Khoe của và Con rắn vuông – Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo
Soạn bài Khoe của và Con rắn vuông đầy đủ và chi tiết giúp học sinh nắm được ý nghĩa châm biếm của hai truyện cười này. Cả 2 câu chuyện được trích trong sách ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo, học sinh có thể theo dõi để chuẩn bị trước cho bài học.
Giới thiệu tác phẩm
Hai văn bản Khoe của và Con rắn vuông đều thuộc thể loại truyện cười dân gian Việt Nam. Truyện được sáng tác với mục đích châm biếm những thói hư tật xấu của con người trong xã hội hiện nay.
Với lối kể chuyện ngắn gọn kết hợp với yếu tố hài hước, truyện đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Khoe của in trong Tiếng cười dân gian Việt Nam năm 1997. Con rắn vuông được in trong Văn học dân gian – Những tác phẩm chọn lọc năm 2004
Nội dung chính của tác phẩm
Nội dung câu chuyện kể về những kẻ có tính khoác lác và hay khoe khoang. Qua đó, sử dụng yếu tố gây cười để phê phán tính xấu này.
Văn bản Khoe của và Con rắn vuông thuộc thể loại gì?
Cả hai văn bản đều thuộc thể loại truyện cười.
Phương thức biểu đạt được sử dụng trong hai tác phẩm là gì?
Phương thức biểu đạt trong văn bản là tự sự kết hợp miêu tả.
Tóm tắt tác phẩm Khoe của và Con rắn vuông
Tóm tắt văn bản trước khi soạn bài cũng là cách giúp bạn tiếp cận nội dung kiến thức dễ dàng hơn.
Tóm tắt truyện Khoe của
Truyện kể về hai người đàn ông có thói hay quen khoe khoang sự giàu có của mình. Vào một ngày nọ họ gặp được nhau. Một người nhờ tìm giúp con “lợn cưới” bị lạc mất. Người còn lại cũng ngay lập tức hí hửng khoe “chiếc áo mới” trong câu trả lời của mình.
Tóm tắt truyện con rắn vuông
Có một người đàn ông có tính hay khoác lác. Vào một ngày nọ, anh ta về khoe với vợ rằng đã thấy một con rắn có bề ngang hai mươi thước và chiều dài là một trăm hai mươi thước. Người vợ hiểu rõ tính cách chồng hay khoác lác nên đã trêu đến cùng. Cuối cùng, người chồng nói rằng, con rắn đó chỉ còn rộng hai mươi thước và dài hai mươi thước. Chị vợ cười bò và nói “thì ra con rắn vuông bốn góc”.
Soạn văn 8 Khoe của và Con rắn vuông ngắn nhất phần chuẩn bị đọc
Giải đáp câu hỏi phần chuẩn bị đọc theo sách giáo khoa văn lớp 8 ngắn gọn và chuẩn xác giúp học sinh tham khảo câu trả lời. Qua đó, tìm hiểu và hình dung nội dung kiến thức của văn bản.
Câu hỏi: Theo em, khoe khoang và khoác lác khác nhau như thế nào?
Theo em, khoe khoang và khoác lác khác nhau:
- Khoe khoang: là muốn phô trương cho người khác biết những gì mình đang có.
- khoác lác: là nói những lời không đúng với sự thật.
Đọc hiểu Khoe của và Con rắn vuông phần trải nghiệm cùng văn bản
The POET Magzine giúp bạn giải đáp câu hỏi có trong phần trải nghiệm cùng văn bản, từ đó, học sinh tiếp cận với nội dung chi tiết của bài.
Câu 1. Văn bản “Khoe của” Việc nói rõ thông tin “lợn cưới”, “áo mới” có cần thiết không? Nói như vậy nhằm mục đích gì?
Việc nói rõ thông tin “lợn cưới”, “áo mới” là không cần thiết. Nói như vậy chỉ nhằm mục đích khoe khoang.
Câu 2. Văn bản “Con rắn vuông” Người vợ trêu chồng như thế nào?
Biết chồng có tính nói khoác nên người vợ đã trêu người chồng bằng cách tỏ thái độ ngạc nhiên trước sự miêu tả của chồng về con rắn và hỏi dồn người chồng liên tục các câu hỏi để người chồng phải tự nói ra sự thật.
