngày càng bị phá hủy. Ta có thể thấy rằng tác phẩm đã nói lên nỗi niềm nhân văn rằng dù cuộc đời có đen tối thì vẫn luôn có những tấm lòng tỏa sáng.
Mẫu 2 phân tích ý nghĩa cảnh cho chữ
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Những sáng tác của ông luôn gắn liền với phong cách tài hoa, độc đáo. Truyện ngắn Chữ người tử tù là tác phẩm xuất sắc thể hiện được phong cách độc đáo ấy. Đặc biệt nổi bật hơn cả là cảnh cho chữ trong tù của nhân vật Huấn Cao.
Có thể nói rằng hành động cho chữ không đơn thuần chỉ là một hành động của một người viết chữ đẹp và một người yêu mến cái đẹp. Mà đó còn là sự đấu tranh giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái thiện và cái ác, giữa sự áp bức và mong muốn tự do.
Trước hết đó là sự chiến thắng của ánh sáng khi đối diện với bóng tối. Khi chính Nguyễn Tuân đã nhắc đến trong truyện, cảnh cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Bởi bình thường sẽ không có cảnh tượng cho chữ đẹp đẽ và trang nghiêm diễn ra trong chốn tù ngục tăm tối và nhơ bẩn này. Tuy nhiên ở đây lại có, vì nơi đây có chiến thắng của “thiên lương” con người. Với nghệ thuật đặc tả tài tình và thủ pháp tương phản sắc sảo, nhà văn đã cho ta thấy những cảnh tượng đối lập. Từ đó làm bật ý nghĩa sâu xa và thâm thúy về sự chiến thắng cái thiện. Cảnh tượng cho chữ xảy ra vào lúc đêm khuya ngay trong tại nhà tù tăm tối. Nhà ngục vốn đã tối, lại vào lúc đêm khuya khoắt khiến bóng tối trở nên dày đặc hơn cả. Tuy nhiên “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn nền hồ” và “lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo”. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả miêu tả đến hai lần cái ánh sáng đỏ rực và cái “lửa đóm cháy rừng rực” đã đẩy lùi cái bóng tối dày đặc trong phòng giam. Tác giả muốn nhấn mạnh đến cái ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu ấy. Không chỉ là sự đối lập của ánh sáng và bóng tối theo ý nghĩa sắc màu vật lý, mà sâu xa hơn cả còn là sự đối lập mang ý nghĩa nhân sinh con người. Điều này thể hiện ánh sáng của cái thiện, thiên lương đã đẩy lùi bóng tối của sự tàn bạo và độc ác. Ánh sáng ấy đã khai tâm cũng như đã cảm hóa con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện.
Không chỉ thể hiện chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Cảnh tượng “xưa nay hiếm đó” còn là sự chiến thắng của cái đẹp, cao thượng đối với sự phàm tục và nhơ bẩn. Cái phàm tục được tác giả thể hiện rất rõ trong cảnh “một buồng chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Ngược lại, cái đẹp và cao thượng được nhắc đến sâu sắc trong hai chi tiết mang ý nghĩa tượng trưng là màu trắng tinh của phiến lụa óng và mùi thơm từ chậu mực bốc lên. Đây đều là những đồ vật dường như không thể có trong chốn tù ngục. Màu trắng của phiến lụa tượng trưng cho sự tinh khiết của con người lương thiện, và mùi thơm của thoi mực là hương thơm của tình người, tình đời. Sự đối lập được nhắc đến đã làm nổi bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục. Tâm hồn của nhân vật Huấn Cao bát ngát đến chừng nào khi ông nói về mùi thơm của mực: “Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không”. Qua đó ta có thể thấy răng, không có nhà ngục nào tồn tại nữa, chẳng còn bóng tối, cũng chẳng còn phân chuột phân gián nữa. Tất cả những gì còn tồn tại chỉ là mùi thơm của mực và sự tinh khiết của tấm lụa. Điều này cũng khiến ta liên tưởng đến sự thơm tho và tinh khiết của thiên lương con người.
Hơn hết, tác giả còn thể hiện sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Đây là sự phối hợp giữa những con người trong cảnh cho chữ nơi ngục tù. Đặc biệt ở đây, ta thấy có sự đối lập và thay đổi ngôi vị. Bởi lẽ người tù giờ đây lại trở thành người làm chủ khi ung dung cho chữ. Trái lại, lính quản ngục lẽ ra phải là người răn đe thì lại lại khúm núm, sợ hãi và xúc động trước những lời khuyên dạy của Huấn Cao. Sự đối lập ấy được khắc họa đậm nét trong cảnh cho chữ nhằm nhấn mạnh chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu. Không phải là cảnh cho chữ bình thường mà đây là cảnh thọ giáo thiêng liêng giữa người cho chữ và người nhận chữ. Những lời khuyên dạy đĩnh đạc của Huấn Cao không khác gì một chúc thư về lẽ sống. Và lời khuyên đầy tình người ấy trở nên sức mạnh cảm hóa một tâm hồn bấy lâu nay vẫn cam chịu làm nô lệ và lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện. Câu nói nghẹn ngào trong nước mắt của viên quản ngục “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, của thiên lương con người.
