Hóa thân thành người Cháu và Bà kể lại bài thơ Bếp Lửa
Đóng vai người cháu, người bà kể lại câu chuyện Bếp lửa là đề bài khó khiến nhiều bạn bối rối khi gặp. Ngoài việc hiểu rõ tác phẩm, bạn cần đặt mình vào hoàn cảnh của từng nhân vật để miêu tả chính xác nội tâm, suy nghĩ của họ. Những gợi ý từ Thepoet magazine là tài liệu tham khảo tuyệt vời giúp bạn hoàn thành yêu cầu này.
Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa
Dàn ý và một số bài viết mẫu cho bạn tham khảo như sau:
Dàn ý đóng vai người cháu trong Bếp lửa
Phần | Nội dung |
Mở bài | |
Thân bài |
Cách 1:
Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn hồi tưởng
Hồi tượng lại kỉ niệm bên bà
Suy ngẫm về bà
Cảm nghĩ khi đã trưởng thành và nỗi nhớ bà
|
Cách 2:
Hình ảnh bếp lửa gợi lên trong tâm trí Cảm nhận được hình ảnh bếp lửa hiện lên trong tâm trí, quá khứ vẫn hiện về như một cuộn phim quay chậm. Kí ức tuổi thơ
Kể lại nội dung bài thơ Kể lại nội dung bài thơ “Bếp Lửa” của Bằng Việt. Từ những kỷ niệm tuổi thơ bên bà, tôi lại nhớ về hình ảnh của bà và bếp lửa. Cảm nghĩ khi trưởng thành Dù giờ đây tôi đã trưởng thành, nhưng tôi không thể nào quên được hình ảnh của bà và hình ảnh bếp lửa, chặt chẽ liên kết với nhau. |
|
Kết bài | Nêu suy nghĩ của bản thân về bà và ngọn lử mà bà nhóm lên. |
5 Mẫu đóng vai người cháu trong bài thơ Bếp lửa
Dưới đây là 5 bài viết đóng vai người cháu theo nhiều phong cách khác nhau để bạn tham khảo thêm:
Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa ngắn mẫu 1
Khi nhìn thấy hình ảnh ngọn lửa bập bùng trong bếp, tôi chợt nhớ về những năm tháng tuổi thơ bên bà và chiếc bếp lửa đơn sơ. Thời ấy tuy nghèo khó, khổ cực nhưng sao bình dị, an tâm đến lạ.
Bếp lửa đã trở thành hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong mỗi gia đình người Việt từ khi tôi còn bé. Từ những ngày nắng cho đến những ngày mưa bão, không có ngày nào bà không nhóm lửa để nấu ăn. Mùi khói từ bếp lửa đã trở nên thân thuộc, ám vào quần áo và cả tâm hồn của tôi từ khi tôi bốn tuổi. Trải qua những năm đầy đau khổ của cuộc chiến tranh, bố mẹ tôi bận rộn kiếm sống, chỉ còn lại hai bà cháu nương tựa nhau để sống sót. Những kỷ niệm sống bên bà là những thời gian đẹp đẽ nhất của tuổi thơ tôi. Bà dạy tôi học hành, chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ và luôn chăm lo cho tôi mỗi ngày.
Bếp lửa của bà là nơi sinh hoạt quan trọng, từ đó tôi hiểu được nỗi khổ của cuộc sống, và dù thời gian có trôi qua như thế nào thì bà vẫn giữ thói quen nhóm lửa để sưởi ấm và nuôi dưỡng tình yêu thương, hy vọng và niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Bây giờ khi tôi đã trưởng thành, tôi lại nhớ lại những kỷ niệm đơn sơ, ngây dại ấy. Tôi không thể nói hết được tình yêu của mình dành cho bà và dành cho quê hương Việt Nam.
Khi phân tích bài thơ Bếp lửa, bạn có thể sử dụng những cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật người cháu trong đoạn văn tưởng tượng trên.
Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa có yếu tố nghị luận mẫu 2
Những cánh đồng rộng lớn ở Nga luôn nhắc nhở tôi về quê hương Việt Nam, nhất là vào ngày tuyết phủ trắng xóa, thời tiết lạnh giá còn tôi thì ngồi run rẩy bên lò sưởi. Nhìn ngọn lửa bập bùng, tôi nhớ đến bà và cái bếp lửa trong căn bếp nhỏ nhưng ấm áp của bà.
Tôi sinh ra vào thời kỳ chiến tranh hỗn loạn, nơi đất nước bị chia cắt, bị giày vò bởi chiến tranh. Gia đình tôi có truyền thống yêu nước sâu sắc, từ khi còn nhỏ, bố mẹ tôi đã luôn vắng nhà để phục vụ Tổ quốc trong những nơi chiến sự gian khổ. Vì thế, tôi đã sống cùng bà từ những ngày thơ ấu. Tôi có những ký ức không thể nào quên về bà, đặc biệt là hình ảnh bà luôn gắn với cái bếp lửa ấm áp kia. Bà thường dậy từ sớm để nhóm bếp lửa chờn vờn sương sớm, để nhóm lên cái ngọn lửa bởi tình thương, nồng nàn của bà. Nghĩ về bếp lửa, tôi lại thương bà mênh mang, sự tần tảo, vất vả của bà sao tôi có thể quên được.
Nhớ lại năm tôi mới lên bốn tuổi, năm 1945 – năm đói kém đến tàn khốc. Tôi chứng kiến nạn đói ập đến từng gia đình, gây ra cái chết của hàng triệu người dân, là một biểu hiện của tội ác chiến tranh, một thời kỳ đau khổ của dân tộc Việt Nam. Bố tôi đi xa làm nghĩa vụ trong khi tôi vẫn ở với bà, bà nhóm bếp để khói xua tan cái mùi chết chóc. Nghĩ lại, đến giờ mũi vẫn cay! Cay vì mùi khói! Cay vì một thời kỳ bi thương, đói khổ của dân tộc ta!
Tám năm ròng tôi cùng bà nhóm bếp, bà bao bọc, che chở tôi, bà dạy tôi làm việc, bảo vệ tôi học hành. Tôi lớn lên trong sự dạy dỗ, chăm sóc của bà. Nhớ đến mùa hè ấy, tiếng chim tu hú trên những cánh đồng xa, tiếng tu hú vang vọng như thế nào! Tiếng tu hú như làm thức tỉnh những kỷ niệm, những mong nhớ trong tôi. Bà thường kể về những ngày ở Huế cho tôi nghe, tôi luôn hào hứng, thích thú với những câu chuyện của bà, từng giọng nói ấm áp của bà chạm đến trái tim tôi, giúp tôi biết thương yêu, chia sẻ với người khác nhiều hơn. Nghĩ đến đây, tôi lại trách thầm những con chim tu hú sao không ở bên bà mà lại kêu chi thong dong trên những cánh đồng xa?
