Phân tích Chữ người tử tù và lập dàn ý cảm nhận
Tham khảo các bài phân tích Chữ người tử tù và dàn ý chi tiết để biết các ý chính trong bài phân tích. Học sinh cập nhật chính xác và đầy đủ nhất tại trang The POET.
Lập dàn ý Chữ người tử tù
Dàn ý chi tiết học sinh nên tham khảo phân tích các tác phẩm văn học lớp 10 để viết văn Chữ người tử tù chi tiết.
Mở bài
Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Tuân: Một cây bút tài hoa độc đáo, có vị trí quan trọng trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Khái quát chung về tác phẩm: Một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách tài hoa nghệ sĩ của ông, được in trong tập Vang bóng một thời (1940).
Thân bài
1/ Tình huống truyện trong đoạn trích tại văn lớp 10 Kết nối tri thức:
- Không gian: Nhà tù. Đây không phải là nơi dành cho những cuộc gặp gỡ.
- Thời gian: Những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao.
=> Không gian và thời gian góp phần tạo nên kịch tích cho tình huống.
Cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường:
=> Cuộc hội ngộ diễn ra giữa chốn ngục tù căng thẳng.
2/ Nhân vật Huấn Cao
a/ Khái quát nhân vật và hoàn cảnh xuất hiện
Huấn Cao được nhà văn Nguyễn Tuân xây dựng dựa trên nguyên mẫu người anh hùng Cao Bá Quát đầu thế kỉ XIX. Cao Bá Quát là một nhà Nho văn võ song toàn. Ông được người đời tôn lên làm “thánh Quát” vì là thần đồng, thiên tài về văn chương, thơ phú đương thời.
Huấn Cao được xây dựng bằng bút pháp “lí tưởng hóa”: Là hạt nhân của khuynh hướng lãng mạn. Ở khuynh hướng lãng mạn, các nhà văn sử dụng chủ yếu là bút pháp lãng mạn hay nói cách khác chính là bút pháp “lí tưởng hóa”.
Huấn Cao xuất hiện trong tác phẩm ở một cảnh ngộ rất đặc biệt: cảnh gông cùm, xiềng xích, mất tự do. Có lẽ hiếm nhà văn nào lại xây dựng vẻ đẹp hình tượng nhân vật trong tình huống độc đáo đến vậy. Chính trong hoàn cảnh cận kề với cái chết, vẻ đẹp Huấn Cao lại ngời sáng hơn bao giờ hết.
Nguyễn Tuân đã khắc họa vẻ đẹp của nhân vật từ nhiều phương diện, từ nhiều mối quan hệ, từ thái độ của viên quan ngục, của thầy thơ lại, từ mối quan hệ giữa quản ngục và Huấn Cao, từ hành động trực tiếp của nhân vật,…
b/ Huấn Cao – một nghệ sĩ tài hoa
Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao là:
- Người có tài viết chữ “rất nhanh và rất đẹp”.
- “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm… có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật ở trên đời”.
c/ Một con người có khí phách hiên ngang bất khuất
- Là thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa chống lại triều đình.
- Ngay khi đặt chân vào nhà ngục: Thản nhiên rũ rệp trên thanh gông.
=> Khí phách, tiết tháo của nhà Nho
- Khi được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”.
=> Phong thái tự do, ung dung, xem nhẹ cái chết.
- Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Người hỏi ta muốn gì… vào đây”.
=> Không khuất phục trước cường quyền, khí phách của một người anh hùng.
d/ Một nhân cách, một thiên lương cao cả
Tâm hồn trong sáng, cao đẹp: “Không vì vàng ngọc hay quyền thê mà ép mình viết câu đối bao giờ” => Trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỷ.
- Khi chưa biết tấm lòng của quản ngục: xem y là kẻ tiểu nhân.
- Khi biết tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ.
=> Chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp.
- Câu nói của Huấn Cao với quản ngục: “Thiếu chút nữa… trong thiên hạ”
=> Sự trân trọng đối với những người có sở thích thanh cao, có nhân cách cao đẹp.
=> Huấn Cao là một anh hùng – nghệ sĩ, một thiên lương trong sáng.
3/ Nhân vật quản ngục
a/ Tấm lòng biệt liên tài
Trong những ngày Huấn Cao trong ngục, quản ngục luôn bày tỏ thái độ nghiêm kính, khiêm nhường.
- Dũng cảm biệt đái Huấn Cao.
- Cảm thấy tiếc tuổi khi biết Huấn Cao sắp phải từ giã cõi đời: “Bấy nhiêu… vũ trụ”.
b/ Sự khát khao và trân trọng cái đẹp
Khát khao cái đẹp: Mong ước của ông là “được treo ở nhà riêng một đôi câu đố” do chính tay Huấn Cao viết.
Lo lắng nếu không xin được chữ ông Huấn trước khi bị hành hình thì “ân hận suốt đời mất”.
4/ Cảnh cho chữ
Thời gian: Đêm trước khi Huấn Cao ra pháp trường chịu án chém, khi chỉ còn “vẳng có tiếng mõ trên vọng canh”.
Địa điểm: Trại giam tỉnh Sơn.
Không gian: Buồn tối chật hẹp, ẩm ướt…
Đây là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”:
- Thân phận và hành động của người cho chữ và nhận chữ đặc biệt.
- Xây dựng được các cặp phạm trù đối lập nhau.
Chi tiết quản ngục cúi đầu vái lạy người tử tù Huấn Cao: Sự thức tỉnh trước cái đẹp, quản ngục đã thoát ra những cái tầm thường, ràng buộc để vươn tới cái cao đẹp.
=> Toàn bộ cảnh cho chữ là bài ca tôn vinh cái đẹp, cái thiện, cái thiên lương của con người trong hoàn cảnh ngục tù tối tăm bậc nhất.
Kết bài
Khẳng định những nét nghệ thuật đặc sắc làm nên thành công của tác phẩm
Chữ người tử tù là một văn phẩm xuất sắc đạt “gần đến sự toàn thiện, toàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan)
Viết bài giới thiệu truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Viết Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhân vật lịch sử Cao Bá Quát – một nghệ sĩ lớn, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa ở nửa đầu thế kỉ XIX, ở Cao Bá Quát hội tụ những phẩm chất, vẻ đẹp của một nghệ sĩ tài hoa khác thường, một nhân cách cứng cỏi, khí phách hiên ngang, một cái tâm trong sáng, biết trọng thiên lương.
Trong thực tế lịch sử, Cao Bá Quát đã bỏ mình trên chiến địa khi khởi nghĩa chống lại triều đình. Nhưng Nguyễn Tuân đã tìm cách “kéo dài” cuộc đời ông, biến ông thành một kẻ tử tù nguy hiểm để thử thách thêm khí phách, để sáng tạo nên cuộc gặp gỡ kì lạ với viên quản ngục chốn đề lao. Cuộc gặp gỡ kì lạ giữa hai con người khác thường ấy đã dẫn đến cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”.
Cái tài phải gắn liền cùng cái tâm, cùng lòng tự trọng và ý thức gìn giữ thiên lương. Người có tài cần biết tự bảo toàn và phát huy cái tài ấy mà cảm hóa con người.
Cái đẹp cần đi cùng cái t hiện. Cái đẹp không thể chung sống với lũ người quay quắt, tàn nhẫn, không thể tồn tại ở môi trường nhơ bẩn và độc ác.
Ở đời, con người cần phải có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, cần “giữ thiên lương cho lành vững” và đừng để “nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.
Chữ người tử tù là một truyện ngắn đầy kịch tính, được dàn dựng bằng một bút pháp nghệ thuật cao tay, rất mực tài hoa. Tính kịch này nảy sinh từ cuộc gặp gỡ khác thường giữa hai con người rất khác thường.
Một kẻ đại diện cho bạo lực tăm tối nhưng viên quản ngục lại khát khao ánh sáng của chữ nghĩa.
Một người thích chơi chữ đẹp đã gặp được một người viết chữ rất nhanh và rất đẹp, khắp vùng tỉnh Sơn vẫn ngợi khen.
