Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và giá trị nhân đạo
Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương của danh sĩ Nguyễn Dữ là yêu cầu thường gặp trong chương trình ngữ văn lớp 9. Để làm được đề văn này học sinh cần nắm rõ những kiến thức về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Ngoài ra, bạn có thể tham khảo dàn ý chi tiết do The POET Magazine xây dựng (www.thepoetmagazine.org) và các bài văn mầu để biết cách phân tích tác phẩm này.
Dàn ý Chuyện người con gái Nam Xương
Tham khảo dàn ý phân tích văn học lớp 9 bài Chuyện người con gái Nam Xương dưới đây:
Mở bài: Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.
Thân bài: Có những ý chính cần được phân tích như sau:
1/ Cuộc sống của Vũ Nương sau khi được gả về nhà Trương Sinh.
- Vũ Nương là người có tính tình thùy mị, lại có tư dung tốt đẹp. Trương Sinh vì quá si mê nên xin mẹ hỏi cưới nàng.
- Vũ Nương biết chồng có tính đa nghi nên luôn chú ý giữ gìn khuôn phép.
- Chiến tranh xảy ra nên Trương Sinh phải lên đường đi lính.
Vũ Nương ở nhà tần tảo nuôi dạy con thơ và chăm sóc mẹ chồng chu đáo.
=> Vũ Nương là người vợ đảm đang, hiền thục và hết lòng vì gia đình nhà chồng.
2/ Vũ Nương phải chịu tiếng oan
Hoàn cảnh: Trương Sinh trở về, biết tin mẹ mất liền bế con ra mộ thăm mẹ. Đứa con vì lâu không gặp cha nên ngây thơ hỏi: “Hóa ra ông cũng là cha tôi ư?”
=> Trương Sinh hiểu nhầm vợ có người khác sau lưng mình.
Diễn biến: Trương Sinh về nhà chửi mắng vợ. Vũ Nương hết lòng giải thích nhưng không được. Biết không thể nói lí lẽ với chồng nên Vũ Nương nhảy xuống sông tự vẫn để để rửa sạch nỗi tủi nhục.
=> Vũ Nương đau đớn và vô cùng thất vọng vì bị chồng nghi ngờ. Nàng lựa chọn cái chết như một lời khẳng định tấm lòng trong sạch. Qua đó, phản ánh số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
3/ Vũ Nương được giải oan
Vào một đêm nọ, Trương Sinh bế con ngồi trước ngọn đèn, đứa bé chỉ vào cái bóng mình và nói: “Cha Đản lại đến kìa”. Ngay lúc này, Trương Sinh nhận ra mình đã hiểu lầm vợ.
=> Sự hối hận muộn màng.
Cùng làng có chàng trai Phan Lan vì đã từng cứu Linh Phi nên khi gặp tai nạn chết đuối thì được Linh Phi cứu sống. Tình cờ Phan Lan gặp lại Vũ Nương ở thủy cung.
Phan Lang trở về trần gian và được Vũ Nương nhắn gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình.
Trương Sinh lập một đàn tại bến Hoàng Giang, Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.
=> Vũ Nương đã được giải oan nhưng nàng không thể tiếp tục cuộc sống nơi trần gian.
4/ Giá trị nghệ thuật và nhân đạo
Tác phẩm xây dựng tình huống truyện độc đáo, sử dụng yếu tố kỳ ảo và kịch tính làm tăng phần hấp dẫn cho câu chuyện.
Tác phẩm là lời tố cáo xã hội phong kiến luôn đối xử bất công với những người phụ nữ. Đồng thời, ngợi ca phẩm chất tốt đẹp và thương cảm cho số phận của người phụ nữ.
Kết bài: Khái quát lại tác phẩm. Từ đó, khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật mà tác phẩm mang lại.
Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
Tổng hợp những bài văn mẫu phân tích Chuyện người con gái Nam Xương lớp 9 hay và có chọn lọc cho học sinh tham khảo.
Phân tích bài Chuyện người con gái Nam Xương mẫu 1
Nhắc đến những tác phẩm văn học thời kì trung đại Việt Nam thì không thể không kể đến Chuyện người con gái Nam Xương của nhà văn Nguyễn Dữ. Truyện ngắn được trích từ truyện Truyền kì mạn lục và được xem như là “thiên cổ kì bút”. Tác phẩm này được đánh giá cao về giá trị nội dung và nghệ thuật. Tuy câu chuyện được tác giả xây dựng có nhiều yếu tố hoang đường và kì ảo nhưng tác phẩm này vẫn mang đến giá trị nhân đạo sâu sắc.
Tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ được sáng tác trong khoảng nửa đầu thế kỷ XVI. Tác phẩm là tổng hợp những câu chuyện phản ánh tình hình xã hội xưa rối ren và đầy bất công. Nguyễn Dữ xây dựng nội dung câu chuyện dựa vào cốt truyện dân gian có sẵn nhưng được biến tấu bằng sự sáng tạo độc đáo của riêng mình. Truyện ngắn Chuyện người con gái Nam Xương là cũng là tác phẩm sở hữu nét kì ảo đặc sắc ấy.
Vũ Nương là một người con gái “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” nên được chàng Trương Sinh đem lòng quý mến. Trương Sinh quyết xin mẹ trăm lạng vàng để hỏi cưới nàng. Trong thời buổi chiến tranh loạn lạc nên Trương Sinh phải đi lính đánh giặc. Vũ Nương ở nhà ân cần chăm lo phụng dưỡng mẹ già và nuôi dạy con nhỏ. Nàng giữ trọn vẹn đạo dâu con, tình nghĩa vợ chồng và cả tình mẹ con. Ngay cả khi mẹ chồng qua đời tuổi già, nàng vẫn một mình lo việc ma chay tươm tất. Từ đó ta có thể thấy được rằng, Vũ Nương là một người phụ nữ có phẩm chất đáng quý, hết lòng vì gia đình chồng. Không những thế, nàng là còn là một người vợ yêu thương chồng. Ngày tiễn chồng ra trận, nàng không hề mơ tưởng sẽ được “đeo ấn phong hầu”, mà chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về “được hai chữ bình yên”.
Cũng như hầu hết những người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến. Cuộc đời Vũ Nương được miêu tả như những trang buồn đầy nước mắt. Năm tháng trôi qua, ngày Trương Sinh trở về cũng là lúc bé Đản vừa học nói. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ đến với đôi vợ chồng trẻ và họ sẽ được viên mãn. Nhưng rồi bi kịch lại ập tới, chỉ vì hiểu lầm hình ảnh “cái bóng” từ miệng con trai mà Trương Sinh sinh lòng ngờ vực. Chàng “đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có ý gỡ ra được”. Vốn bản tính hay ghen, lại ít học hành nên Trương Sinh đã “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Khi vợ nói lời phân trần, Trương Sinh lại một mực không tin khiến cho hàng xóm phải đến khuyên ngăn hết lời. Cũng vì thế, Vũ Nương chịu oan khuất biết không thể rửa sạch nên đành nhảy xuống sông tự vẫn để chứng minh sự trong sạch. Một đêm nọ, khi thấy đứa bé chỉ vào cái bóng mình phản chiếu từ ngọn đèn và bảo đấy là cha, Trương Sinh mới nhận ra mình đã hiểu lầm vợ, Tuy nhiên sự hối hận lúc này cũng đã muộn. Cùng làng có người tên là Phan Lan vì đã từng cứu Linh Phi trước đó nên khi gặp nạn đuối nước, chàng đã được Linh Phi cứu sống. Khi ấy, chàng tình cờ gặp Vũ Nương ở thủy cung. Phan Lang sau khi trở về trần gian, chàng gặp và nhắn gửi Trương Sinh phải giải oan cho vợ. Trương Sinh lập đàn giải oan bên bến Hoàng Giang. Sau đó, Vũ Nương hiện ra thoắt ẩn thoắt hiện rồi biến mất.
Có thể thấy rằng, cuộc đời của Vũ Nương là cuộc đời bi thảm và đầy những bất hạnh. Nàng là nạn nhân của chế độ nam quyền và phải chịu tấn bi kịch cay đắng. Thông qua những chi tiết ấy, nhà văn muốn gửi gắm thông điệp về giá trị nhân văn cao cả. Câu chuyện là lời ca ngợi những phẩm chất đáng quý người phụ nữ. Qua đó, tác giả thể hiện sự trân trọng đối với khát vọng được hạnh phúc và ước mơ về sự công bằng trong xã hội. Cùng với đó là niềm cảm thương sâu sắc của Nguyễn Dữ đối với số phận bất hạnh của người phụ nữ. Không chỉ vậy, nhà văn cũng tố cáo xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những tác phẩm kì ảo xuất sắc thể hiện cái nhìn về người phụ nữ trong xã hội xưa. Qua đó, truyện ngắn đã góp phần vào tiếng nói chung đòi lại sự bình đẳng và quyền lợi cho người phụ nữ.