Cuộc sống vẫn trôi qua yên bình với đứa trẻ như tôi, nhưng không ngờ năm đó lại là năm kẻ thù xâm lược dữ dội, để lại một kí ức đau lòng sâu sắc trong tâm trí tôi. Chúng đốt cháy làng xóm, làm tan hoang, lầm lũi làm lại từ đống tro tàn. May mắn là bà tôi vẫn sống, có người hàng xóm giúp đỡ, bà dựng lại căn nhà đơn giản trên đống tro tàn. Lúc đó tôi sợ đến nỗi khóc, nói với bà rằng: “Cháu muốn viết thư cho bố mẹ, bảo bố về nhà chăm sóc, bảo vệ bà và cháu mình.” Nhưng bà vẫn kiên cường, vẫn đầy niềm tin vào cuộc chiến của dân tộc. Bà dặn tôi phải bình tĩnh rằng: “Bố đang ở chiến khu, còn việc bố, mày đừng kể lung tung, hãy bảo rằng nhà vẫn yên ổn!” Rồi từ sáng sớm đến chiều tối, bà luôn nhóm bếp lửa lên, nhóm lên tình thương, nồng nàn của bà, nhóm lên niềm tin vững chắc của bà vào cuộc sống, vào tương lai của đất nước.
Ngày qua ngày, bếp lửa vẫn nhóm lên, nhóm lên niềm yêu thương, ngọt ngào của khoai sắn, nhóm lên hương vị thơm ngon của nồi xôi gạo mới, chia sẻ niềm vui. Ôi thật kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa! Bếp lửa kì lạ vì nó cháy lên trong mọi hoàn cảnh, dù nắng hay mưa, đói khát hay chiến tranh, nó vẫn cháy lên. Nó chưa bao giờ tắt vì bất cứ lí do gì.
Bếp lửa thật thiêng liêng và trang nghiêm, nó gắn liền với hình ảnh người bà đáng kính của tôi, là biểu tượng cho hi vọng chiến thắng của dân tộc, cháy lên không bao giờ bị dập tắt, vẫn ấm áp, đầy yêu thương. Giờ đây tôi đã đi xa, tiếp nhận được tri thức của nhân loại. Dù có ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, nhưng không có gì bằng ngọn lửa của bà tôi, không có niềm vui nào bằng những ngày sống bên bà, bà ơi!
Ngày nay tôi đang ở nơi đất khách quê người, nơi xa lạ, không có ai thân thiết làm tôi nhớ về Tổ quốc, nhớ về bà như ngày xưa. Ánh lửa lò sưởi bập bùng ngay trước mắt, nhưng không có mùi khói cay của bếp lửa bà tôi. Ôi bà ơi, con nhớ mùi khói cay và hình ảnh bếp lửa gắn bó với bà cháu mình, cháu chỉ muốn nhắc bà rằng: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa mẫu 3
Xa quê, xa bà đã bao năm rồi nhưng chưa một giây phút nào tôi không nhớ về những ngày tháng khi có bà ở bên. Thời tiết Nga độ này lạnh lắm, từng cơn gió lạnh, từng đợt bão tuyết cắt da cắt thịt lại càng khiến tôi nhung nhớ về Việt Nam và những kí ức quý giá ấy.
Năm tôi lên bốn, tức năm 1945, đất nước đang chịu đựng cơn nạn đói kinh hoàng, khiến cuộc sống trở nên vô cùng khó khăn. Bố mẹ tôi phải ra ngoài kiếm sống, và tôi được bà chăm sóc. Tôi còn nhớ nhà nhà đều đói, cả người lẫn gia súc. Nạn đói khiến nhiều người chết, và để giảm bớt sự tàn phá, người dân đốt rơm, làm cho khói bủa vây, cay mắt. Cảm giác cay này vẫn còn trong tôi cho đến ngày nay. Nhưng dù khó khăn thế nào, bà vẫn cố gắng thắp lên ngọn lửa, như là một niềm hy vọng, một sự sống mãnh liệt.
Bố mẹ tôi đáp ứng lời kêu gọi của Tổ quốc, để lại tôi với bà. Tám năm dài, tôi và bà cùng nhau chống chọi, dù có gian khổ đến mấy, bà vẫn không bao giờ ngừng thắp lên ngọn lửa, thắp lên hy vọng. Tôi nhớ những đàn chim tu hú hót râm ran ngoài cánh đồng, và tôi cảm thấy họ như là những người bạn đồng hành của bà. Tôi đã quen với hơi ấm thân quen của bà, với việc sớm mai thức dậy cùng bà để thắp lên “hy vọng” mỗi ngày.
Những câu chuyện của bà vẫn in sâu trong tôi. Bà thường kể về những ngày tháng ở Huế, và mỗi lần đó, tôi luôn thấy thú vị và háo hức. Được nằm trên đùi bà, cảm nhận những ngón tay ấm áp của bà trượt qua mái tóc, nghe những câu chuyện vui vẻ từ bà, tất cả đã làm cho tuổi thơ tôi tràn ngập hạnh phúc.
Bố mẹ đi xa, bà đã thay bố mẹ dạy tôi nhiều điều, bảo vệ tôi, lo cho tôi, và giúp tôi học hành. Tôi nhận ra sau này rằng, bà luôn yêu thương và quan tâm đến tôi, bà đã vượt qua mọi khó khăn để tôi được sống một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhớ lại những lúc ấy, tôi không cầm được nước mắt…
Cuộc sống yên bình cho đến khi… Đêm nọ, kẻ thù tấn công, làng cháy rụi. Tôi và bà phải bỏ chạy. Khi mọi chuyện ổn định lại, bà nắm chặt tay tôi bước vào làng hoang tàn, âm thanh khóc lóc của người dân vẫn còn vọng lại trong tai tôi. Chúng tôi trở về với căn nhà nhỏ của chúng tôi, mặc dù nó đã bị phá hủy, nhưng nhờ sự giúp đỡ của các hàng xóm, chúng tôi đã có thể dựng lại nó. Đêm đó, ngồi bên bà, bà nói với tôi: “Nếu viết thư cho bố, đừng kể cho bố biết điều này, điều kia, chỉ nói rằng chúng ta vẫn an toàn. Đừng làm bố lo lắng.”
Đó là bà, dù bất kể hoàn cảnh nào, bà vẫn kiên cường. Người phụ nữ đó là niềm tự hào lớn lao của tôi, bà không bao giờ phàn nàn hay tỏ ra mệt mỏi, bà luôn cố gắng giữ cho tôi luôn lạc quan. Dù là sớm, là chiều, dù đã qua bao năm tháng, bà vẫn luôn thắp lên ngọn lửa ấm áp đó. Ngọn lửa mà bà đã dành cho tất cả tình thương của mình.