Song thật oái oăm, cuộc gặp gỡ đó diễn ra nơi nhà ngục tử tù. Quản ngục càng nhún nhường, càng tỏ ý biệt đãi thì Huấn Cao càng bất cần, khinh bạc, có lần lạnh lùng đuổi ông ta ra khỏi nhà lao. Tuy thế, quản ngục vẫn lễ phép, vẫn âm thầm mà cháy bỏng cái ước nguyện được chữ. Mạch truyện cứ thế mà trôi đi cho đến khi đột ngột xuất hiện công văn khẩn của quan Hình bộ thượng thư. Đến đây, người đọc băn khoăn với các câu hỏi: Liệu Huấn Cao cho đến khi từ giã cõi đời có nhận ra lòng tốt, thiên lương ở viên quản ngục? Liệu Huấn Cao có đền đáp sở nguyện thiết tha và chính đáng bấy lâu nay của người này? Chi tiết này có vai trò thắt nút, đẩy mâu thuẫn kịch lên cao trào. Cảnh tượng cho chữ trong nhà giam sau đó chính là phần cởi nút, giải tỏa, hấp dẫn, đem lại cho người đọc những rung cảm thẩm mĩ sâu sắc và đầy dư vị…
Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù ngắn gọn
Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn lớn, một nghệ sĩ tài hoa của nền văn học Việt Nam hiện đại. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Nổi bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng hiếm và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là văn chương thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.
Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại. Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Nhưng trong truyện, cái tài được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp – một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở đó mỗi lần nhà thư pháp hạ bút là mỗi lần sáng tạo, mỗi nét bút là sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, “đẹp lắm, vuông lắm” mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một con người. Chính vì thế mà có được chữ ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình. Nhưng Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có một tấm lòng – đó là tấm lòng biết quý trọng phần thiện tâm sâu xa trong mỗi con người.
Một nhà văn nước ngoài đã nói: “Hãy đập vào trái tim mình, thiên tài là ở đó”. Thì ra cội nguồn của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Tấm lòng biết trọng thiện lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường làm nghề thất đức. Bởi thế, Huấn Cao đã thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu diếm, đến khi nhận ra quản ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận.
Bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói: Ta cảm cái tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách, sống là phải xứng đáng với những tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách, sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.
Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Ông Huấn Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng tù đày, gông cùm và cả cái chết cũng không khuất phục được ông. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc: “Nhà ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thế Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất.
Những phẩm chất tuyệt vời đó Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có – cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ và tài hoa, phẩm chất và khí phách của Huấn Cao.
Muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ chúng ta không thể không nói tới quá trình dẫn đến cảnh cho chữ ấy. Người tinh ý sẽ nhận thấy rằng câu chuyện có hai phần rõ rệt: Phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu chuyện chuẩn bị cho phần sau. Phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu không có phần hai thì phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Bởi thế phần hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh một tình huống đặc biệt. Đó là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và quản ngục – Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này làm cho tình thế trở nên ngặt nghèo, bức xúc, khó xoay xở. Nhưng oái oăm hơn cả vẫn là thân phận của hai nhân vật. Về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời, còn người kia là một viên quan đại diện cho chính thể ấy. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là hai người tri âm: Một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó. Sự trái ngược này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc là muốn làm tròn bổn phận của một viên quan thì phải chà đạp lên tấc lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ thì phải phản bội chức phận của một viên quan. Quản ngục sẽ hành động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thiif tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó.
Với một tương quan như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huẫn Cao nhưng đây là cơ hội cuối cùng. Còn Huấn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ những ai ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ Huấn Cao thì quản ngục phải được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như không thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử với những người tù nhân như thế, quyền lực không ép được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May thay ở viên quản ngục lại có một tấm lòng trong trẻo – tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”. Và tấm lòng này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn đến cảnh cho chữ.
Vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng để Huấn Cao trình diễn tài năng. Về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng.
Về cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân gọi là cảnh “xưa nay chưa từng có”. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở đây diễn ra một sự oddoir ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất cả quyền sống là ông Huấn Cao thì trở nên đầy uy khi chăm chú tô đậm từng nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như một bậc thánh nhân: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho chữ là khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm thấp đó, ánh sáng rực rỡ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, ngự trị chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Phẩm chất và nhân cách của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẫn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối. Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không bị mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.
Với nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ: Biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện,… mang lại cho truyện bầu không khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng.
Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù và nhân vật Huấn Cao
Nguyễn Tuân nổi tiếng là một nahf văn tài hoa, giàu cá tính. Ông đã quan niệm và theo đuổi suốt đời quan niệm “…mà thấy rằng yêu đẹp có nghĩa là quyết tâm bảo vệ đến cùng những gì mình đã nhận là đẹp”. Và trong rất nhiều cái đẹp mà ông cảm khái, theo đuổi ấy ta thấy có cái đẹp ngời sáng giữa chốn lao tù tăm tối, cái đẹp của lụa trắng tinh bay những nét mực, cái đẹp từ sâu thẳm lòng người. Cái đẹp toát ra từ người tử tù Huấn Cao và Chữ người tử tù.
Trong tác phẩm, Huấn Cao là một con người tự trọng, sống hiên ngang bất khuất, không có sức mạnh quyền thế, bạc vàng không thể khuất phục ông. Những con người chọc trời khuấy nước, đếm trên đầu ngón tay, người ta cũng chẳng còn biết nữa… Một con người khảng khái như vậy còn sợ gì cường quyền hay tham gì tiền bạc?
Là người chọc trời khuấy nước, riêng một giang sơn không chịu được triều đình phong kiến ngày càng suy thoái, mục rỗng, Huấn Cao chống lại triều đình ấy. Bị gọi là giặc nhưng là vì nghĩa lớn, vì lí tưởng lớn nên điều đó có hề gì. Đến khi bị bắt giam, sắp lên đoạn đầu đài vẫn coi thường: Đến cái chết ông cũng chẳng sợ nữa… Huấn Cao có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng, ông vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong hứng bình sinh, dù đang bị cầm tù.
Dưới con mắt Huấn Cao, bọn cầm quyền chỉ là một lũ tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng, dù ở giữa cảnh tàn nhẫn, lừa lọc giữa một đống cặn bã. Sau khi viên quản ngục khép nép hỏi ông có cần gì nữa không, ông trả lời như tát vào đối phương: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ cần một điều, là ngơi đừng đặt chân vào đây. Đó là cái khí phách, cái tư thế hiên ngang lồng lộng dù khi đang giữa cái nền xám xịt của ngục tù.
Là con người chọc trời khuất nước, hiên ngang bất khuất, không sợ bất cứ cái gì nhưng Huấn Cao lại trọng cái bản chất tốt đẹp của con người. Trong phần người sâu thẳm mà đôi khi vì hoàn cảnh, người ta phải giấu kín, việc ông cho chữ và lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của Huấn Cao. Lời ấy là tiếng lòng, là tâm huyết của ông: “Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã… ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
Ông yêu cái đẹp và cảm thông với người biết yêu cái đẹp. Huấn Cao hiểu được tấm lòng quản ngục thì sẵn sàng cho chữ, bởi ông cảm là cảm cái bản chất thiên lương.
Huấn Cao là người tài hoa rất mực, bên cạnh cầm kì, thi, họa, ông còn có tài viết chữ đẹp, chữ của ông nức cả một vùng, chữ ông đẹp lắm, vuông lắm. Cái tài hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỉ: Ông biết cái tài của mình và không vì nó mà ai ông cũng sẵn sàng cho: “Đời ta cũng mới viết có bộ tứ bình và một bức trung dđường cho ba người bạn của ta thôi”. Và lần cho chữ cuối cùng của đời ông là một ngoại lệ, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã xảy ra bởi vì cảm với tấm lòng. Đoạn cho chữ có thể nói là một đoạn rất hay thể hiện tài năng của Nguyễn Tuân trong miêu tả, dựng cảnh và thể hiện tài năng của nhân vật Huấn Cao.
Cái cao đẹp đối lập với dơ bẩn. Chơi chữ đẹp, viết chữ đẹp là một nét đẹp thanh cao, trang trọng thường diễn ra trong cảnh thanh khiết của thiên nhiên và lòng người. Song ở đây là cả một sự đối lập. Tuy nhiên, đối lập mà không có gì mâu thuẫn cả. Lấn át tất cả cái dơ dáy hôi hám của tù ngục, ánh sáng của đuốc, mùi thơm của mực, màu trắng của lụa, đã tỏa sáng lung linh. Tất cả thể hiện một ý nghĩa sâu sắc: cái đẹp có thể sản sinh từ nơi tội ác ngự trị, giữa mảnh đất chết bởi một người cũng sắp chết (một tử tù). Lời khuyên của Huấn Cao cho thấy: cái đẹp không thể cùng sống với cái ác được.
Nhân vật Huấn Cao như nhiều nhân vật chính diện khác trong Vang bóng một thời, nhất thiết là con người tài hoa. Ở Huấn Cao, bên cạnh tài hoa, có vẻ đẹp khí phách của một người có trách nhiệm đối với thời cuộc. Đó là nét độc đáo của Huấn Cao so với nhân vật khác trong Vang bóng một thời.