Văn mẫu Chuyện người con gái Nam Xương mẫu 2
Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ thuộc tập truyện Truyền kì mạn lục được viết vào những năm đầu thế kỉ XVI. Tác phẩm có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian Vợ chàng Trương nhưng được tác giả thêm thắt những chi tiết độc đáo và sáng tạo riêng.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết. Nàng vốn là một người phụ nữ “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Những tưởng số phận con người ấy sẽ được hưởng hạnh phúc lâu bền nhưng cay đắng thay nàng lại gặp phải nhiều bất hạnh. Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện sự ca ngợi và tấm lòng trân trọng của tác giả đối với những phẩm giá đáng quý của người phụ nữ. Qua đó, tác giả cũng muốn bày tỏ sự đồng cảm với những bất hạnh và khó khăn mà họ phải chịu đựng trong thời kỳ phong kiến xưa.
Người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay luôn được ngợi ca bởi vẻ đẹp tâm hồn dịu dàng và bao dung. Tương tự như thế, hình ảnh người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương cũng được Nguyễn Dữ miêu tả như vậy. Nàng Vũ Nương “tư dung tốt đẹp” ai ai cũng quý mến. Chẳng vậy mà nàng lại được Trương Sinh – một người “con nhà hào phú” hỏi làm vợ.
Trong mối quan hệ vợ chồng, vì biết chồng “có tính đa nghi” nên Vũ Nương cũng luôn “giữ gìn khuôn phép, không lần nào vợ chồng phải đến nỗi thất hoà”. Khi chiến tranh xảy ra, hai vợ chồng phải chia ly để Trương Sinh lên đường đi chiến đấu, Vũ Nương một lòng nghĩ đến sự an nguy của chồng “chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Trong mối quan hệ với mẹ chồng nàng luôn hết lòng chăm sóc mẹ chồng kể cả khi bà đau ốm đến lúc bà mất vì tuổi già. “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Qua chi tiết ấy, ta có thể thấy được tấm lòng hiếu thảo của nàng dành cho mẹ chồng. Đối với con, Vũ Nương là người mẹ hết mực yêu thương con. Nàng làm cha vừa làm mẹ bé Đản khi chồng vắng nhà. Khi Trương Sinh trở về sau chiến trận, vì nghe lời con trai còn nhỏ dại mà nghi oan cho Vũ Nương có người mới. Tuy nhiên, ngay cả khi phải chịu oan ức là thế, Vũ Nương vẫn tha thiết bày tỏ nỗi niềm với chồng. Đồng thời, nàng luôn ước mong về cuộc sống gia đình sum vầy, hạnh phúc.
Trong xã hội phong kiến suy sụp, vẻ đẹp của người phụ nữ thường gắn liền với nỗi bất hạnh. Thật vật, nhân vật Vũ Nương của Nguyễn Dữ cũng phải hứng chịu nhiều oan ức và khó khăn. Trước hết, nàng là nạn nhân của chế độ nam quyền khi có một cuộc hôn nhân không được lựa chọn. Với vẻ đẹp và phẩm giá vốn có, nàng phải được gả cho gia đình tài đức hơn. Nhưng trớ trêu thay, số phận lại chỉ dành cho nàng một gã Trương Sinh đa nghi và vũ phu. Cuộc hôn nhân của nàng Vũ Nương bắt đầu như một cuộc trao đổi, mua bán chỉ với giả “trăm lạng vàng”. Qua đó cho thấy, thân phận thấp hèn của người phụ nữ lúc bấy giờ không hề có tiếng nói. Họ không có quyền lựa chọn và phải phụ thuộc vào người đàn ông. Đứng trước sự chỉ trích và tiếng oan không gì giãi bày được, cuộc đời Vũ Nương trở nên bế tắc. Biết chẳng thể nào tự minh oan cho bản thân nên dù vẫn còn khao khát hạnh phúc trần thế, nàng cũng đành chấp nhận gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.