Dù tôi đang ở nơi xa Tổ Quốc, cho dù tôi không thể ở cùng bà, dù tôi đang thấy những điều mới lạ, tôi vẫn không quên hình ảnh người bà thân thương cùng bếp lửa thắp lên niềm tin của tôi. Tôi tin bà vẫn luôn ở đây, đang thắp lên ngọn lửa ấm áp trong lòng tôi. “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” – Đó là câu hỏi tôi thường tự hỏi mỗi khi nhớ đến bà.
Nơi đây, những ngày sống bên bà đã là một phần ký ức ngọt ngào nhất của tuổi thơ tôi. Bà không chỉ là người bảo bọc tôi khỏi sự cô đơn và nghèo khó, mà còn là người đã truyền cho tôi biết bao nhiêu điều về lòng yêu nước, lòng hiếu thảo và lòng kiên nhẫn. Bếp lửa của bà không chỉ là nơi nấu nướng, mà còn là biểu tượng của sự hy vọng và niềm tin vững chắc vào một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Những ngày tháng trôi qua, tôi bước vào cuộc sống mới với nhiều thử thách và cơ hội. Nhưng dù có đi đâu, có làm gì, tôi luôn mang trong mình hình ảnh bà và bếp lửa ấm áp kia. Đó là ngọn lửa không bao giờ tắt, là tình yêu thương và sự hy vọng vĩnh cửu của một thế hệ, truyền lại cho những thế hệ sau.
Đó là câu chuyện về bếp lửa của bà, câu chuyện về một tình yêu thương vĩnh cửu và một sự hy vọng mãnh liệt. Bà đã dạy cho tôi rằng, trong cuộc sống này, dù có gặp phải bất kỳ khó khăn nào, niềm tin và tình yêu luôn là điều quan trọng nhất. Và tôi, đứa con trai nhỏ của bà, hôm nay xin hứa sẽ ghi nhớ và theo đuổi những giá trị ấy suốt cuộc đời.
Hóa thân thành người cháu trong bài Bếp lửa mẫu 4
Mái nhà là điểm tựa, là nguồn cảm hứng và là biết bao những suy tư, nhung nhớ của đời người. Và đặc biệt, nhà là nơi có những người thân yêu mà ta hằng trân trọng. Dù đang cách nhà hàng ngàn, hàng vạn cây số nơi nước Nga lạnh lẽo nhưng trong tôi luôn chất chứa hình ảnh ngọn lửa ấm áp và người bà hiền dịu, tần tảo sớm hôm của mình.
Tôi lại nhớ về ngọn lửa ấy… Ngọn lửa mà bà thường đốt lên mỗi sáng sớm. Ngọn lửa mà bàn tay gầy guộc của bà cẩn thận nuôi dưỡng, để nó có thể soi sáng và ấm áp…
Cái ngọn lửa thân thuộc ấy, tôi đã quen từ khi còn nhỏ. Những năm đó liên quan đến nạn đói của dân tộc năm 1945, khi những hình ảnh đau lòng về những người chết vì đói khắp nơi. Bố tôi phải làm việc vất vả. Đến giờ tôi vẫn cảm thấy xót xa khi nhớ lại những thời kỳ đó…
Và sau đó là tám năm dài, tôi đã có những kỷ niệm đẹp với bà, những khoảng thời gian nhìn thấy ngọn lửa bùng cháy. Khi tiếng hót của con tu hú báo hiệu mùa hè sắp đến, bà ơi, liệu bà còn nhớ không? Tôi vẫn nhớ, âm thanh của con tu hú kia, và những câu chuyện bà thường kể về những ngày ở Huế. Tiếng hót của con tu hú vang vọng mãi trong tôi… Đó là những ngày chiến tranh, khi bố mẹ tôi phải vắng nhà vì công tác xa, và tôi được bà nuôi dạy, dạy học. Bà thay thế cha mẹ tôi trong việc dưỡng dục và dạy bảo, giúp tôi trưởng thành.
Rồi đến năm đốt làng cháy rụi, khi hàng xóm quay trở lại trong sự tàn phá, nhờ sự đoàn kết của làng xóm, mọi người đã giúp bà xây lại nhà tranh. Với lòng kiên cường và lo lắng cho bố mẹ tôi, bà luôn nhắc nhở tôi rằng:
“Bố đang ở chiến khu, bố còn nhiều việc phải làm. Con phải viết thư cho bố, không được nói những chuyện phiền não, hãy bảo rằng nhà mình vẫn yên bình để bố mẹ an tâm làm việc!”
Và hàng ngày, từ sáng đến chiều, bà vẫn luôn làm công việc của mình, nhóm lửa. Ngọn lửa ấy chứa đựng tình yêu thương của bà, luôn ấm áp trong lòng tôi, là nơi chứa đựng niềm tin vững chắc của bà…
Cuộc đời của bà luôn là những nỗ lực không ngừng nghỉ. Bà đã làm việc vất vả để nuôi tôi lớn lên, và trước đó, bà đã làm việc vất vả để nuôi dưỡng bố tôi. Nhiều năm trôi qua, nhưng cho đến bây giờ, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, nhóm lửa ấm áp, nấu nồi khoai sắn với tình yêu thương để nuôi dưỡng ước mơ của tôi, cho đến khi tôi có thể đi học ở Liên Xô. Bếp lửa của bà cũng chứa đựng tình cảm với cả làng xóm. Ôi, bếp lửa của bà, giản dị mà rất thiêng liêng!
Giờ đây, khi tôi đã đi xa, với khoảng cách nửa vòng Trái Đất, một cuộc sống mới đã mở ra trước mắt tôi. Nơi đây, có rất nhiều khói, nhiều lửa, và nhiều niềm vui. Nhưng tôi không thể quên nhắc nhở bản thân, “Sáng mai, bà đã nhóm lửa lên chưa?”
Bà ơi! Cháu yêu bà và thương bà biết bao. Cuộc sống hiện đại có thể thay đổi lòng người, nhưng hình ảnh của người bà nhóm lửa yêu thương mỗi ngày sẽ mãi không phai nhạt trong tâm trí cháu. Sống ở xứ xa này, mặc dù có vui vẻ, nhưng khi cô đơn, cháu lại nghĩ về mái nhà tranh, nơi bà kể chuyện cho cháu nghe, nơi bà dạy cháu học, nơi đã giúp cháu trưởng thành, và nơi có ngọn lửa hồng thắp lên những ước mơ của cháu.
Đóng vai người cháu trong bài thơ Bếp lửa mẫu 5
Tôi dám chắc, tuổi thơ là khoảng thời gian tuyệt vời mà bất cứ ai trong chúng ta cũng muốn được quay lại dù chỉ một lần. Những ngày tháng hạnh phúc, được che chở bởi cha mẹ, ông bà luôn khiến tôi thổn thức nơi xứ người xa lạ này. Vượt qua thăng trầm, vượt qua năm tháng, bà và chiếc bếp lửa đơn sơ luôn khắc sâu trong lòng tôi.