Ngôn ngữ văn xuôi điêu luyện, nghệ thuật miêu tả tinh nhạy của Nguyễn Tuân đã toát lên không khí một thời đã qua. Nhân vật Huấn Cao, con người khí phách tài hoa có trách nhiệm cao đối với đất nước. Nó cũng là sự giãi bày nỗi niềm… khát khao theo đuổi một lí tưởng cao cả của người thanh niên Nguyễn Tuân khi bước chân vào đời. (Trương Chính).
Phân tích đánh giá tác phẩm Chữ người tử tù – Cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục
Có thể nói chủ đề của truyện ngắn Chữ người tử tù và vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao đã được bộc lộ sáng ngời trong cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục. Đây không đơn thuần là cảnh cho chữ, mà “đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn, của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ”.
Trước hết đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Chính Nguyễn Tuân đã viết trong truyện, cảnh cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Vì sao vậy? Bình thường sẽ không có cảnh cho chữ đẹp đẽ và trang nghiêm trong chốn tù ngục tăm tối và nhơ bẩn này. Nhưng ở đây lại có, vì ở đây có sự chiến thắng của “thiên lương” con người. Và nhà văn, với nghệ thuật đặc tả tài tình, với thủ pháp tương phản sắc sảo đã dựng lên những cảnh tượng đối lập để nêu bật ý nghĩa sâu xa và thâm thúy của sự chiến thắng đó. Cảnh cho chữ diễn ra vào lúc đêm khuya trong nhà ngục. Nhà ngục vốn đã tối tăm, lại vào lúc đêm khuya khoắt, càng dày đặc bóng tối. Nhưng “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn nền hồ” và “lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo”. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã miêu tả đến hai lần cái “ánh sáng đỏ rực”, cái “lửa đóm cháy rừng rực” đã xua tan và đẩy lùi cái bóng tối dày đặc trong phòng giam. Nhấn mạnh đến cái ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu ấy, rõ ràng đó là dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Ở đây, không chỉ là sự đối lập của ánh sáng và bóng tối theo ý nghĩa sắc màu vật lý, mà sâu xa hơn và khái quát hơn, đây là sự đối lập mang ý nghĩa nhân sinh của con người: ánh sáng của lương tri, thiên lương và bóng tối của tàn bạo, độc ác. Ánh sáng của thiên lương đã xua tan và đẩy lùi bóng tối của tàn bạo chính tại nơi tù ngục này. Ánh sáng ấy đã khai tâm, đã cảm hóa con người lầm đường trở về với cuộc sống thiện.
Không chỉ có chiến thắng của ánh sáng và bóng tối. Cảnh “xưa nay hiếm có” còn là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn. Cái phàm tục, sự nhơ bẩn ở đây được biểu thị rất rõ trong cảnh “một buồng chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Còn cái đẹp, cái cao thượng lại được nói đến sâu sắc trong hai chi tiết mang ý nghĩa tượng trưng: màu trắng tinh của phiên lụa óng và mùi thơm từ chậu mực bốc lên – đều dường như không thể có trong chốn tù ngục. Màu trắng của phiến lục tượng trưng cho sự tinh khiết, còn mùi thơm của thoi mực là hươn thơm của tình người, tình đời. Sự đối lập nói trên đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối v ới sự phàm tục, sự nhơ bẩn. Tâm hồn Huấn Cao bát ngát đến chừng nào khi ông nói về mùi thơm của mực: “Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?”… Thế là không có nhà ngục nào tồn tài nữa, chẳng còn bóng tối, cũng chẳng còn mạng nhện, phân chuột, phân gián nữa. Chỉ còn lại sự thơm tho của mực, sự tinh khiết của lụa – nó là sự thơm tho và tinh khiết của thiên lương con người.
Và trên hết, đó là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Đây là sự phối hợp giữa những con người trong cảnh cho chữ, đặc biệt ở đây, ta thấy có sự thay bậc đổi ngôi. Người tù lại như người làm chủ (đường hoàng, hiên ngang, ung dung, thanh thản), còn bọn quản ngục lại khúm núm, sợ hãi và xúc động trước những lời khuyên dạy của tù nhân (viên quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ”. Thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”). Sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ đã được khắc họa đậm nét trong cảnh cho chữ và những người trong cảnh ấy. Không còn là cảnh cho chữ bình thường mà là một cảnh thọ giáo thiêng liêng giữa người cho chữ và người nhận chữ. Lời khuyên dạy đĩnh đạc của Huấn Cao có khác gì một chúc thư về lẽ sống trước khi ông đi vào cõi tử. Và lời khuyên đầy tỉnh người ấy có sức mạnh cảm hóa một tâm hồn bấy lâu nay vẫn cam chịu nô lệ, một con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện. Câu nói nghẹn ngào trong nước mắt của viên quản ngục đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, của thiên lương con người: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Tóm lại những chiến thắng trong cảnh cho chữ đã giúp ta hiểu hơn khát vọng mà nhà văn Nguyễn Tuân gửi gắm. Biết bao người đã tìm thấy sự đồng cảm ở đó. Cảnh cho chữ cũng làm nổi bật ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của những chiến thắng tuyệt vời đó.
Phân tích truyện Chữ người tử tù
Chữ người tử tù là một truyện rất ngắn, trong sách giáo khoa chỉ hơn 6 trang in. Thông thường ở truyện ngắn, các nhà văn thường rất chú ý đến tình huống truyện. Nguyễn Tuân cũng thế.
Tình huống truyện vốn là một yếu tố quan trọng với thể loại tác phẩm ngắn. Một truyện ngắn lãng mạn thì yếu tố này lại càng được chú ý hơn. Chữ người tử tù là một tác phẩm như thế. Chỉ trong hơn sáu trang viết, Nguyễn Tuân bằng ngòi bút tài hoa của mình đã làm nổi bật chủ đề cũng như nhân vật trung tâm của truyện. Ông đã đặt các nhân vật của mình vào một tình huống khác thường: chuyện chơi chữ vốn chỉ dành cho các bậc cao nhân mặc khác và thường diễn ra ở chốn thư phòng, thì nhà văn lại đưa nó vào nhà ngục tối tăm, bẩn thỉu. Những người chơi chữ, lẽ ra phải ra các bậc “tao nhân, mặc khác”, thì ông lại để họ là kẻ tử tù và viên quản ngục. Hai nhân vật bình thường sẽ đối địch với nhau nay trong chốn ngục tù lại trở thành những người bạn tri âm, tri kỉ: một người sáng tạo cái đẹp và người kia thưởng thức cái đẹp. Họ chẳng khác nào chặp nhân vật Bá Nha – Tử Kì trong văn học cổ Trung Hoa.
Chính từ tình huống truyện độc đáo này, ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm càng trở nên nổi bật. Phải chăng, thông qua cảnh tương phản đối lập, Nguyễn Tuân muốn đề cao, khẳng định cái đẹp của nghệ thuật và tâm hồn con người. Cái đẹp ấy có thể chiến thắng mọi thế lực tối tăm, có thể tìm được sự tồn tại ở những nơi tưởng như nó không thể tồn tại. Qua bức tranh, ta không còn nhận ra đâu là nhà ngục bởi vì ở đó không có quản ngục và tử tù, ở đây chỉ còn lại những nghệ sĩ say sưa sáng tạo và thưởng thức cái đẹp.
Đoạn văn cuối miêu tả Huấn Cao viết chữ chỉ chiếm gần một trang. Tuy nhiên, đây là một đoạn văn hết sức quan trọng. Nó góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Đồng thời cũng làm rõ hơn các vẻ đẹp của nhân vật, thể hiện vốn sống và tài năng nghệ thuật của nhà văn. Nguyễn Tuân mở đầu bằng nhận xét: “Đây là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Tại sao lại có cảnh tượng xưa nay chưa từng có? Vì ở đây diễn ra một cuộc gặp gỡ hết sức lạ kì: cuộc gặp gỡ giữa người tử tù và viên quản ngục. Bình thường đây là hai kẻ đối địch với nhau, nhưng trong hoàn cảnh cụ thể, họ lại có vẻ đồng điệu với nhau. Cả hai đều làm nổi bậtj vẻ đẹp của nhau: một bên – kẻ tử tù là người sáng tạo cái đẹp, bên kia – viên quản ngục là người biết thưởng thức cái đẹp. Ý nghĩa tư tưởng và nghệ thuật của toàn bộ tác phẩm sẽ được làm rõ trong đoạn văn cuối này.