Thân phận luôn bị giẫm đạp của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến khiến họ trở nên nhỏ bé và thậm chí không được làm chủ cuộc sống của mình. Dù hứng chịu nhiều cay đắng và oan khiên, họ cũng không thể lên tiếng bảo vệ bản thân. Số phận bất hạnh của nàng Vũ Nương gợi ta đến số phận bi thương của những phụ nữ khác trong văn học trung đại như Thúy Kiều, Thúy Vân, Đạm Tiên,…
Nhưng nếu chỉ dừng lại tại đó, tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ sẽ không được đánh giá cao trong kho tàng văn học Việt Nam. Bằng sự thương xót dành cho nàng Vũ Nương và thân phận người phụ nữ nói chung, nhà văn đã trăn trở để xây dựng chi tiết kì ảo. Vũ Nương sau khi tự vẫn đã được Linh Phi cứu giúp, nàng trở về nhân gian với hình bóng trong ánh sáng lung linh thoắt ẩn thoắt hiện của mặt nước diệu kỳ. Bên cạnh nội dung truyện lôi cuốn, tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo và sáng tạo. Tác giả biết cách đẩy câu chuyện lên cao trào với hình ảnh cái bóng. Đây chính là chi tiết thắt nút cũng như mở nút cho cả cốt truyện. Ngoài ra, Nguyễn Dữ cũng biết dẫn dắt các tình huống xảy ra một cách hợp lý. Qua đó miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc và vô cùng phong phú.
Chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm giàu giá trị nhân văn của nhà văn Nguyễn Dữ. Truyện không chỉ ca ngợi những phẩm giá đẹp đẽ của người phụ nữ mà còn bày tỏ lòng cảm thông cho số phận bất hạnh của họ. Từ đó, tác giả muốn lên án xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên hạnh phúc của con người.
Văn mẫu phân tích Chuyện người con gái Nam Xương với nhiều dạng đề
Giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những đề tài nổi bật đáng quan tâm. Do đó, tác phẩm này có rất nhiều dạng đề bài phân tích mà học sinh cần tham khảo để nắm rõ cách làm.
Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương – nhân vật Vũ Nương
Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương tác phẩm tiêu biểu thể hiện số phận bi thương của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời. Hình ảnh nàng Vũ Nương phải gieo mình xuống dòng sông để chứng minh sự trong sạch của mình khi bị chồng nghi oan đã để lại trong lòng người đọc bao xúc cảm khó phai.
Vũ Nương là người con gái “nết na, thùy mị, lại thêm tư dung tốt đẹp” nhưng lại có số phận bất hạnh. Nàng sống trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, không có nói và phải phụ thuộc vào người khác. Do đó, khi Trương SInh hỏi cưới, nàng buộc phải đồng ý và theo chàng về nhà. Chi tiết này thể hiện Vũ Nương tuy là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng ngay cả đến chuyện cưới hỏi nàng cũng không được lựa chọn. Đám cưới của như một cuộc mua bán và nó chỉ đáng giá một trăm lạng vàng.
Từ ngày về làm dâu Vũ Nương luôn giữ phép tắc và tỏ lòng hiếu thuận với mẹ chồng. Nàng chăm sóc và phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo. Từ xưa tới nay, chuyện mẹ chồng nàng dâu luôn là vấn đề nhức nhối. Qua đó, ta có thể thấy những người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng như Vũ Nương là trường hợp hiếm có. Trong mối quan hệ vợ chồng, “nàng cũng giữ gìn khuôn phép” và không để xảy ra việc to tiếng bất hòa. Với đức tính dịu dàng của mình, Vũ Nương luôn giữ gìn hạnh phúc gia đình được êm ấm.
Tưởng rằng niềm vui sẽ kéo dài mãi nhưng Trương Sinh phải lên đường tham gia đánh giặc ngoài chiến trường. Dù không có chồng ở nhà, Vũ Nương vẫn luôn giữ trọn đạo hiếu với mẹ chồng, chăm sóc con cái chu toàn. Nàng một lòng chung thủy chờ chồng trở về. Không bao lâu từ ngày Trương Sinh đi, mẹ chồng qua đời vì bệnh nặng, nàng vẫn hết mực chăm lo chuyện ma chay cho bà và một mình dạy bảo con nhỏ. Ngày Trương Sinh trở về nhà, Vũ Nương vui mừng khôn xiết, tưởng chừng những năm tháng vất vả đã qua nhưng biến cố lại bất ngờ ập đến một cách không ngờ. Nghe tin mẹ mất Trương Sinh đau buồn vô cùng, chàng bế con trai đi thăm mộ mẹ nhưng thằng bé cứ khóc mãi không thôi. Vốn bản tính đa nghi, hay ghen lại quá nóng giận nên Trương Sinh một mực khẳng định vợ có tình nhân. Quá đau đớn vì không thể chứng minh cho sự trong sạch của mình nên Vũ Nương đã nhảy xuống sông tự vẫn.