Đối với tôi, nhớ về bà bên bếp lửa ấm áp mỗi sớm mai luôn là một phần của những chặng đường tôi đã đi qua. Nỗi nhớ ấy lại càng thêm cay đắng trong những năm tháng sống xa quê hương, những lần đón những đợt gió tuyết ở đất nước Bạch Dương. Trong những khoảnh khắc lặng lẽ, khi nhìn khói từ những căn nhà xa xôi, một trời nhớ thương lại ùa về, về bà và về ngọn lửa hồng sưởi ấm tuổi thơ tôi, về hương vị quê nhà…
Theo những dòng hoài niệm, ký ức dẫn tôi về với những đêm tối đói khát trong năm 1945. Ngôi làng bé nhỏ nơi tôi sinh sống, mọi nhà đều gần như đói khổ. Trong những tháng ngày cực khổ ấy, để giữ lấy sự sống mỗi ngày, bố tôi phải đi thu rác bằng xe, và dù vậy cũng chỉ đủ để cầm bao rau cháo. Nỗi đói cùng nghèo khó của năm Ất Dậu như một nỗi ám ảnh trong tâm hồn trẻ thơ của tôi. Chính mùi khói từ bếp lửa của bà đã mang đến cho tôi sự ấm áp, an lòng và xua tan cái khô khốc của mùi tử khí nơi làng quê nghèo khó. Một hương thơm nhẹ nhàng, tự tình yêu nồng hậu của bà, đã sưởi ấm tôi suốt những năm tháng thơ ấu, và về sau, trên mỗi hành trình dài và rộng lớn của cuộc đời, mùi khói bếp ấy vẫn khiến tôi cảm thấy nhức nhối khi nhớ lại. Sau đó, khi chiến tranh bùng nổ, bố mẹ tôi đi làm cách mạng, tôi sống với bà trong năm tháng đầy khó khăn. Những kỷ niệm thơ ấu ấy, bên cạnh bà và bếp lửa sưởi ấm, còn có tiếng chim tu hú. Tiếng hót của chim kia vang vọng, lẫn lộn giữa không gian vắng vẻ, như thể nó cầu mong được che chở, ấp ủ bởi tình thương của bà. Tiếng tu hú ấy dường như còn nặng nề hơn, khiến tôi cảm thấy biết ơn và trân trọng những ngày tháng hạnh phúc được bà che chở. Bên bếp lửa bập bùng, tôi nghe bà kể về cuộc đời bà ở Huế, những lúc bà chia sẻ những niềm hy vọng và ước mơ về một tương lai tươi sáng hơn. Bà là người đầu tiên dạy tôi những bài học quý giá về cuộc sống và làm người. Những bài học ấy đã trở thành một điểm tựa vững chắc cho những ước mơ lớn lao của tôi. Ngọn lửa ấm áp đó, với tình yêu thương nồng nàn của bà, mang đến sự an ủi trong những ngày tháng thiếu vắng cha mẹ. Bà là niềm hy vọng vững chắc, giúp tôi bước qua những thử thách của cuộc sống.
Cuộc sống vẫn cứ thế, nghiệt ngã và luôn thử thách con người. Vào một ngày, tiếng súng đạn của chiến tranh đổ xuống làng tôi. Trước những lưỡi súng và quả bom phá hủy của quân địch, ngôi làng tôi như một đống tro tàn, nhà cửa của mọi người đều bị cháy rụi. Tôi biết lúc đó bà phải chịu đựng nỗi đau và nước mắt. Nơi báu vật của bà và tôi không còn, nhưng ý chí và nghị lực của bà, được rèn luyện trong những năm tháng khó khăn của cuộc đời, không cho phép bà gục ngã. Bà dẫn dắt tôi vượt qua mọi thử thách. Tôi hiểu rằng những cảnh khốn khó mà tôi đã trải qua không thể nào so sánh được với những gian khổ, nhọc nhằn và niềm đau của bà, đặc biệt là khi bà lo lắng cho con trai đang bên chiến trường. Những năm tháng đó, nhờ sự đoàn kết của làng xóm, bà và tôi đã xây dựng lại căn nhà nhỏ trên nền đất cũ. Bà đã truyền cho tôi ý chí và nghị lực để sống và vươn lên trong cuộc đời. Thật kỳ diệu khi tôi tin rằng những gì đã bị thiêu cháy trong ngọn lửa tàn bạo ấy đã được tái sinh trong bếp lửa của bà. Tuổi thơ của tôi được bà che chở qua mọi gian khó. Chính ngọn lửa của trái tim bà đã là ngọn lửa bền bỉ, vẫn tồn tại qua thời gian, của bếp lửa ấy.
Năm tháng dần trôi, khi tôi trưởng thành và theo đuổi những ước mơ, những hoài bão lớn lao, tôi không thể nào quên được ngọn lửa hồng bên góc bếp, nơi có tình yêu và sự hy sinh lặng lẽ của người bà, mà tôi dành cả cuộc đời để biết ơn và trân trọng.
Trong câu chuyện của tôi, ngọn lửa bếp lửa không chỉ là nơi nhen nhóm lên những giấc mơ mới, mà còn là một biểu tượng cho tình thương và sự hy sinh của bà. Mỗi ngày, bà đã dạy tôi bằng những hành động, không chỉ bằng lời, rằng trách nhiệm và lòng hiếu thảo là những giá trị quý báu nhất trong cuộc sống. Những bữa cơm ấm áp dưới ánh lửa bếp, dường như luôn mang đến sự an yên và lòng biết ơn vô hạn trong tâm hồn tôi.
Thời gian trôi đi, tôi dần lớn lên và ra đi khắp nơi trên thế giới. Nhưng dù ở đâu, trong tâm trí tôi vẫn luôn có hình ảnh bà, bên cạnh chiếc bếp lửa hồng thân thương. Đó là nơi tôi tìm thấy niềm tin và sức mạnh để vượt qua những thử thách của cuộc sống. Bà đã dạy cho tôi rằng dù có chông gai hay sóng gió, con người luôn có thể tự tin bước đi và vượt qua mọi khó khăn.
Những lời dạy của bà vẫn còn sống mãi trong tôi, như những ngọn lửa không bao giờ tắt. Đó là lý do tại sao, mỗi khi tôi nhớ về quê nhà và về bà, tôi luôn cảm thấy như đang được ôm trọn trong vòng tay yêu thương của bà. Đó là tình yêu thương vĩnh cửu mà tôi sẽ mang theo suốt cuộc đời.
Với tôi, bà không chỉ là người bà, mà còn là một người anh hùng trong cuộc đời này. Bà đã cho tôi biết rằng, không có gì quý hơn là gia đình và những giá trị mà chúng ta gìn giữ. Bà đã là nguồn cảm hứng vĩnh viễn để tôi mãi mãi sống với trái tim đầy yêu thương và lòng biết ơn.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lời tri ân sâu sắc nhất đến bà, người đã làm nên tất cả, và đã dẫn dắt tôi trên con đường của tình người và sự nghiệp. Tôi luôn tự hào và biết ơn có bà là người mẹ thứ hai của mình, người đã dạy cho tôi rằng sự hi sinh và lòng hy sinh là hành động vĩ đại nhất mà con người có thể mang lại cho nhau.