Nguyễn Tuân vốn được mệnh danh là bậc thầy trong lao động nghệ thuật, ông luôn coi trọng giá trị lao động trong nghề cầm bút của mình. Là người lao động nghệ thuật với đúng nghĩa của nó, Nguyễn Tuân luôn biết chắt lọc từng câu, từng chữ sao cho từ mỗi câu chữ đó, ý nghĩa tư tưởng, chủ đề của tác phẩm được bộc lộ rõ nhất.
Trong đoạn cuối Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện rõ tài dựng người, dựng cảnh của mình. Tính tạo hình trong những trang viết của ông được thể hiện rất rõ trong đoạn văn. Bút pháp nghệ thuật tương phản cũng được ông sử dụng triệt để.
Sự đối lập trước tiên được thể hiện giữa công việc viết chữ và nơi diễn ra việc viết chữ. Chơi chữ, viết chữ vốn là một việc làm thanh cao chỉ dành cho những bậc “tao nhân mặc khách”. Thế nhưng, ở đây nhà văn lại dành niềm ưu ái ấy cho những kẻ hết sức lạ kì: tử tù và quản ngục.
Giữa người viết chữ và người nhận chữ cũng diễn ra những đối lập gay gắt. Người viết chữ là kẻ tử tù cổ vẫn đeo gông, chân vướng xiềng nhưng tư thế hiên ngang, đĩnh đạc. Người tử tù không hề tỏ ra run sợ, ông vẫn ngẩng cao đầu tô những dòng chữ trên vuông lụa trắng. Ngược lại, kẻ nhận chữ – quản ngục và thơ lại thì run run, sợ sệt, lúng túng. Tư thế và vị trí của hai tuyến nhân vật này lẽ ra phải đảo ngược cho nhau. Trên bình diện xã hội, tử tù và quản ngục hoàn toàn đối nghịch với nhau, trên bình diện nghệ thuật họ lại đồng điệu với nhau. Người tử tù đang say sưa sáng tạo cái đẹp, còn viên quản ngục tỏ ra cảm phục, ngưỡng mộ cái đẹp.
Chính từ bức tranh nghệ thuật đối lập, tương phản này, ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm càng trở nên nổi bật. Phải chăng, thông qua cảnh tương phản đối lập của Nguyễn Tuân muốn đề cao, khẳng định cái đẹp của nghệ thuật và tâm hồn con người. Cái đẹp ấy có thể chiến thắng mọi cái tối tăm, có thể tìm được sự tồn tại ở những nơi tưởng như nó không thể tồn tại. Qua bức tranh, ta không còn nhận ra đâu là nhà ngục bởi vì ở đó không có quản ngục và tử tù, ở đây chỉ còn lại những nghệ sĩ say sưa sáng tạo và thưởng thức cái đẹp.
Huấn Cao vốn có nguyên mẫu từ nhân vật có thật trong lịch sử, đó là Cao Bá Quát. Tất nhiên, dưới ngòi bút lãng mạn của Nguyễn Tuân, Huấn Cao đã được hư cấu để trở thành một mẫu người anh hùng, mẫu người lí tưởng của nhà văn. Xây dựng nhân vật này, rõ ràng Nguyễn Tuân muốn hướng tới một mẫu người tài hoa, một biểu tượng của cái đẹp trong xã hội cũ. Với Nguyễn Tuân, đẹp không có nghĩa chỉ là tài hoa, mà cái đẹp còn phải được thể hiện qua cả phẩm chất tâm hồn, tâm và tài, nội dung và hình thức hòa quyện trong nhân vật Huấn Cao. Đó chính là lí tưởng mà Nguyễn Tuân muốn hướng tới trong nhân vật chính tác phẩm Chữ người tử tù.
Phân tích, nghị luận Chữ người tử tù
Truyện “Chữ người tử tù” rút trong tập “Vang bóng một thời”, một giai phẩm chưa đầy 2.500 chữ nhưng hàm chứa một dung lượng lớn. Chỉ có ba nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công văn nói về tử tù Huấn Cao; Huân Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với tử tù, cảnh Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào cũng hội tụ cả ba nhân vật này.
Viên thơ lại là kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan. Một con người sắc sảo và có tâm điền tốt. Mới đọc công văn và nghe ngục quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lòng khâm phục: “thế ra y văn võ đều có tài cả, chà chà”. Sau đó lại bày tỏ lòng thương tiếc: “… phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy thương tiếc”. Sau nhiều lần thăm dò, thử thách, ngục quan đánh giá viên thư lại: “có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình”. Suốt nửa tháng tử tù ở trong buồng tối vẫn được viên thơ lại gầy gò “dâng rượu và đồ nhắm”. Y đã trở thành kẻ tâm phúc của ngục quan. Sau khi nghe tâm sự của ngục quan “muốn xin chữ tử tù”, viên thư lại sốt sắng nói: “Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi” rồi y chạy ngay đến trại giam đấm cửa thùm thùm gặp Huấn Cao. Nhờ y mà ngục quan xin được chữ tử tù. Trong cảnh cho chữ, viên thơ lại “run run bưng chậu mực”. Đúng y là một người “biết yêu mến khí phách, biết tiếc, biết trọng người có tài”. Nhân vật thơ lại chỉ là một nét phụ nhưng rất thần tình, góp phần làm rõ chủ đề tác phẩm.
Ngục quan là một khách tài tử chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” chẳng khác nào “một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, ngục quan có “lòng kiêng nể”, “lại còn có biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao”. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai viên thơ lại dâng rượu và đồ nhắm cho tử tù – Huấn Cao và các đồng chí của ông.
Lần thứ hai, y gặp Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn “muốn châm chước ít nhiều” đối với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị nặng lời, gần như xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn “xỉn lĩnh ý” rồi lui ra.
Ngục quan là một nhà nho “biết đọc đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”, suối đời chỉ ao ước một điều là “có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do ông Huấn Cao viết”. Ngục quan đang sống trong bi kịch: y tâm phục Huấn Cao là một người chọc trời quấy nước nhưng lại tự ti, “cái thứ mình chỉ là một kể tiểu lại giữ tù”. Viên quản ngục khổ nhất là “có một ông Huấn Cao trong tay mình, mà không biết làm thế nào mà xin được chữ”. Là quản ngục, nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao, “cách xa y nhiều quá”. Tử tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại lo “mai mốt đây, ông Huấn Cao bị hành hình mà chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời mất”. Bi kịch ấy cho thấy tính cách quản ngục là một con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở thích cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của ngục quan, Huấn Cao cảm động nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhân liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục quan và tử tù là đối địch, còn trên lĩnh vực nghệ thuật, họ là tri âm. Huấn Cao trước lúc ra pháp trường đã tri ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là ngục quan.
Trong cảnh cho chữ có một hình ảnh kì diệu: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Ánh sáng bó đuốc ấy chính là ánh sáng của thiên lương mà tử tù đang chiếu lên và lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” chi tiết ngục quan vái tử tù một vái, nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” là những chi tiết thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ, chiếu rọi tâm hồn. Một cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có.
Có thể, sau khi Huấn Cao bị giải vào Kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo mũ “tìm về quê nhà mà ở” để giữ lấy thiên lương “cho lành vững” và thực hiện cái sở thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn Tuân đã xây dựng ngục quan bằng nhiều nét vẽ có thần. Ngoại hình thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”. Một con người ưa sống hằng nội tâm: cái đêm hôm trước đón nhận tử tù, ông sống trong trạng thái thanh thản, gương mặt ông ta “là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Trong một xã hội phong kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân vật ngục quan đúng là một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm.
Huấn Cao là một “tên giặc”, một nhân vật bi tráng, cao đẹp, mang màu sắc lãng mạn.
Lúc đấu Huấn Cao được giới thiệu gián tiếp qua một tiếng đồn: “cái người mà vùng tỉnh ta vẫn khen…”, “nhiều người nhắc nhỏm đến cái danh đó luôn…”, “một tên tù có tiếng…” và “thầy có nghe người ta đồn…”. Đó là một con người không phải tầm thường!
Ngục quan và viên thơ lại mới “văn kì thanh” mà đã tâm phục Huấn Cao. Họ trầm trồ: “người đứng đầu…”, “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp…”, một tử tù lừng lẫy tiếng tăm “văn võ đều có tài cả.”.