Người con gái Vũ Nương ấy đã phải chết trong oan khuất và chịu nhiều tủi hờn như vậy. Trương Sinh trong một đêm không ngủ, “ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya” thì mới vỡ lẽ tất cả chỉ là hiểu lầm. Thì ra người cha mà bé Đản nhắc tới chỉ là một cái bóng. Lúc này Trương Sinh biết mình đã nghi oan cho vợ thì hối hận vô cùng. Vũ Nương sau khi nhảy xuống sông đã được Linh Phi giúp đỡ, có lẽ vì cảm động bởi phẩm giá và đức hạnh cao quý của nàng. Cuối cùng thì nàng cũng được giải oan.
Chuyện người con gái Nam Xương là lời tố cáo sự bất công của chế độ phong kiến xưa cũ, khi mà người đàn ông luôn cậy quyền lực và đàn áp người phụ nữ. Trong xã hội lúc bấy giờ, hình ảnh nhân vật Vũ Nương là đại diện cho số phận cay đắng của người phụ nữ. Dù tính tình hiền lành, dịu dàng nhưng họ vẫn luôn phải chịu nhiều nỗi oan ức trong cuộc sống.
Nêu cảm nhận về giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương
Trong xã hội phong kiến đương thời, thân phận người phụ nữ luôn bị dồn ép và trở nên vô cùng nhỏ bé. Họ luôn phải chịu nhiều bất công, không có quyền tự do lựa chọn và luôn phải sống phụ thuộc vào người đàn ông. Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã thể hiện được giá trị nhân đạo về thân phận người phụ nữ. Thông qua nhân vật Vũ Nương, tác giả muốn bày tỏ nỗi niềm xót xa và sự đồng cảm sâu sắc.
Nguyễn Dữ là một trong những nhà văn ở thế kỷ XVI. Trong những tác phẩm của ông luôn bày tỏ tấm lòng thương cảm sâu sắc với số phận thấp bé của những người cùng khổ trong xã hội, đặc biệt là thân phận người phụ nữ. Vì vậy, trong mỗi tác phẩm, Nguyễn Dữ luôn nêu rõ quan điểm về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo rất sâu sắc.
Đối với tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, nhà văn Nguyễn Dữ đã xây dựng hình ảnh một người phụ nữ hoàn hảo tên là Vũ Nương (Vũ Thị Thiết). Vũ Nương là người nết na, dịu dàng và luôn khao khát một cuộc sống gia đình bình yên, hạnh phúc. Nhưng đáng thương thay, những khó khăn vẫn luôn tìm đến nàng. Số phận thấp hèn và những ngang trái trong cuộc đời Vũ Nương cũng chính là số phận chung của đại đa số phụ nữ sống trong xã hội đầy bất công ấy. Nguyễn Dữ xây dựng nhân vật Vũ Nương hội tụ đầy đủ những nét đẹp truyền thống và phẩm hạnh cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Để rồi khi Vũ Nương bước vào cuộc sống hôn nhân những đức tính ấy lại được bồi đắp thêm. Nàng là người vợ chung thủy, là người con dâu hiếu thảo và là người mẹ hết mực yêu thương con. Khoảng thời gian khi Trương Sinh đi lính, Vũ Nương một mình tần tảo chăm lo con cái và phụng dưỡng mẹ già. Nàng hết lời thương xót khi mẹ chồng qua đời vì lâm bệnh nặng. Không chỉ vậy, Vũ Nương cũng lo ma chay chu đáo cho mẹ.
Vũ Nương hi sinh cả tuổi thanh xuân cho gia đình chỉ để mưu cầu một cuộc sống hạnh phúc nhưng những gì nàng nhận được lại là những cay đắng và tủi hờn. Nàng hạnh phúc vô cùng khi chồng bình an trở về từ nơi chiến trường. Nhưng chính lúc ấy bi kịch lại xảy đến, Trương Sinh vốn bản tính đa nghi lại nghe lời con nhỏ ngây thơ mà vội kết tội vợ ngoại tình. Chàng một mực không nghe vợ giải thích và đuổi đánh Vũ Nương ra khỏi nhà. Biết chẳng thể chứng minh mình vô tội, Vũ Nương đành phải tìm đến cái chết. Một người phụ nữ yếu đuối là nạn nhân của chế độ nam quyền thời phong kiến khiến nàng không thể lên tiếng bảo vệ bản thân. Tấm lòng thủy chung son sắt của Vũ Nương nay lại bị chính người chồng làm tổn thương. Không gì cay đắng hơn khi ta bị người mình đã hết lòng thương yêu nghi ngờ và vu oan. Vũ Nương chẳng thể làm được gì ngoài ôm trọn nỗi đau thương ấy đến bến Hoàng Giang gieo mình tự vẫn. Vào lúc ấy có lẽ chỉ có cái chết mới chứng minh được sự trong sạch của nàng.