Đóng vai người bà kể lại bài thơ Bếp lửa
Để hóa thân hoàn hảo vào người bà trong bài thơ Bếp lửa, đồng thời kể lại nội dung bài thơ thì bạn cần một số thông tin sau:
Dàn ý đóng vai người bà kể lại câu chuyện Bếp lửa
Phần | Nội dung |
Mở bài |
|
Thân bài | Kể theo mạch truyện của mình nhưng đảm bảo mạch cảm xúc của thơ.
Để nắm rõ mạch cảm xúc của tác phẩm, bạn cần soạn Bếp lửa và trả lời những câu hỏi có liên quan trong sách giáo khoa. |
Kết bài | Nêu niềm mong ước của nhân vật kể truyện. |
5 Mẫu hóa thân thành người bà
5 bài viết mẫu về chủ đề hóa thân thành người bà trong bài thơ Bếp lửa sau sẽ giúp bạn có thêm cảm hứng làm bài:
Mẫu 1
Cả cuộc đời tôi đã trải qua rất nhiều biến cố, từ những năm tháng chiến tranh khắc nghiệt đến nạn đói năm 1945 cướp đi mạng sống của biết bao anh em, làng xóm. Giờ đây khi đất nước đã yên bình, tôi lại nhớ Việt, người cháu nội mà tôi chăm sóc suốt 8 năm liền, đang ở nước Nga xa xôi.
Tôi là một người bà luôn dành trọn tình yêu thương và sự tận tụy cho gia đình, đặc biệt là con cháu. Trong những thời điểm cha mẹ cháu tôi phải công tác ở tiền tuyến, tôi không chỉ đảm nhận vai trò làm cha, làm mẹ mà còn là người thầy chăm sóc cháu hết mực.
Khi cháu lên bốn, lên tám, đó là thời điểm khó khăn nhất trong cuộc chiến: đói kém, giặc địch phá hủy khắp nơi. Tôi âu yếm và che chở đứa cháu nhỏ ngây thơ, suốt tám năm dài “cháu cùng bà nhóm lửa”. Có lẽ tôi luôn kiên trì để nhen nhóm lên hơi ấm của sự sống bền bỉ? Cuộc đời tôi thêm khó khăn khi phải nuôi dạy cháu trong hoàn cảnh thiếu thốn vật chất.
Tôi gánh chịu nỗi khổ một mình, giữ cho lời căn dặn cháu “đừng kể này, kể nọ” về những khó khăn ở quê nhà: “giặc đốt làng, cháy rụi”. Tôi muốn an ủi lòng những người ở phía tiền tuyến, để họ tiếp tục nhiệm vụ tốt nhất có thể. Sự khoan dung giúp tôi và cư dân trong làng tạo nên hậu phương vững chắc cho tiền tuyến chống giặc.
Năm ấy, mọi gia đình đều phải chịu đựng đói khổ. Cuộc cách mạng tháng Tám nổi lên, cả làng tôi đoàn kết với nhau để đánh đuổi Nhật, lật đổ Pháp, khôi phục chính quyền, chấm dứt sự nô lệ. Nhưng niềm vui không kéo dài khi Pháp tái lập thống chế và xâm lược nước tôi một lần nữa. Theo lời Bác, chúng tôi lại cùng nhau đứng lên, đánh đuổi kẻ thù xâm lược.
Chiến tranh bùng nổ, kẻ thù tàn ác đã tàn phá, đốt cháy làng xóm quê tôi. Những người từng đi xa trốn tránh bấy giờ trở về, mệt mỏi, câm lặng. Ngày qua ngày, tôi và cháu vẫn bên nhau, mỗi sớm mai chúng tôi thức dậy và mỗi đêm tôi lại nhóm lửa.
Một ngọn lửa trong tôi nuôi dưỡng những hy vọng và niềm tin vào ngày mai chiến thắng sẽ đến. Một ngày kia, gia đình tôi sẽ đoàn tụ, con tôi sẽ trở về bên mẹ và bà.
Mẫu 2
Tôi là người bà trong kí ức của Bằng Việt khi sáng tác bài thơ Bếp Lửa nổi tiếng. Dù thời gian đã trôi qua, cháu cũng đã khôn lớn, cất cánh bay tới phương trời xa xôi nhưng từng câu chữ trong bài thơ khiến tôi như được sống lại trong năm tháng chiến tranh bão đạn khốc liệt ấy.
Dù tuổi đã cao nhưng tôi vẫn cố gắng chịu khó, tỉ mỉ nhóm lửa mỗi ngày để ngọn lửa quen thuộc ấy luôn sáng tỏa trước mắt người cháu. Tôi nuôi dưỡng và chăm sóc cho ngọn lửa chập chờn, bập bùng mỗi sớm mai. Suốt cuộc đời, tôi đã phải vượt qua muôn vàn gian khó, nhọc nhằn, với bao nỗi cơ hàn đè nặng lên tấm thân già nua của mình.
Vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, con tôi tham gia công tác kháng chiến, vì vậy cháu phải ở lại với tôi. Tám năm dài, cháu cùng tôi nhóm lửa, và tuổi thơ của nó đã sâu sắc gắn liền với ngọn lửa ấy. Mùi khói bếp lửa cay cay, mỗi lần nhóm lửa, tôi đều cảm thấy nước mắt, nước mũi tuôn trào. Tôi đã thay thế cha mẹ nó, nuôi dạy nó trưởng thành. Tôi đã dạy cháu làm việc nhà, dạy học, và chăm sóc cháu với tình yêu thương vô vàn như một người mẹ.
Có thể nói đó là những thời điểm khó khăn nhất trong cuộc chiến: đói kém, giặc địch phá hủy hậu phương. Cuộc đời tôi thêm khổ sở khi phải nuôi dạy cháu trong hoàn cảnh khốn khổ, với thiếu thốn về vật chất. Tôi luôn là hậu phương vững chắc để các chiến sĩ trên tuyến đầu yên tâm đánh giặc.
Ngọn lửa bếp vẫn luôn được nhóm lên mỗi ngày bên cháu, nuôi dưỡng và ấp ủ niềm tin rằng, dù nhỏ bé nhưng lại mạnh mẽ, với tình yêu và trái tim nhân hậu, một ngày không xa, chiến thắng sẽ đến và gia đình sẽ được đoàn tụ.
Mẫu 3
Tôi là người phụ nữ Việt Nam, đại diện cho hình ảnh của những người phụ nữ Việt Nam can đảm và mạnh mẽ. Tôi đã hy sinh rất nhiều để dành trọn tình yêu thương cho con cháu. Một lần, khi cháu tôi đã trưởng thành, cháu đã tâm sự với tôi về những cảm xúc và kỷ niệm của mình.