Lấy xa để nói gần, lấy bóng làm lộ hình, sử dụng lối tả gián tiếp… đó là bút pháp Nguyễn Tuân vận dụng sáng tạo để giới thiệu nhân vật Huấn Cao, tạo ra sự cuốn hút nghệ thuật kì diệu.
Là một nhà nho dám chọc trời quấy nước. Chí lớn không thành mà vẫn hiên ngang. Chết chém cũng chẳng sợ. Một tinh thần gang thép và bất khuất. Một cái “dỗ gông” trước cửa ngục. Một câu miệt thị ngục quan: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Không phải ai cũng có cái gan dám thách thức cường quyền bạo lực thế đâu!
Huấn Cao coi khinh vàng ngọc. Không vì vàng ngọc, vì quyền uy mà ông “ép mình viết bao giờ” Chữ thì quý thật! Nhất sinh ông mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường tặng ba người bạn thân. Không chỉ đẹp ở nét chữ, mà mỗi chữ, mỗi bức thư họa của Huấn Cao là một bức châm, thể hiện một lí tưởng tung hoành, một hoài bão, một đạo lí cao đẹp. Chữ của Huấn Cao cho thấy cái tài, cái tâm, cái tầm nhìn của kẻ sĩ chân chính mà ta ngưỡng mộ và kính phục.
Với Huấn Cao thì thiên lương là ngọn lửa, là “ánh sáng đỏ rực như ngọn đuốc kia. Nếu ngục quan tâm phục con người nghĩa khí, tài hoa thì Huấn Cao lại nể trọng con người biệt nhỡn liên tài. Suốt đời ông chỉ “cúi đầu vái lạy hoa mai” thế mà khi nghe tên thơ lại nói lên tâm sự của chủ mình muốn “xin chữ”, Huấn Cao đã ân hận nói: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Cảnh “cho chữ” được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn gợi lên một không khí thiêng liêng bi tráng. Phòng giam ẩm ướt bẩn thỉu, hôi hám. Lửa đuốc sáng rực. Tấm lụa trắng. Chậu mực thơm lắm. Ba cái đầu cúi xuống tấm lụa trắng. Huấn Cao hiện ra với vẻ uy nghi, hào hùng, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, Huấn Cao vung bút viết. “những nét chữ vuông vắn rõ ràng” hiện lên rực rỡ trên phiến lụa óng. Tư thế đĩnh đạc ung dung. Mai kia ông đã bước lên đoạn đầu đài, nhưng đêm nay ông vẫn ung dung. Một cử chỉ “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy”. Một lời khuyên: “Ta khuyên thầy quản nên thay đổi chỗ ở đi… thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, rỗi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Với Huấn Cao thì thiên lương là cái gốc của đạo lí, có giữ được thiên lương thì mới biết quý trọng tài năng và cái đẹp ở đời. Ở con người Huấn Cao, từ cử chỉ, hành động, đến ngôn ngữ, từ nét chữ đến phong thái – đều toát ra một vẻ đẹp vừa phi thường, vừa bình dị, vừa anh hùng, vừa nghệ sĩ, bên cạnh cái hùng có cái bi, tính vốn khoảnh mà lại trân trọng kẻ biệt nhỡn liên tài, coi thường vàng bạc quyền uy mà lại đề cao tình bằng hữu, đến chết vẫn nghĩa khí và giữ trọn thiên lương. Nguyễn Tuân đã dàn cảnh, tả người và kể chuyện, sử dụng những ẩn dụ so sánh, những tình tiết đan chéo, càng buộc vào nhau, tạo nên một không gian nghệ thuật cổ kính, bi tráng nâng nhân vật Huấn Cao lên một tầm vóc lịch sử. Văn học lãng mạn thời tiền chiến chỉ có một Huấn Cao đẹp hào hùng như vậy.
Đọc “Chữ người tử tù” ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thường thức”. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật,… hầu như không có một chi tiết nào thừa. Ba nhân vật cùng đồng thời xuất hiện. Cảnh cho chữ là cao trào, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tất cả đều hướng về cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường , lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, V.V…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội.
Hai câu văn: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” và: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” – đẹp như một bức châm trong các thư hoạ nghìn xưa lưu lại, cũng là bài học làm người sáng giá!
Phân tích vẻ đẹp nghệ thuật của truyện ngắn Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân là một con người rất mực tài hoa, là bậc thầy về truyện ngắn. Sáng tác của ông được chia làm hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám. Ở giai đoạn trước ông được coi là nhà văn “duy mĩ” say mê cái đẹp và coi cái đẹp là đỉnh cao của nhân cách con người. “Vang bóng một thời” là tập truyện tiêu biểu cho sáng tác thời kì này của Nguyễn Tuân, không tin tưởng ở hiện tại và tương lai ông đi tìm vẻ đẹp quá khứ của một thời vang bóng xa xưa với những phong tục, thú vui tao nhã lành mạnh trong đó có thú chơi chữ của Huấn Cao và viên quản ngục trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Hai con người có nhân cách cao đẹp, thiên lương trong sáng và cảnh cho chữ lạ lùng được hiện lên trong tác phẩm làm nổi bật cho tài năng văn chương và tư tưởng của Nguyễn Tuân.
Huấn Cao trong câu chuyện là một người có tài viết chữ đẹp nhưng vì chống lại triều đình mà bị lãnh án tử hình. Trước khi xử án ông được đưa đến một trại giam có viên quản ngục và thầy thơ lại yêu quý nét chữ, trân trọng người tài Huấn Cao nên đã biệt đãi tù nhân, mong muốn ông Huấn cho chữ. Hiểu được tấm lòng ấy người tử tù có thiên lương trong sáng đã cho chữ trong hoàn cảnh éo le trước giờ chưa từng có. Tình huống truyện là cuộc gặp gỡ giữa hai con người khác biệt một bên là Huấn Cao có tài viết chữ nhưng lại đối đầu với triều đình, một bên là viên quan coi ngục đại diện cho người gìn giữ trật tự xã hội phong kiến đương thời nhưng lại khao khát ánh sáng chữ nghĩa. Hai con người đối lập trên bình diện xã hội nhưng lại là tri âm, tri kỉ với nhau trên bình diện nghệ thuật. Nhân vật đã được Nguyễn Tuân đặt vào trong tình huống đối nghịch tạo ra kịch tính cho câu chuyện và cảnh cho chữ là nút thắt được tháo gỡ.
Huấn Cao là một con người tài hoa uyên bác, khí phách hiên ngang, anh hùng bất khuất và có một thiên lương trong sáng được hiện lên trong tác phẩm. Trước tiên là gián tiếp ở phần đầu qua cuộc đối thoại của viên quản ngục với thầy thơ lại. Tài năng viết chữ đẹp của ông được người ở vùng tỉnh Sơn ca tụng khiến cho viên quan coi ngục đau đáu một lòng với sở nguyện xin được chữ ông Huấn về treo ở nhà riêng của mình bởi “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Nguyễn Tuân đã miêu tả sở nguyện của viên quan coi ngục để làm nổi bật lên chất tài hoa nghệ sĩ mà bao nhiêu người trong thiên hạ hằng khao khát có được. Không chỉ vậy người tử tù rất anh hùng là tên cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình vì bất mãn với chính sách cai trị triều chính, là kẻ không sợ lời đe dọa của bọn lính áp giải mà tự do, hiên ngang dỗ gông để trận mưa rệp rơi xuống đất, thản nhiên nhận rượu thịt ung dung làm một người tù tự do trong nhà lao. Có mấy ai trước khi chết mà vẫn giữ được bản lĩnh và phong thái như vậy? Ông làm ra vẻ khinh bạc viên quan coi ngục với câu nói: “Ngươi hỏi ta muốn gì ư? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây” xưa nay ta chỉ thấy quan coi ngục đánh mắng người tù chứ hiếm khi thấy điều ngược lại. Con người ấy hiện lên qua suy nghĩ của quan lại coi ông là một tên tội phạm nguy hiểm, là kẻ chọc trời khuấy nước khi nhận được án chém vẫn bình tĩnh, tự tin đón nhận cái chết. Huấn Cao không bao giờ khuất phục trước uy quyền, cường quyền và bạo lực. Ông là một nhân vật hiếm có xưa nay bởi sự hòa quyện của chất nghệ sĩ với chất anh hùng tạo nên nét riêng biệt, độc đáo khác với các nhân vật trong “Vang bóng một thời”. Con người ấy còn có một thiên lương trong sáng không phải ai trên đời ông cũng cho chữ, cuộc đời ông Huấn chỉ mới cho ba lần là ba người bạn tri kỉ. Nhưng khi hiểu được tấm lòng của quan coi ngục ông mỉm cười nhắc thầy thơ lại chuẩn bị chu đáo để ông có cơ hội được đáp lại sự chân tình ấy. Giọng Huấn Cao đã trở nên từ tốn, hòa dịu hơn rất nhiều: “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh về trại nghỉ, thì đem, mực, bút và cả bó đuốc xuống đây ta cho chữ”. Cho chữ chứ không phải là viết chữ, nghe như là lời của bề trên ban xuống cho người dưới. Ông khẳng định “Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ.” Huấn Cao không màng vinh hoa phú quý cũng không sợ cường quyền mà ép mình làm điều không thích. Dù ở trong chốn ngục tù bị giam cầm về thân xác nhưng tâm hồn ông không bao giờ bị giam giữ, ông vẫn luôn tự do về nhân cách.