Cái chết của Vũ Nương một lần nữa phản ánh hiện thực về thân phận bi thương của người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ luôn khát khao có được hạnh phúc nhưng lạc bị xã hội chà đạp dẫn và phải tìm đến cái chết. Qua đó, tác giả Nguyễn Dữ đã tố cáo sự bất công của xã hội phong kiến đương thời đã luôn dồn ép người phụ nữ phải chịu nhiều oan ức.
Tuy nhiên, vì yêu mến nhân vật Vũ Nương nên tác giả Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm tình tiết kì ảo khiến câu chuyện thêm hấp dẫn và khiến người đọc cảm thấy được an lòng. Chi tiết ấy thể hiện sự đồng cảm và xót thương của tác giả với số phận nhỏ bé của người phụ nữ. Sau khi chết, Vũ Nương đã được Linh Phi cứu giúp vì đức hạnh và phẩm giá cao quý của nàng. Chính cái chết lúc ấy đã giúp nàng Vũ Nương được hồi sinh và thoát khỏi sự oan ức, khổ đau của trần gian. Dù vậy, tâm hồn nàng vẫn chưa được nguôi ngoai nến sự thật không được làm sáng tỏ. Nhân việc Phan Lang (người cùng làng) lạc đến thủy cung, Vũ Nương nhờ Phan Lang chuyển lời đến Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình. Trương Sinh lúc đầu vẫn nghi ngờ nhưng khi nhìn thấy chiếc trâm của vợ thì đồng ý làm theo ước muốn của nàng. Trương Sinh lập đàn giải oan bên bến Hoàng Giang thì thấy Vũ Nương lúc ẩn lúc hiện giữa dòng. Hình ảnh lúc này của nàng Vũ Nương thật đẹp nhưng nàng không thể trở về cuộc sống trần gian được nữa.
Giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của tác phẩm đã đề cao phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ là tấm lòng thủy chung và đức hạnh dịu dàng. Đồng thời, Nguyễn Dữ cũng lên án những vấn đề nhức nhối thời bấy giờ bao gồm chiến tranh phi nghĩa và những lễ giáo phong kiến bất công. Đồng thời, khi xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương tư dung tốt đẹp, nhà văn cũng muốn ca ngợi những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam.
Học sinh có thể tham khảo thêm phần Soạn bài của tác phẩm để biết cách làm bài văn phân tích giá trị hiện thực của Chuyện người con gái Nam Xương.
Nhận xét về Chuyện người con gái Nam Xương nhà phê bình Đồng Thị Sáo
Khi nhận xét về Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) của Nguyễn Dữ. Nhà phê bình Đồng Thị Sáo cho rằng: Hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói và ngắn ngủi như kiếp sống của đóa phù dung sớm nở, tối tàn. Nhận xét này là đúng khi nhắc đến số phận của Vũ Nương.
Thông qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, ta có thể thấy rằng Vũ Nương là người con gái nết na, tư dung tốt đẹp nhưng phải chịu nhiều bi kịch. Khi được gả về nhà Trương Sinh, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Khi chồng đi lính, nàng một mình hy sinh chăm lo cho mẹ chồng và nuôi con khôn lớn. Nàng cảm nhận được sự hạnh phúc khi làm mẹ, được chăm sóc và nuôi dạy con trai khôn lớn. Và rồi, cuộc sống của nàng thay đổi từ khi Trương Sinh trở về từ nơi chiến trận. Tưởng rằng cuộc sống gia đình từ nay sẽ được êm ấm nhưng biến cố lại ập đến khiến nàng phải nhảy sông tự vẫn. Kết thúc tác phẩm, dù đã được minh oan nhưng đó chỉ là ảo ảnh, là niềm an ủi cuối cùng cho số phận bất hạnh của nàng. Hạnh phúc của nàng mãi mãi sẽ không tìm được ở nơi trần gian mà chỉ có ra đi mới giúp nàng được giải thoát.
Tóm lại, ở hình tượng nhân vật Vũ Nương, người đọc có thấy được số phận bất hạnh của nàng. Thay vì được hưởng cuộc sống viên mãn, nàng lại liên tiếp phải chịu đựng những khó khăn, trắc trở.