“Hình ảnh bếp lửa ấm áp, luôn ẩn mình trong sương sớm, gắn liền với hình ảnh của bà – người bà thầm lặng, từng ngày từng giờ nhen nhóm ngọn lửa để sưởi ấm trái tim cháu. Bà hiện lên với dáng vẻ chắt chiu, cẩn thận, tích góp từng hơi ấm giữa lúc đất nước đang đối mặt với những khó khăn về thức ăn và loạn lạc.”
Bà vẫn lặng lẽ với khói bếp, nhưng với tấm lòng già cả, bà đã nuôi dưỡng cháu và đồng thời, bà cũng là mầm non của tương lai đất nước. Những ký ức của cháu về những khoảnh khắc ngày nhỏ, khi cháu được bà chăm sóc và yêu thương, luôn hiện hữu trong tâm trí cháu.
“Bà giống như người mẹ hiền đã nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ cháu từng ngày. Cảm giác thiếu thốn, cô đơn đã được bà lấp đầy, và tình cảm gia đình trở nên ấm áp hơn bao giờ hết.”
Nghe những lời đó, lòng tôi xúc động vô cùng. Không ngờ, hình ảnh bếp lửa, đơn giản nhưng hằng ngày, lại chiếm vị trí quan trọng trong kí ức của cháu. Trong tám năm qua, tôi đã phải đối mặt với những khó khăn không kể xiết khi một mình nuôi nấng đứa cháu nhỏ, trong thời điểm bố mẹ cháu phải ra chiến trường và đất nước đang chịu đựng đợt nạn đói khốc liệt vào năm 1945.
Khó khăn chồng chất, tôi cố gắng vượt qua để nuôi dưỡng cháu và làm cho hậu phương trở nên vững chắc. Cuộc sống của tôi như một ngọn lửa, luôn được giữ ấm và rực rỡ. Tôi giữ thói quen nhóm lửa, như là cách để giữ cho ngọn lửa yêu thương không bao giờ tắt. Đó là cách tôi sưởi ấm trái tim đứa cháu nhỏ của mình trong những lúc yếu lòng, nhóm lửa luộc khoai luộc sắn để đỡ đói, và tạo ra sự đoàn kết trong làng xóm.
Tình yêu thương và tình làng nghĩa xóm, như những tia lửa nhỏ, kết nối mọi người lại với nhau. Những khoảnh khắc bên bếp lửa không chỉ là việc nuôi nấng con cái mà còn là hình ảnh của sự đoàn kết và yêu thương, điều quan trọng nhất trong cuộc sống của tôi.
Mẫu 4
Năm lên bốn, người cháu đã phải đối mặt với nạn đói năm 1945 và phải xa bố mẹ vì họ phải đi chiến đấu. Cháu nhỏ phải ở cùng tôi suốt tám năm dài. Những mảnh ghép kí ức trong tâm cháu có lẽ vẫn giữ lại mùi khói bếp – mùi khói đã làm nghẹn lại đôi mắt cháu, và giờ đây, khi nhớ lại, “sống mũi còn cay”.
Tôi, một người bà, vẫn lặng lẽ, vẫn âm thầm tích góp hơi ấm để nuôi dưỡng cháu trong những năm tháng ấy, suốt “tám năm dài”.
Trong sương khói mịt mờ của chiến tranh, cháu không được sống cùng bố mẹ, nhưng lại được yêu thương, che chở và nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng của người bà là tôi. Bên bếp lửa hồng, tôi kể chuyện, những câu chuyện về cuộc sống hằng ngày, cũng như những câu chuyện cổ tích xưa. Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, hai bà cháu tôi từng ngày, từng tháng và “tám năm dài” cùng nhau nhóm lửa để nấu nướng, để sưởi ấm chỗ ở, và hơn thế nữa, để soi sáng trí tuệ và tâm hồn.
Tôi như một người mẹ thay thế, người cha thay thế, người thầy thầy thay thế để dạy dỗ, yêu thương cháu một cách vô điều kiện. Bởi vậy, tình yêu và sự kính trọng của cháu dành cho tôi là rất nhiều. Có thể nói rằng tôi và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm sóc, đùm bọc dành cho cháu.
Hơi ấm của bếp lửa ấy lại gợi lên những kỉ niệm về một thời đầy vất vả, đau thương. Chúng tôi những người hậu phương vẫn luôn cố gắng giữ vững tinh thần để nơi tiền tuyến yên tâm đánh giặc.
Những năm tháng ấy, tôi gồng mình vượt qua mọi lo toan để các con yên tâm công tác với tấm lòng của một người hậu phương luôn hướng ra tiền tuyến, trong ý chí và nghị lực kiên cường. Hình ảnh tôi trong tâm trí người cháu mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hi sinh tình riêng để đặt tình chung lên trên.
Khi trưởng thành, cháu sẽ đứng trong những điều mới mẻ của thế giới rộng lớn, tuổi thơ đã lùi xa, nhưng đứa cháu nhỏ của tôi giờ đã được chắp cánh bay cao. Nhưng làm sao có thể quên được hình ảnh người bà này cùng bếp lửa quê hương, nơi nắng mưa, hai bà cháu tôi có nhau. Bởi vì tôi luôn là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời. Tôi vẫn giữ thói quen nhóm lửa, để luôn tỏa ra hơi ấm, để cho người cháu có thể dựa vào.
Mẫu 5
Tôi là một người phụ nữ Việt Nam điển hình, can đảm và mạnh mẽ, đã hy sinh nhiều cho con cháu của mình. Khi con cháu tôi trưởng thành, họ đã chia sẻ với tôi những suy nghĩ như thế này: “Hình ảnh của bếp lửa vỗn vẫn, ấp ủ trong sương sớm, luôn gắn bó với hình ảnh của người bà thầm lặng, từng ngày từng giờ nhóm lửa để sưởi ấm trái tim mình. Bà hiện lên với hình ảnh chăm chút, cẩn thận, tích góp từng hơi ấm lúc đất nước đang đối diện với những khó khăn về thực phẩm và hỗn loạn.”
Bà vẫn âm thầm với khói bếp, mà đem tấm lòng già cả của mình, nuôi dưỡng cháu, đồng thời là mầm non tương lai của đất nước để mong dân tộc phát triển. Những khó khăn ấy, người bà lại hiện lên qua lời kể của đứa cháu về những kỷ niệm hồi nhỏ.
“Bà giống như một người mẹ hiền đã từng ngày nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ cháu. Cảm giác thiếu thốn và nỗi nhớ mong của bố mẹ khi chúng phải xa nhà đã được bà lấp đầy bằng sự đùm bọc, yêu thương và che chở.”