Cảnh cho chữ trong tác phẩm là một cảnh đặc sắc. Qua đó, làm nổi bật vẻ đẹp nhân cách của các nhân vật. Đồng thời, thể hiện những khát vọng nhà văn Nguyễn Tuân gửi gắm rằng cái đẹp và sự tài hoa sẽ chiến thắng cái xấu xa và tàn nhẫn.
Mẫu 3 phân tích cảnh tượng cho chữ của nhân vật Huấn Cao ngắn gọn
Chữ người tử tù là một trong những tác phẩm truyện ngắn đặc sắc trong tập Vang bóng một thời của tác giả Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, là người nghệ sĩ tài hoa, người nghĩa sĩ bản lĩnh và khí phách hơn người. Đặc biệt, chi tiết cho chữ cuối tác phẩm được đánh giá là tình tiết đặc sắc nhất. Qua đó, góp phần phát triển mạch truyện và bộc lộ vẻ đẹp cao thượng của nhân vật Huấn Cao.
Cảnh cho chữ đã diễn ra trong một không gian và thời gian vô cùng đặc biệt. Nơi Huấn Cao viết lên những nét chữ “vuông lắm, đẹp lắm” không phải là một không gian sạch sẽ, phong cảnh hữu tình mà lại là không gian u tối và ngột ngạt của chốn ngục tù. Tác giả miêu tả không gian ấy là “một buồng tối, chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Thời gian cho chữ cũng rất đặc biệt, bởi đó không phải ban ngày hay bất cứ thời điểm đẹp đẽ nào khác trong ngày mà lại là giữa đêm khuya khoắt. Khi ấy bóng tối đã bao phủ và khi mọi người đều chìm vào giấc ngủ. Huấn Cao lựa chọn thời điểm đặc biệt như vậy là vì muốn giúp viên quản ngục và thầy thơ tránh được những điều tiếng không đáng có. Bởi ai cũng hiểu ngục tù là nơi đầy rẫy những thị phi và những chiêu trò hãm hại nhau. Huấn Cao không muốn một người có nhân cách tốt đẹp như viên quản ngục lại bị cuốn vào vòng xoáy của sự bon chen xấu xa ấy.
Điều đặc biệt ở đây là người cho chữ lại chính là Huấn Cao – một tử tù. Điều này khác xa hoàn toàn với dáng vẻ của những cao nhân mặc khách khi cho chữ. Huấn Cao ở đây không có được dáng vẻ tự do về thể xác, uống rượu hay thưởng trà mà cổ đeo gông chân vướng xiềng và vẽ lên những nét chữ vuông vắn trên giấy lụa trắng. Đồng thời, người xin chữ là viên quản ngục, là một người có đam mê với cái tài viết chữ đẹp của Huấn Cao. Điểm đặc biệt khác lạ ở đây là vị trí của người cho chữ và kẻ xin chữ lại hoàn toàn trái ngược, Huấn Cao là kẻ tử tù nguy hiểm đang phải chịu biệt giam còn viên quản ngục lại là người cai quản và có trách nhiệm giam giữ những kẻ tử tù nguy hiểm.
Tuy nhiên khi cho chữ thì vị trí của hai người lại có đối lập hoàn toàn, viên quản ngục đáng lẽ là người bề trên, kẻ nắm trong tay quyền lực lại trở nên khúm núm và phục tùng cho kẻ tử tù.“Tay run run bê chạy mực” thì Huấn Cao kẻ tử tù lại trở thành người nắm thế chủ động, người tặng chữ và tặng những lời khuyên cho viên quản ngục. Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục nên thay đổi môi trường sống để cho thiên lương được trong sáng. Quản ngục đã vô cùng xúc động và quỳ lạy Huấn Cao “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Qua những chi tiết miêu tả về không gian và thời gian, ta có thể thấy được khung cảnh cho chữ rất khác biệt. Ngay cả vị trí và quyền thế của những nhân vật cũng hoàn toàn bị đảo ngược. Điều này mang đến những cảm nhận độc đáo cho người đọc. Đồng thời cũng thể hiện được quan niệm và tư tưởng sâu sắc của nhà văn Nguyễn Tuân về cái thiện sẽ luôn chiến thắng cái ác.
Cảnh cho chữ của nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục xảy ra trong khung cảnh tối tăm của nhà giam. Tuy vậy bức họa ấy lại đẹp đẽ hơn bao giờ hết bởi nó được chiếu sáng nhờ vào cái tâm và ánh sáng của thiên lương.
Xem thêm:
- Tổng hợp giáo án Chữ người tử tù với đầy đủ nội dung về mục tiêu, hoạt động
- Tuyển tập mở, kết bài Chữ người tử tù (trực tiếp, gián tiếp) hay nhất
- Mẫu phân tích nhân vật người anh hùng Tê-De qua các sự kiện
Kết luận
Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù là cảnh tượng mang ý nghĩa và tính nhân văn cao. Tổng hợp những bài phân tích về chi tiết này giúp học sinh có sự tham khảo và chọn lọc. Từ đó biết cách làm bài và áp dụng vào bài văn của chính mình.