Ông Huấn quyết định cho chữ trong hoàn cảnh “xưa nay chưa từng có” theo như Nguyễn Tuân nhận xét. Cảnh cho chữ thật xác đáng là một nghệ thuật đặc sắc được nhà văn miêu tả thật đáng khâm phục tài năng. Thời gian là đêm cuối của một người tù trước khi ra pháp trường. Quang cảnh cho chữ vừa lạ vừa đẹp vừa như một ảo ảnh. Lạ vì xưa nay người ta cho chữ trong căn phòng sạch sẽ, lung linh ánh nến ánh đèn, có mùi thơm của hương trầm nhưng ở đây tại nhà lao chẳng có gì ngoài “Buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” chỉ có ánh đuốc tẩm dầu sáng đỏ rực, khói tỏa như đám cháy nhà. Phòng giam ba người nhưng chỉ một người hoạt động. Thầy thơ lại run run bưng chậu mực. Viên quản ngục hai tay nâng tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Huấn Cao “cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa”, từng nét chữ thoăn thoắt được viết ra, “người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”. Ta thấy tư thế đối nghịch nhau giữa một người tù bị giam cầm và hai người tự do đại diện cho cường quyền bấy giờ. Huấn Cao thì ung dung, tự tại và đối lập với tư thế ấy là sự “khúm núm” của viên quan coi ngục và “run run” của thầy thơ lại. Cái “khúm núm” của quan coi ngục không phải là cái cúi đầu hèn hạ mà trái lại rất đáng trân trọng. Ông cúi đầu thành kính trước cái đẹp đó là một điều nên làm ở trong đời. Vị thế và tâm thế bị đảo ngược hoàn toàn. Người có quyền lại không có uy, người tử tù lại giữ trong tay quyền sát quyền sinh, người đáng lẽ phải giáo dục, giáo hóa tội phạm thì nay lại được tội phạm giáo dục lại nhân cách, thiên lương khi được ông Huấn cho lời khuyên nên thay chốn ở đi, “Thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ.Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi” đó là lời khuyên chân thành để giữ được nhân cách cao đẹp. Trước tấm lòng chân tình ấy viên quản ngục lùi ra mà nói gần như muốn khóc và cảm động: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cả ba con người cùng đồng điệu, cùng chung một tấm lòng yêu tha thiết cái đẹp, cái đẹp chữ viết đi liền với cái đẹp tâm hồn và nhân cách thiên lương trong sáng.
Như vậy qua tác phẩm “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân đã cho ta thấy ba thái độ của con người đối với cái đẹp. Trước tiên đó là thái độ hủy diệt. Điều đó được biểu hiện qua mấy tên lính mà nhà văn miêu tả sơ lược ở đoạn đầu với thái độ hách dịch, vô lễ với Huấn cao và bạn tù của ông. Chúng là hạng thiên lôi tàn bạo chỉ đâu đánh đó, ở trong chốn ngục tù lâu ngày bị nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Ngoài ra qua mệnh lệnh của quan trên tai to mặt lớn ở Hưng Sơn Tuyên đốc bộ đường đại diện cho chính quyền phong kiến bảo thủ, trì trệ cố hủy diệt tài năng của người tài để gìn giữ ngôi báu tàn bạo, độc ác của mình.
Thái độ thứ hai là yêu mến cái đẹp và quý trọng người tài. Thể hiện qua tấm lòng, hành động của viên quản ngục và thầy thơ lại. Họ cảm mến Huấn Cao qua lời đồn, luôn muốn biết những người tài và bất chấp cả nguy hiểm đến tính mạng để có thể hoàn thành sở nguyện cao đẹp là xin chữ ông Huấn. Họ tiếc cho một nhân tài như ông lại bị đao chém pháp trường hủy diệt. Cái đẹp thì ai cũng quý nhưng biết đẹp mà quý cũng đáng trân trọng biết bao bởi nó làm cho con người đẹp lên, phẩm chất cao hơn và thơm ngát hơn cho tấm lòng thiên lương trong sáng, thanh sạch.
Thái độ thứ ba là sự cao thượng và rộng lượng của bậc chính nhân quân tử, nghệ sĩ tài ba của Huấn Cao. Điều đó được biểu hiện qua nhân cách và hành động của ông được tác giả khắc họa. Huấn Cao là con người đặc biệt có một không hai trong trang viết của Nguyễn Tuân để lại cho tác giả sự trân trọng và nỗi niềm xót xa, tiếc nuối cho một con người tài giỏi, có nghĩa khí và nhân cách cao đẹp lại gặp không đúng thời, đúng vận mệnh. Huấn Cao ngày nay cũng rất nhiều nhưng không ít người đang dần bị vùi chôn bởi thế lực quyền uy và sức mạnh của đồng tiền. Theo như thông tin của Bộ giáo dục ngày 17/7/2018 ở Hà Giang sau khi thanh tra rà soát lại công tác chấm thi có 114 thí sinh bị hạ điểm vì điểm thi công bố bị gian lận, nâng lên quá nhiều so với năng lực thực tế của các em. Nạn chảy máu chất xám, mua điểm, mua quan bán chức… đã khiến biết bao người tài có trí tuệ tài năng thực sự bị vùi dập một cách tàn bạo. Đó là nỗi đau lớn của ngành giáo dục của cả đất nước con người Việt Nam. Hiền tài như Huấn Cao nhưng lại bị cướp trắng trợn cơ hội để cống hiến cho đất Việt.
Qua tác phẩm tác giả thể hiện được tư tưởng của mình về nghệ thuật và nhân phẩm con người. Nhân cách đẹp là sự kết hợp giữa cái tài và cái tâm và cái đẹp luôn phải gắn liền với cái thiện không thể tách rời, bản thân cái đẹp chính là đạo đức. Cái đẹp không chỉ được sáng tạo ra ở nơi thanh tao, sạch sẽ mà ngay ở trong môi trường của cái xấu và cái ác nó cũng luôn tồn tại nhưng không vì thế mà lụi tàn trái lại càng nó càng tỏa sáng rực rỡ và mạnh mẽ hơn. Chỉ có cái đẹp mới có thể cảm hóa được tâm hồn con người làm cho chúng trở nên tốt hơn, cao đẹp hơn ở trên đời.
Nguyễn Tuân với tài năng nghệ thuật tương phản với bút pháp tả thực và lãng mạn đan xen, sự sắc sảo điêu luyện của ngòi bút đã khắc họa con người và cảnh vật chi tiết, tỉ mỉ gây ấn tượng sâu sắc. Nguyễn Tuân phải là một con người yêu mến và trân trọng tài năng, cái đẹp vô cùng mới có thể viết được truyện ngắn “Chữ người tử tù” với sự hiện thân của hai con người có nhân cách cao đẹp như Huấn Cao và viên quản ngục hay đến thế.
Từ truyện Chữ người tử tù em hãy nêu suy nghĩ về mối quan hệ giữa cái đẹp và cái thiện
Truyện ngắn Chữ người tử tù đề cập đến thú chơi thư pháp – là nghệ thuật thể hiện chữ viết để biểu lộ nội tâm, tính cách, khí phách, tài hoa người viết nên việc cho chữ, chơi chữ như một cách di dưỡng tinh thần cao khiết. Viên quản ngục xin chữ Huấn Cao là lĩnh hội khí phách, tài hoa ấy. Hai nhân vật vốn được đặt trên hai tuyến đối nghịch nhau lại gặp gỡ trong hoàn cảnh cho chữ đầy ấn tượng và mang tính biểu tượng cao.