Khi nghe những lời này, tôi thực sự rất xúc động. Tôi không ngờ rằng hình ảnh bếp lửa đơn giản mà tôi thường nhóm lên mỗi ngày lại có thể in sâu đậm trong ký ức của họ đến như vậy. Trong suốt tám năm ròng, tôi đã một mình nuôi nấng đứa cháu nhỏ của mình khi bố mẹ chúng phải đi chiến đấu. Khó khăn chồng chất, nhất là trong thời điểm nạn đói năm 1945, tôi đã cố gắng vượt qua để nuôi cháu và làm cho hậu phương trở nên vững chắc cho con cái.
Tôi luôn giữ thói quen nhóm lửa, như một cách để nuôi dưỡng ngọn lửa yêu thương bất diệt, kết nối tình cảm gia đình và tình làng nghĩa xóm. Nhóm lửa là nơi để sưởi ấm trái tim đứa cháu nhỏ của tôi trong những lúc họ cảm thấy yếu đuối, là nơi nấu nướng để giải quyết cơn đói, là nơi gắn kết và tôn vinh tình thương.
Tưởng tượng gặp gỡ người cháu trong bài Bếp lửa
Với đề bài tưởng tượng em đang gặp gỡ người cháu trong bài thơ Bếp lửa ta làm như sau:
Dàn ý gặp gỡ người cháu trong Bếp lửa
Phần | Nội dung |
Mở bài | Giới thiệu bản thân (lúc này là người kể chuyện) và hoàn cảnh gặp người cháu trong Bếp lửa.
Các gợi ý mở bài bài thơ Bếp lửa này có thể sử dụng cho dạng đề này. |
Thân bài |
|
Kết bài | Trở lại với thực tại, nêu niềm mong ước của người kể chuyện. |
3 mẫu tưởng tượng gặp gỡ người cháu
Dưới đây là 3 mẫu bài viết để bạn tham khảo thêm:
Mẫu 1
Vào một ngày mùa đông giá rét tại ngôi trường của tôi, tôi tình cờ gặp được anh chàng – người cháu trong bài thơ “Bếp Lửa” nổi tiếng. Khi chào hỏi và trò chuyện cùng anh, hàng loạt ký ức về hình ảnh bếp lửa bắt đầu hiện lên trong tâm trí tôi. Câu chuyện của anh cũng rất giống với câu chuyện của tôi, hình ảnh người bà và căn bếp lại tràn ngập trong tôi một cách rõ ràng, khiến cho cảm xúc của tôi không thể nào kìm nén được.
Hồi ức về bếp lửa thổi mạnh luồng hơi ấm, làm tan đi cái lạnh của mùa đông xa quê. Nỗi nhớ quê hương, với cha mẹ và bà nội luôn là một ám ảnh không nguôi trong tôi. Hình ảnh bà nội với dáng vẻ còng lưng đang thổi bếp, thổi cho đến khi lửa cháy rực và lan tỏa một luồng hơi ấm nồng nàn. Hơi ấm của lửa lan tỏa khắp căn bếp nhỏ, sưởi ấm tâm hồn đơn côi của hai bà cháu, đồng thời làm dịu đi sự chờ đợi và niềm tin vào ngày mai sẽ vinh quang.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm, một bếp lửa ấp ủ nồng đượm. Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!… Tôi tin rằng, chính sự quần tụ quanh bếp lửa trong gia đình Việt là những ấn tượng đặc biệt, thiêng liêng đã giúp tôi tạo ra những vần thơ đầy cảm xúc như vậy.” Bên lửa và cùng với lửa, những người trong gia đình lại kể cho nhau nghe mọi chuyện trên đời, từ những khó khăn, những may mắn cho đến những thành công.
Không khí ấm áp của gia đình Việt không bao giờ thiếu đi sự hiện diện của lửa. Bên lửa, luôn là những người phụ nữ mang dáng vẻ và phong cách Việt Nam. Vì thế, bà và bếp lửa trở thành những hình tượng gần gũi, thân thương, cụ thể và đầy yêu thương. Bà thổi hồn vào bếp lửa, thổi vào đó tình cảm, trách nhiệm, lòng yêu thương và sự hy sinh.
“Tôi mãi nhớ hình ảnh bà đun nấu, không dễ dàng gì để thổi lửa lên, để giữ cho lửa luôn cháy đều và rực rỡ, điều này thực sự là một nghệ thuật.” Những người phụ nữ Việt Nam luôn là hiện thân của sự gắn kết cuộc sống với bếp lửa, với sự nồng nàn và ấm áp của lửa, và một niềm tin không thể lắng đọng.
“Cho đến hôm nay, qua bao thăng trầm của cuộc đời, tôi vẫn không thể nào quên được hình ảnh bà và ngọn lửa trong trái tim bà. Bà và bếp lửa. Hai hình ảnh ấy đã thực sự làm dấu ấn sâu sắc trong cuộc đời tôi.” Bây giờ, cuộc sống đã thay đổi nhiều, bếp lửa truyền thống không còn mang lại sự thuận tiện như trước nữa. Nó đã được thay thế bởi các loại bếp hiện đại, nhanh hơn và tốt hơn. Cảnh quây quần bên lửa truyền thống trong gia đình dường như trở nên hiếm hoi hơn.
“Ăn uống không còn là vấn đề nặng nề như trước, từ cơm cặp lồng, cơm hộp cho đến cơm nhà hàng, nhưng bàn tay chăm chỉ của bà trong việc nấu nướng lại khiến tôi bất giác nhớ về quá khứ xa xưa.” Nhắc về bà, vẫn thấy rõ mùi khói từ bếp của bà, sống mãi trong mũi nhà thơ như một cay đắng.
“Bếp lửa chỉ là bếp lửa thôi, nhưng tinh thần của nó vẫn đi cùng năm tháng, vẫn gắn bó với toàn bộ cuộc đời và thơ ca của tôi: Giờ đứa cháu đã đi xa, lửa vẫn rực sáng, niềm vui trăm nhà, nhưng tôi vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở: Sớm mai bà đã thổi lửa lên chưa?… Làm sao cho khói tan vào gió, tan vào sương, và ẩn vào cây rừng!”
Chính sự đau đớn ấy, những nỗi khổ vất vả ấy – những ký ức thú vị về những năm tháng chiến tranh mà những ai đã trải qua đều không thể nào quên, đã tạo nên những cảm xúc sâu sắc về sau.
Mẫu 2
Tôi đang du học ở một quốc gia xa xôi, hàng nghìn dặm cách xa từ quê hương Việt Nam, nơi mà khát khao được hơi ấm từ quê nhà dường như trở nên vô cùng cồn cào. Cảm xúc đó chưa kịp tan đi thì tôi tình cờ gặp được anh Bằng Việt – người cháu trong bài thơ “Bếp Lửa” nổi tiếng. Lần gặp gỡ với anh, hình ảnh của bếp lửa từ người bà thân yêu, ngọn lửa mà bà thắp lên mỗi buổi sáng, lại hiện lên trong tôi một cách mạnh mẽ, khiến cho cảm xúc không thể nào kìm nén được.