Soạn văn 8 Chân trời sáng tạo Khoe của và Con rắn vuông phần suy ngẫm và phản hồi
Soạn văn bài Khoe của và Con rắn vuông giúp học sinh dễ dàng nắm được kiến thức trọng tâm của bài. Đặc biệt những kiến thức về nội dung và yếu tố nghệ thuật được sử dụng trong hai tác phẩm này.
Câu 1. Xác định đề tài, bối cảnh của truyện cười Khoe của và Con rắn vuông.
Khoe của | Con rắn vuông | |
Đề tài | Châm biếm thói khoe khoang. | Châm biếm thói khoác lác. |
Bối cảnh | Bối cảnh không được miêu tả cụ thể, tỉ mỉ, bối cảnh xây dựng câu chuyện gần gũi, thân thuộc: xoay quanh câu chuyện hai người hay khoe của và cụ thể là khoe áo mới và lợn cưới. | Bối cảnh không được miêu tả cụ thể, tỉ mỉ, bối cảnh xây dựng câu chuyện gần gũi, thân thuộc: câu chuyện để anh chồng nói khoác kể cho vợ nghe câu chuyện vào rừng gặp con rắn to. |
Câu 2. Chỉ ra mâu thuẫn có tác dụng gây cười trong hai truyện trên.
Mâu thuẫn có tác dụng gây cười trong hai truyện trên: Hai câu chuyện đều có mâu thuẫn và từ mâu thuẫn tạo ra tiếng cười.
– Trong truyện Khoe của: yếu tố mâu thuẫn là cả hai anh chàng đều quá lố bịch. Khi trả lời, họ không trả lời đúng trọng tâm câu hỏi mà chỉ muốn khoe đồ vật của mình. Vậy nên câu trả lời của họ lạc đề, không có gí trị. Thậm chí, đến đồ vật của họ muốn khoe cũng không có gì đặc biệt cả. Hành động của hai anh này cũng hết sức buồn cười, một anh chàng thì đứng cả ngày trời, một anh chàng thì dù có việc vội vã vấn không quên khoe của.
– Trong truyện Con rắn vuông: Đã biết chồng mình hay khoác lác nhưng chị vợ vẫn hùa theo nhằm trêu chồng và quan trọng là để chồng nhận ra được tính nói khoác của mình. Vậy nên, những lời nói phi lý của anh chồng được thể hiện rõ, sự không quyết đoán cũng được miêu tả qua những lần thay đổi câu trả lời khi bị người vợ văn hỏi.
Câu 3. Liệt kê những lời đối đáp của các nhân vật trong hai truyện cười trên. Những lời đối đáp có vai trò như thế nào trong việc khắc họa tính cách nhân vật?
* Truyện cười “Khoe của”:
– Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy qua đây không?
– Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả.
=> Vai trò: Khắc họa tính cách thích khoe của cả hai nhân vật, một người khoe lợn cưới còn một người khoe áo mới. Qua lời đối đáp trên, tính cách nhân vật được thể hiện rõ. Bởi anh đi tìm lợn, không hỏi đặc điểm con lợn mà lại nói về con “lợn cưới” khiến người được hỏi không thể hình dung ra. Một anh thì đứng đợi cả ngày mới gặp được một người bắt chuyện, khi trả lời cũng chắc đúng trọng tâm mà còn giơ cả vạt áo ra để khoe chiếc áo mới. Cả hai đều cung cấp các thông tin không đúng với trọng tâm câu hỏi.
* Truyện cười “Con rắn vuông”:
– Này mình ạ, hôm nay tôi đi vào rừng, thấy một con rắn to… Ôi chao là to! Bề ngang thì đến hai mươi thước, bề dài đến một trăm hai mươi thước ấy!
– Mình không tin à? Chẳng một trăm hai mươi thước thì cũng đến một trăm thước.
– Thật mà! Không đủ một trăm thước thì cũng đến tám mươi thước.
– Thật đấy mà! Không tám mươi thước thì cũng sáu mươi.
– Không đến sáu mươi thước thật, nhưng ít nhất cũng bốn mươi thước.
– Ừ thôi, tôi nói thật nhé! Quả tôi nom thấy con rắn dài đúng hai mươi thước không kém một tấc, một phân nào.