Em hãy viết một đoạn văn cảm nhận tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
Là nhà văn nhân đạo, Nguyễn Dữ không muốn những người đức hạnh, nết na như Vũ Nương chết. Song hiện thực là hiện thực. Vũ Nương đã chết! Để minh oan và đền đáp sự ngay thẳng, thật thà, lòng hiếu thảo, sự thủy chung của nàng, tác giả đã tưởng tượng ra sự hồi sinh của nàng – nàng đã được các nàng tiên vớt lên, đưa về đảo tiên sống – và ông tưởng tượng ra cảnh hội ngộ với Trương Sinh. Mô típ các vị tiên cứu người chết oan khá phổ biến trong các truyện truyền kì phương Đông. Tái hợp là nguyện vọng của nhân dân. Cái tài của Nguyễn Dữ là ông đã dung hòa được hiện thực với ước mơ, cái tồn tại và cái ảo ảnh. Vũ Nương trở về dương thế nhưng chỉ hiện ra “ở giữa dòng mà nói vọng vào: Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Ảo ảnh chỉ chập chờn và mau chóng tan biến. Chia li là vĩnh viễn bởi người đã chết rồi không thể sống lại: “Trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.” Đấy cũng là nét đặc sắc trong truyện truyền kì của Nguyễn Dữ mà các tác giả sau ông không thể vượt qua. Ảo ảnh đoàn tụ mau chóng biến mất chỉ còn lại một hiện thực đắng cay hông ai muốn nhưng không chống lại được: Trương Sinh sống trong cảnh “phòng không vắng vẻ … ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya”. Đứa trẻ mồ côi, người chồng cô đơn… Có thể nói, với Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã vượt khỏi những công thức thông thường về hình tượng người vụ nữ trong thể truyền kì. Vũ Nương không phải hình tượng liệt nữ, nàng chỉ là người phụ nữ bình thường như bao người vợ, người mẹ khác trong đời thực. Phản ánh số phận bi thương của nàng, Nguyễn Dữ đã đề cập tới cái bi kịch muôn thuở của con người. Có lẽ chính vì vậy mà Chuyện người con gái Nam Xương vẫn còn sức hấp dẫn với người đọc ngày nay.
Nguyên nhân gây nên cái chết oan khiên trong Chuyện người con gái Nam Xương của tác giả Nguyễn Dữ
Với bất kì ai từng đọc Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, câu chuyện này cũng gây một nỗi xúc động khôn tả. Để rồi, khi những rung cảm yêu thương, trân trọng, xót xa … lắng lại, chúng ta lại thấy giận, thấy căm phẫn những “điều bay buộc” khiến người phụ nữ tiết hạnh như Vũ Nương phả tìm đến cái chết để tự giải oan.
Câu chuyện của Nguyễn Dữ xoay quanh cuộc đời, số phận của Vũ Nương. Vốn là người con gái nết na, thùy mị lại có tư dung xinh đẹp, Vũ Nương đã khiến Trương Sinh – con một nhà hào phú – yêu mến và xin cưới về làm vợ. Được một thời gian, Trương Sinh phải đi lính, ở nhà, một mình Vũ nương đảm đương công việc hết lòng chăm sóc mẹ già. Cũng trong thời gian này, nàng sinh con nhỏ và đặt tên là Đản. Qua năm sau, Trương Sinh trở về, đau lòng bởi mẹ không còn nhưng nỗi đau cũng phần nào nguôi ngoai khi được đón đứa con đang tập nói. Có điều đứa trẻ chẳng nhận chàng là cha, bởi cha nó là “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. Sẵn tính hay ghen, nghe con nói vậy, Trương đinh ninh là vợ hư.” Chàng về nhà mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương thanh minh không được, hàng xóm biện bạch cho nàng cũng chẳng xong. Cùng đường, nàng đã tìm đến cái chết trên dòng Hoàng Giang.