Bằng Việt kể lại với tôi rằng, tuổi thơ anh gắn bó mật thiết với bà – người phụ nữ chịu thương chịu khó và chiếc bếp lửa đơn sơ nhưng nồng ấm. Bà anh là một người phụ nữ như vậy, ký ức về bà liên quan đến những năm đói năm 1945, khi hàng triệu người phải chịu đựng cảnh khốn khó, gia đình anh cũng không ngoại lệ, phải đấu tranh từng ngày để kiếm miếng cơm qua ngày, khiến cho mỗi ngày sống mũi chát cay.
Anh có nhiều kỷ niệm đẹp đẽ với người bà, thời gian kháng chiến chống Pháp, cha mẹ anh phải đi công tác ở chiến khu, và bà ở nhà chăm sóc, dạy dỗ anh lớn lên. Bà đun lửa để sưởi ấm cho anh mỗi khi trời trở rét. Bà luôn che chở, bảo vệ để cha mẹ anh yên lòng làm việc ở xa nhà.
Một trong những kỷ niệm đáng nhớ nhất với anh là khi khu vực anh sống bị quân giặc tàn bạo phá hoại, ngọn lửa thiêu rụi tài sản của mọi người trong làng. Trong hoàn cảnh khốn khó đó, bà vẫn lặng lẽ động viên anh, không để lộ ra nỗi lo âu của mình, để cha mẹ an tâm ở phía trước. Bà không chỉ là một người phụ nữ cần cù, giàu lòng yêu thương mà còn là nền móng vững chắc cho gia đình, với anh, bà là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, kiên cường và vẻ vang.
Ngọn lửa của bà không chỉ là để sưởi ấm mà còn là niềm yêu thương mãnh liệt luôn cháy bỏng trong lòng anh. Bà là người đã gieo mầm cho anh sự can đảm và lòng dũng cảm, là nguồn cảm hứng vĩnh cửu cho sự nghiệp và cuộc sống của anh.
Khi nghe những chia sẻ chân thành của Bằng Việt, tôi tự nhủ rằng suốt quãng thời gian trưởng thành, dù tôi đã đến với những miền đất mới, những nơi chưa từng biết đến, hình ảnh của người bà vẫn mãi sống đọng trong tôi, như một ngọn lửa yêu thương vĩnh cửu của gia đình và tình yêu sâu đậm đối với quê hương.
Mẫu 3
Trong cuộc sống, mỗi người đều có những ký ức thơ ấu đầy hồn nhiên và trong sáng. Những ký ức ấy thiêng liêng và thân thiết nhất, mang lại sức mạnh phi thường để động viên suốt cuộc hành trình dài. Tôi nhận thức sâu sắc điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của Việt Bằng. Hình ảnh người bà, bếp lửa và tình thân trong bài thơ ấy vẫn in sâu trong tâm trí tôi, và sự ám ảnh đó theo tôi đến cả trong giấc ngủ.
Thời gian trôi qua, tôi là sinh viên ngành Luật tại Moscow và có một người bạn thân là Việt Bằng, một nhà thơ được nhiều người biết đến trong cộng đồng sinh viên du học tại Liên Xô. Chúng tôi đã có những cuộc trò chuyện đáng nhớ, như khi tụ tập cùng nhóm bạn vào dịp Tết cổ truyền tại quê nhà, nấu bánh chưng và bánh tét dưới ánh lửa bếp bập bùng. Lúc đó, tôi được nghe Việt Bằng kể về ký ức tuổi thơ đầy cảm xúc của anh với người bà yêu quý của mình.
Anh chia sẻ về những ngày tháng đầy gian khổ và cảm xúc khi sống bên người bà trong những năm chiến tranh khốc liệt. Bà của Việt Bằng là một người phụ nữ vô cùng dũng cảm và hy sinh, luôn là điểm tựa vững chắc trong những thời khắc khó khăn nhất. Việt Bằng nhớ mãi hình ảnh bà với bếp lửa, nơi mà tình thương gia đình được trao đổi và truyền tải qua từng ánh nến.
Sau khi nghe xong câu chuyện của Việt Bằng, lòng tôi tràn ngập cảm xúc và sự cảm thông với những nỗi đau và niềm vui của anh, cũng như của người bà anh. Những hình ảnh về bếp lửa, người bà và những ký ức tuổi thơ hằng ấp ủ tình thân yêu thương, những tâm tình về quê hương và gia đình đã khiến tôi suy ngẫm sâu sắc về ý nghĩa của cuộc sống và những giá trị bền vững mà chúng ta mang theo suốt cuộc đời.
Tôi dường như cảm nhận được rằng, trong cuộc sống, những gì thiêng liêng nhất là những mối quan hệ thân thương và những giá trị tinh thần mà gia đình và quê hương dạy dỗ cho chúng ta. Họ là những người đã hy sinh và dạy bảo chúng ta biết yêu thương và quý trọng những gì chân thành và đơn giản nhất.
Khi Việt Bằng dừng lại, tôi cảm thấy lòng mình đang lan tỏa một sự nhẹ nhàng, một sự bình yên từ những lời kể của anh. Chúng tôi cùng ngồi im lặng một lúc, để sự cảm thông và niềm tin về những điều tốt đẹp vẫn còn tồn tại trong thế giới này.
Cuối cùng, khi chuông báo thức đột nhiên vang lên, tôi mới nhận ra rằng tất cả những gì tôi đã trải qua chỉ là một giấc mơ. Nhưng giấc mơ ấy lại là một bài học quý giá về tình yêu thương và sự quý trọng của gia đình và quê hương.
Nếu những điều thiêng liêng của tuổi thơ là tình yêu thương và lòng biết ơn trong gia đình, thì đó cũng chính là nền tảng vững chắc cho mỗi chúng ta để vươn lên và khám phá thế giới rộng lớn này. Hôm đó, tôi đã hứa với mình rằng, dù cuộc sống có thay đổi như thế nào, tôi sẽ luôn biết trân trọng và bảo vệ hạnh phúc mình đang có, đồng thời vun đắp và giữ gìn những giá trị thiêng liêng ấy mãi mãi.
Lời kết
Đóng vai người cháu, người bà kể lại câu chuyện Bếp lửa hay thậm chí tưởng tượng được gặp gỡ và trò chuyện cùng người cháu là cách tiếp cận hay giúp bạn hiểu rõ tác phẩm này hơn. Thepoetmagazine đã chia sẻ toàn bộ dàn ý cũng một số bài viết tham khảo giúp bạn có thêm ý tưởng làm bài.
Xem thêm:
- Các tác phẩm thuộc chương trình ngữ văn 9 chân trời sáng tạo.
- Trọn bộ ngữ văn 8 kết nối tri thức.
- Những tác phẩm thơ, văn xuôi thuộc chương trình ngữ văn 8.