Cảnh cho chữ thoạt tiên được miêu tả trong một đường viền không gian vốn có nhiều sự đối nghịch và không thuận lợi, thậm chí tồi tệ. Cái đẹp đang được chuẩn bị phô bày “trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Nhưng hình như ngoại cảnh chẳng là cái gì so với “thiên lương”, với sự kì vĩ sinh sôi của nghệ thuật thư pháp hư huyền, ánh sáng chiếm lĩnh dần bóng tối: “khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”, “lửa cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo:… Ánh sáng bừng lên giữa lao ngục là một đám cháy rọi sáng những linh hồn, kết nối họ lại với nhau trong mĩ cảm thăng hoa. Người cho chữ – biểu tượng của tự do và tài hoa xuất chúng thì cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Còn viên quản ngục – kẻ vốn tiêu biểu cho cái ác, cho quyền sinh sát thì lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”; bên cạnh đó, thầy thơ lại run run bưng chậu mực”. Đúng là một cảnh tượng hiếm thấy xưa nay…
Với bút pháp tương phản bậc thầy, Nguyễn Tuân đã làm bật lên sự khác biệt để nói về một điểm giao hòa. Bó đuốc cháy rực soi sáng chí hướng của ba nhân vật. Mùi hôi của không gian chết chóc nhường chỗ cho mùi thơm của mực, của sự sáng tạo kết tỏa. Ở chi tiết này, cái mĩ, cái thiện và cái dũng trong phẩm chất Huấn Cao (cũng là tư tưởng tác phẩm) đã thống nhất làm một. Hình ảnh tử tù trở thành lồng lộng, uy nghi; viên quản ngục và thầy thơ lại – những kẻ đại diện cho “kỉ cương” xã hội đương thời – bỗng trở nên nhỏ bé, khúm núm trước người tử tù. Và lạ kì thay, chính sự nhỏ bé, khúm núm ấy lại khiến cho họ lớn lên hơn bao giờ hết khi biết vâng phục cái đẹp, cái tài, cái thiên lương. Chọn lối đi éo le, nhọc nhằn đó, họ mới có khả năng hoàn lương.
Với cảnh cho chữ này, nhà ngục tăm tối, uy quyền đương thời bỗng sụp đổ thảm hại và cái cao cả được lên ngôi.
Với bút pháp điêu luyện trong việc tạo dựng hình tượng, với chi tiết độc đáo và gợi cảm, gây ấn tượng mạnh, với ngôn ngữ sáng tạo, lời ít mà ý tưởng vang vọng sâu xa, với không khí có vẻ cổ kính mà hiện đại, với chất bi tráng hòa quyện vào nhau, cảnh cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù, là một trong những đoạn văn toàn bích nhất của đời văn Nguyễn Tuân.
Sự tôn vinh cái đẹp qua truyện ngắn Chữ người tử tù
Chữ người tử tù (trích trong tập Vang bóng một thời, 1940) là một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Cách đặt tên tác phẩm đã thể hiện rõ dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Huấn Cao là hình tượng mang vẻ đẹp hài hòa giữa tài hoa, khí phách và thiên lương; là biểu tượng của những nhân cách lớn, có bóng dáng nhân vật lịch sử mà ông ngưỡng bộ: Cao Bá Quát. Huấn Cao là hiện thân cho lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân trước Cách mạng.
Tài hoa của Huấn Cao được giới thiệu ngay từ đầu truyện, qua lời đồn thổi của các nhân vật khác. Nhân vật chính chưa xuất hiện nhưng đã được giới thiệu là một người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ nhanh và rất đẹp, là người văn võ đều có tài. Nguyễn Tuân đã chủ ý giới thiệu cái tài hoa của Huấn Cao trước khi giới thiệu nhân vật.
Cái tài hoa của Huấn Cao nổi tiếng đến mức viên quản ngục chấp nhận đãi ngộ y suốt cả tháng trời để hi vọng xin được chữ, bất chấp thái độ đầy khinh bạc của kẻ tử tù.
Trong cảnh cho chữ, tài hoa thực sự tỏa sáng đã tạo nên không khí thiêng liêng khiến cho những con người xa cách về vị thế xã hội đã chụm đầu vào nhau say sưa hướng tới cái đẹp.
Miêu tả cái tài hoa tuyệt đích của Huấn Cao cũng chính là cách để Nguyễn Tuân thể hiện quan niệm liên tài của mình. Cái tài là thứ quý hiếm đáng được tôn thờ và ngưỡng mộ; phải là cái phát lộ nên tuyệt đích, phải có giá trị thanh lọc tâm hồn con người.
Khí phách khác người của Huấn Cao cũng được giới thiệu ngay từ đầu truyện, trước khi nhân vật xuất hiện. Qua lời bình luận của các nhân vật chốn tù ngục, Huấn Cao là người văn võ đều có tài, là người có nghĩa khí, chọc trời quấy nước… Khí phách của Huấn Cao gợi đến những bậc anh hùng ngang tàn Chọc trời khuấy nước mặc dầu / Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.
Khí phách ấy còn thể hiện rõ bằng những hành động và cách ứng xử của Huấn Cao trong ngục: thái độ thản nhiên đến lạnh lùng nhận rượu thịt suốt nửa tháng trời, khinh bạc trước trò tiểu nhân, không hạ thấp mình khi rơi vào hoàn cảnh ngục tù. Huấn Cao vẫn sống ung dung, đường hoàng trong những ngày chờ ra pháp trường.
Trong cảnh cho chữ, con người ngang tàn ấy cổ đeo gông, chân vướng xiền vẫn say sưa sáng tạo, không thèm nghĩ đến cái chết đã kề cổ.
Ông là một người có nhân cách cao cả, chữ chính là cái Tâm của ông. Đối với Huấn Cao, chữ là thứ quý giá nhất trên đời song không vì thế mà đổi chữ lấy vàng bạc, quyền thế. Chữ chỉ dành cho những người tri kỉ, cho chữ viên ngục ngục tức là Huấn Cao đã xem quản ngục là người tri kỉ. Chữ không thể treo chỗ tối tăm, bẩn thỉu cũng có nghĩa là cái đẹp không thể tồn tại bên cái xấu xa. Chữ thể hiện hoài bão của một đời người. Nét chữ vuông vức, tươi tắn ấy chính là tinh hoa của đời Huấn Cao khiến quản ngục phải nghẹn ngào vái lạy.
Nhân vật Huấn Cao là một vẻ đẹp hội tụ của tài hoa, khí phách và thiên lương. Qua nhân vật này chúng ta thấy rõ nét phong cách nghệ thuật nổi bật của Nguyễn Tuân: ông ưa tìm những cái biệt lệ, độc đáo và Huấn Cao là thứ hiếm lạ còn sót lại của một thời vang bóng. Nhân vật được nhìn ở góc độ tài hoa nghệ sĩ. Cũng qua Huẫn Cao, chúng ta thấy rõ cái quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp: cái đẹp phải là cái độc đáo phi thường, quý hiếm, phải có sức cảm hóa con người, cải tạo hoàn cảnh.
Nếu nhân vật Huấn Cao được nhìn ở phương diện con người sáng tạo cái đẹp thì quản ngục được nhìn ở phương diện con người hưởng thụ cái đẹp. Quản ngục là nhân vật giúp làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao, thể hiện quan điểm liên tài của Nguyễn Tuân.
Chưa gặp Huấn Cao nhưng lòng ông đã một mực kính phục con người nổi tiếng tài hoa và khí phách của tỉnh Sơn. Khi nhận tù, trái hẳn với ngày thường, y nhìn tù với con mắt hiền lành, lòng kiêng nể, biệt nhỡn với Huấn Cao khiến bọn lính thấy lạ. Khi bị Huấn Cao mắng vẫn lễ phép rút lui.
Thái độ kiên nhẫn dâng rượu thịt suốt cả tháng trời mong mỏi ngày Huấn Cao dịu tính nết để xin chữ, chuẩn bị sẵn chục vuông lụa trắng, khổ tâm vì chưa xin được chữ, lo lắng vì sợ không kịp… khiến chúng ta thực sự cảm động về khát vọng cái đẹp của y.
Khi nghe tin ngày mai Huấn Cao sẽ ra pháp trường, hốt hoảng vì dự định chưa thành, viên quản ngục tái nhợt người gọi thầy thơ lại để tâm sự. Cảm kích trước khát vọng chính đáng của quản ngục, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam thổ lộ nỗi lòng quản ngục cho Huấn Cao biết.