Trực diện, ai cũng nhận thấy nỗi oan khiên của Vũ Nương bắt nguồn từ tính ghen tuông mù quáng của Trương Sinh. Ngay từ đầu câu chuyện, Nguyễn Dữ đã không giấu độc giả nét tính cách rất xấu ở nhân vật này: “Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Lại thêm nữa, “Trương tuy con nhà hào phú nhưng không có học” thế nên trước lời nói ngây ngô của con trẻ, chàng không suy xét trước sau, không thấy kì lạ thay cái “người đàn ông đêm nào cũng đến” kia, cũng chẳng mảy may động lòng trước công an của vợ và còn bỏ ngoài tai lời nói đỡ, biện bạch của bà con xóm giềng. Vậy là lòng ghen ngùn ngụt bùng lên cùng với sự hồ đồ, thói gia trưởng, độc đoán đã khiến Trương Sinh dễ dàng dứt tình, rũ bỏ nghĩa phu thê với Vũ nương. Để rồi một người vợ đã hết lòng thủy chung với chồng, một người con hiếu thảo với mẹ chồng và một người mẹ rất mực yêu con đã phải chọn cái chết làm lối đi. Đáng thương hơn, ngay cả khi Vũ Nương lấy cái chết để minh oan cho chính mình thì chồng nàng – Trương Sinh dẫu “động lòng thương” nhưng cũng vẫn chưa thể nhận ra sự việc. Trương sinh thật quá đáng trách! Một người như anh lẽ ra phải luôn thấy mình may mắn vì có được Vũ Nương, lẽ ra Trương Sinh phải ra sức giữ lấy hạnh phúc của mình. Nhưng đúng là “gieo tính cách, gặt số phận”, kẻ đa nghi, ghen tuông mù quáng, gia trưởng, độc đoán như Trương Sinh chỉ đáng sống trong nỗi cô đơn buồn tủi mà thôi. Nhà thơ Lê Thánh Tông đã trách, đã phê phán thật đích đáng về con người này:
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Và đâu chỉ trách Trương “phũ phàng”, rộng hơn, ta còn phải trách cả cái xã hội nam quyền hà khắc, bóp nghẹt quyền sống của những người phụ nữ.
Đọc truyện, ngẫm cho kí, chúng ta sẽ thấy làm nên nỗi oan tày trời của Vũ Nương không chỉ là xã hội nam quyền với cái nhìn hẹp hòi về người phụ nữ mà còn là chiến tranh phong kiến. Vì đâu Trương Sinh phải đăng lính để đến nỗi phải li gia? Vì đâu mẹ phải xa con, vợ phải xa chồng, con sinh ra không biết mặt bố? Vì đâu hạnh phúc trong tầm tay bỗng chốc tan thành mây khói? Vì đâu ngày đoàn tụ lại cũng là ngày cia li? Vì chiến tranh. Nguyễn Dữ sống trong một thời đại đầy biến động, chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên. Một số người ra trận với giấc mộng công danh: “Chí trai dặm nghìn da ngựa – Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao (Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn, dịch giả Đoàn Thị Điểm), nhưng cũng có không ít người phải ra trận trong khiên cưỡng, ép buộc của triều đình, thế nên: “Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa” (Ca dao). Trương Sinh trong sáng tác của Nguyễn Dữ thuộc nhóm thứ hai, vì “không có học” nên bị triều đình bắt đi đánh giặc Chiêm. May mắn hơn nhiều kẻ khác, Trương đã bảo toàn tính mạng trở về, nhưng có lẽ, sự trở về này còn có giá đắt hơn cái chết. Khoảng thời gian xa cách chính là ngọn lửa thổi bùng lên sự nghi kị, thói ghen tuông sẵn có trong lòng chàng. Cuối cùng, gia đình tan vỡ và đau đớn nhất là người vợ tiết hạnh của chàng mãi mãi không trở về với cuộc sống dương gian được nữa. So với nguyên nhân thứ nhất, nguyên nhân thứ hai này chỉ là thứ yếu. Thế nhưng ít nhiều, nó cũng rất đáng bị phê phán, lên án.
Lí giải cho cuộc đời, số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Nguyễn Dữ đã rất sắc sảo khi viện dẫn hai nguyên nhân: Chế độ nam quyền hà khắc và chiến tranh phong iến phi nghĩa. Cũng từ đây, nhà văn muốn dóng lên tiếng chuông dóng dả, cảnh tỉnh, phê phán mặt trái của xã hội đương thời đồng thời nói lên tiếng nói đòi quyền sống cho con người, nhất là người phụ nữ.
Xem thêm:
- Tuyển tập phân tích văn học lớp 9 Chân trời sáng tạo mới nhất, đầy đủ
- Tổng hợp bài viết phân tích các tác phẩm văn học lớp 9 Kết nối tri thức
- Chuyện người con gái Nam Xương liên hệ với tác phẩm nào? Hướng dẫn liên hệ mở rộng
- Bài giảng Chuyện người con gái Nam Xương chi tiết lớp 9
Kết bài
Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương làm rõ vẻ đẹp nhân cách và số phận bi đát của những người phụ nữ phải chịu trong xã hội xưa. Qua đó, Nguyễn Dữ muốn lên án những bất công trong thời kỳ phong kiến. Học sinh có thể tham khảo bài văn mẫu và đưa ra nhiều góc nhìn khác trong tác phẩm này.