=> Vai trò: Khắc họa tính cách thích nói khoác của người chồng. Lời đối đáp thể hiện sự lúng túng và thay đổi câu trả lời liên tục khi bị người vợ bóc trần sự vô lí. Bởi thứ anh ra thấy không phải sự thật, vậy nên mới không chắc chắn và sửa lời ban đầu của mình như vậy.
Câu 4. Các nhân vật trong truyện hiện thân cho thói hư tật xấu nào mà trong truyện cười dân gian thường phê phán?
Các nhân vật trong truyện hiện thân cho thói hư tật xấu mà truyện cười dân gian thường phê phán là:
– Khoe của: thói khoe khoang.
– Con rắn vuông: thói khoác lác.
Câu 5. Em có nhận xét gì về cách tác giả dân gian phản ánh thói xấu của con người thông qua các truyện cười trên?
Em có nhận xét về cách tác giả dân gian phản ánh thói xấu của con người thông qua các truyện cười trên là:
Tác giả không sử dụng những hình ảnh hay câu chuyện phi thực tế hay xa vời mà dùng luôn những hình ảnh, câu chuyện gần gũi, dễ đọc, dễ hiểu, tình huống rất đời thường và bình dị. Vậy nên, từ những tình huống đời sống gần gũi, quen thuộc, người đọc càng thấy sự hài hước và châm biếm trong câu chuyện. Cách tác giả dân gian vận dụng và sử dụng rất tài tình, hợp lý tình huống lời đối đáp để phản ánh thói xấu của con người. Nhờ đó, đằng sau tiếng cười chứa đựng bài học cho con người nhẹ nhàng, thâm thúy.
Câu 6. Tiếng cười bà thủ pháp gây cười trong các truyện Khoe của và Con rắn vuông giống nhau và khác nhau ở những điểm nào?
Tiếng cười và thủ pháp gây cười trong các truyện “Khoe của” và “Con rắn vuông” giống nhau và khác nhau ở những điểm:
– Giống nhau:
Các nhân vật trong hai truyện cười trên đều gây cười và tạo nên các tình huống châm biếm bằng cách sử dụng những lời đối đáp thể hiện sự mâu thuẫn trong lời nói.
– Khác nhau: giữa hai truyện lại có sự khác biệt trong tình huống.
+ Trong truyện “Khoe của”, của hai người tham gia đều có thói khoác lác, hay khoe.
+ Còn trong truyện “Con rắn vuông”, chỉ có nhân vật người chồng mới có tính hay nói khoác. Người vợ biết tính chồng, để tạo nên yếu tố gây cười, tác giả để người vợ trêu chọc lại chồng và để người chồng tự thể hiện ra sự vô lý trong lời nói của mình, tự nhận ra tính cách đáng phê phán của mình.
Câu 7. Em rút ra kinh nghiệm gì cho bản thân sau khi đọc hai câu chuyện này?
Em rút ra kinh nghiệm gì cho bản thân sau khi đọc xong hai câu chuyện này là: Không nên nói khoác lác, phóng đại sự việc mà phải trung thực, tôn trọng sự thật hiển nhiên. Nếu cố chấp nói khoác, câu chuyện của bạn sẽ bị phát hiện và tạo thành câu chuyện cười cho những người khác.
Câu 8. Em và bạn trong nhóm phân vai, đóng tiểu phẩm dựa vào một trong hai truyện cười trên.
– Học sinh tự thực hành trên lớp hoặc trong các tiết học hoạt động học tập trải nghiệm, tiết sinh hoạt ngoại khóa.
– Khi thực hiện, học sinh cần chú ý:
+ Xác định rõ nhân vật, xác định rõ lời thoại mình sắm vai.
+ Khi đọc phân vai thì đọc đúng lời từng nhân vật, bộ lộ được thái độ của nhân vật, làm nổi bật tính cách nhân vật.
+ Tạo ra được sự hài hước, dí dỏm.
Xem thêm:
- Chuẩn bị, soạn bài Vắt cổ chày ra nước và May không đi giày, trả lời câu hỏi SGK
- Hướng dẫn soạn bài Tiếng cười có lợi ích gì với đầy đủ thông tin
Kết luận
Soạn bài Khoe của và Con rắn vuông được soạn thảo chi tiết. Qua đó giúp học sinh tìm hiểu toàn diện nội dung kiến thức về hai văn bản này.