Phải là người có nhân cách cao đẹp quản ngục mới trọng người tài và ngưỡng mộ cái đẹp đến thế (Một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu). Nhân cách cao đẹp của viên quản ngục bộc lộ thật cảm động trong cảnh cho chữ. Nhận được chữ, trước lời khuyên chân thành của Huấn Cao, y đã khúm núm vái lạy, nhỏ dòng nước mắt nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin được bái lĩnh. Cái vái lạy và dòng nước mắt không làm người ta trở nên nhỏ bé, đê hèn mà ngược lại làm cho hình tượng quản ngục trở nên đẹp và cao cả hơn. Người đọc cảm thấy tin tưởng ở tấm lòng tốt đẹp đó qua kết truyện đầy sức gợi. Lí tưởng hướng tới cái cao cả, đẹp đẽ giúp quản ngục vượt ra khỏi cái tầm thường, tránh xa chốn xô bồ cặn bã mà giữ mình.
Nội dung và nghệ thuật truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
Chữ người tử tù được sáng tác trong cảm hứng chung của Nguyễn Tuân về những vẻ đẹp “vang bóng một thời”. Đây là vẻ đẹp tài năng, tâm hồn và tính cách của lớp nhà nho tài hoa tài tử phản kháng lại trật tự xã hội phong kiến đương thời. Nhà văn đã tạo ra một không khí cổ xưa cho câu chuyện, xây dựng một hình tượng ít nhiều mang màu sắc “huyền thaoji”, đặt nhân vật vào một tình huống đầy kịch tích,… để làm nổi bật những phẩm chất ưu tú đặc biệt của một lớp người xưa theo quan niệm thẩm mĩ của mình.
Ở nhân vật Huấn Cao nổi bật lên hai phẩm chất: anh hùng và nghệ sĩ. Tuy cuộc nổi loạn chống lại triều đình của Huấn Cao không được miêu tả trực tiếp mà chỉ được nhắc đến qua lời nói và thái độ của các nhân vật khác, nhưng khí phách “chọc trời quấy nước” và tư thế hiên ngang của người anh hùng xả thân vì nghĩa lớn vẫn hiện lên rờ rỡ trong tác phẩm. Kể cả khi đã “sa cơ”, rơi vào chốn tù ngục chờ án tử hình, dũng khí và tài năng của người tử tù này vẫn là một sức mạnh vô hình khiến những kẻ đối nghịch phải e dè, kính sợ. Phẩm chất anh hùng của một dũng tướng đã là một vẻ đẹp phi thường, rất đáng ca ngợi, nhưng ở đây, Nguyễn Tuân đặc biệt đề cao vẻ đẹp tài năng và tâm hồn nghệ sĩ của nhân vật Huấn Cao.
Tài viết chữ đẹp đến mức siêu phàm của người tử tù này đã thành huyền thoại, đến nỗi có kẻ mất ăn mất ngủ vì chỉ muốn có được vài ba chữ của ông Huấn. Vốn là người coi khinh tiền bạc, bất chấp cường quyền và bạo lực, “nhất sinh không vì vàng ngọc và quyền thế mà ép mình” nên suốt nửa tháng trong tù, Huấn Cao luôn tỏ ra cao ngạo, khinh bạc, không thèm đếm xỉa đến sự biệt đãi của ngục quan hay ngón đòn trả thù tàn bạo. Nhưng đến ngày cuối cùng khi biết được tâm sự của viên quản ngục, Huấn Cao đã thay đổi hẳn thái độ. Con người có thừa dũng khí và tài năng này lại là một tâm hồn nghệ sĩ để rung cảm với cái đẹp, cái “thiên lương”. Trước “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan, Huấn Cao đã dành trọn đêm cuối cùng của đời mình để làm y thỏa nguyện.
Cảnh cho chữ trong tù là cảnh tượng lẫm liệt, hào hùng nhất của thiên truyện, tôn vinh vẻ đẹp cả về nhân cách lẫn tài năng của người anh hùng – nghệ sĩ trong thân phận tử tù. Có thể nói, cảnh tượng này là sự thăng hoa của hình tượng nhân vật, từ vị thế của kẻ từ tù, Huấn Cao vụt trở thành người hướng đạo, chỉ giáo cho ngục quan. Hình tượng Huấn Cao cũng là sự thăng hoa của ngòi bút lãng mạn Nguyễn Tuân. Với Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công một nhân vật theo quan niệm thẩm mĩ của mình: đó là sự thống nhất giữa cái tài, cái đẹp và cái “thiên lương”.
Các nhân vật “viên quản ngục”, “thầy thơ lại” cũng là một vẻ đẹp được tác giả khai thác ở một phương diện khác. Đây là hai kẻ nằm ngay trong bộ máy chính quyền tàn bạo, đang thực thi nhiệm vụ giam giữ sáu tên tù án chém. Nằm trong guồng máy đó, nhưng quản ngục lại là một kẻ lạc lõng, “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” của y là một “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Cả quản ngục và thơ lại hình như đã “chọn nhầm nghề”, bởi “ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa đống cặn bã”. Điều đó giải thích vì sao ngục quan và thuộc hạ của y có sự “biệt đãi” đối với Huấn Cao. Từ hai phía đối lập, Huấn Cao, quản ngục và thơ lại đã gặp nhau ở tấm lòng “biệt nhơn liên tài”. Họ có thể không run sợ trước cường quyền và bạo lực (quản ngục và thơ lại bất chấp sự nguy hiểm có thể bị tố giác để “biệt đãi” Huấn Cao) nhưng lại biết “cúi đầu” trước cái đẹp, cái “thiên lương”. Cảnh cho chữ trong tù là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”, ca ngợi sự gặp gỡ của những tấm lòng tri kỉ.
Nổi bật trong truyện ngắn này là nghệ thuật tạo dựng tình huống. Chọn một hoàn cảnh oái oăm (trong đề lao của tử tù), tác giả để cho ba nhân vật (Huấn Cao, viên quản ngục, thầy thơ lại) gặp nhau, buộc họ phải tìm cách ứng xử và bộc lộ tính cách. Họ tuy có điểm gần gũi nhau (đều biết quý trọng cái đẹp và cái “thiên lương”) nhưng lại ở hai vị thế đối nghịch (kẻ tử tù và ngục quan), luôn va chạm với nhau trong một hoàn cảnh bất thường… tất cả tạo nên kịch tích và sự hấp dẫn của câu chuyện.
2/ Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật ở đây mang nhiều dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn. Khác với chủ nghĩa hiện thực, nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn mang nhiều yếu tố phi thường, được tô vẽ theo ý đồ chủ quan của tác giả. Huấn Cao là một nhân vật như vậy. Để xây dựng hình tượng một con người vừa mang khí phách của người anh hùng cái thế “chọc trời quấy nước” vừa mang tâm hồn cao thượng của người nghệ sĩ tài hoa, Nguyễn Tuân đã sử dụng một cách có hiệu quả các thủ pháp nghệ thuật như cường điệu (tiếng đồn về tài “bẻ khóa vượt ngục” của Huấn Cao, sự nhún nhường quá mức của quản ngục,…), tương phản (thái độ cao ngạo của Huấn Cao – sự kính nể, e dè của ngục quan; nét đẹp tâm hồn của kẻ tử tù và ngục quan – chốn tù ngục tàn bạo, xấu xa), đối lập (kẻ tử tù – quan coi ngục; ánh sáng của “thiên lương” – bóng tối trong đề lao),…
3/ Cách tạo không khí cổ xưa cho câu chuyện cũng là một biện pháp nghệ thuật đáng chú ý. Cảnh đề lao, quan coi ngục và tử tù đều mang dáng dấp của cảnh vật và con người thời xưa. Giọng điệu nhân vật, cách xưng hô hay lời dẫn chuyện cũng rất cổ kính với nhiều từ Hán Việt. Diễn biến sự việc cũng như nhịp điệu câu văn đều chậm rãi như nhịp sống của người thời xưa. Không có những hiểu biết sâu sắc về lịch sử, về văn hóa xã hội, lối sống và phong tục,… không thể tái hiện một không gian mang tính lịch sử thích hợp với nhân vật như vậy. Các đẩy nhân vật và sự việc về một thời quá khứ cũng là một biện pháp khiến tác giả có thể hư cấu mọi chuyện theo dụng ý của mình, thoát khỏi sự kiểm duyệt của bộ máy nhà nước đương thời, và hình tượng cũng dễ có sức thuyết phục hơn.
Xem thêm:
- Hướng dẫn soạn văn Chữ người tử tù, trả lời câu hỏi SGK
- Mẫu phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù hay
- Văn mẫu đề phân tích nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù
- Nêu cảm nhận về cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
Kết luận
Các bài phân tích Chữ người tử tù lớp 10 đã được đăng tải đa dạng. Học sinh tham khảo để viết được một bài phân tích đầy đủ các ý chính.