7+ Mẫu Phân tích nhân vật Lão Hạc và ý nghĩa cái chết của Lão Hạc
Phân tích nhân vật lão Hạc với dàn ý chi tiết giúp học sinh dễ dàng tham khảo. Ngoài ra, học sinh cần đọc kỹ về tác phẩm để hiểu rõ về nhân vật trong tác phẩm này.
Thepoetmagazine đã tổng hợp các bài mẫu liên quan đến dạng đề này để học sinh theo dõi. Bạn có thể xem, chọn lọc ý tưởng, học cách triển khai cho bài viết của mình.
Dàn ý phân tích nhân vật lão Hạc
Mở bài: Giới thiệu về nhà văn Nam Cao và truyện ngắn Lão Hạc trong Ngữ văn lớp 12 tập 1. Giới thiệu về khái quát nhân vật lão Hạc, là nhân vật chính trong tác phẩm.
Thân bài: Chia làm ba phần bao gồm hoàn cảnh sống của lão Hạc, phẩm chất tốt đẹp của nhân vật và nghệ thuật được sử dụng trong văn bản.
- Hoàn cảnh sống của lão Hạc: Khó khăn, khổ cực. Vợ mất sớm, người con đi đồn điền xa.
- Phẩm chất tốt đẹp của nhân vật: Hiền lành, giàu lòng nhân hậu. Là người cha hết mực yêu thương con, sẵn sàng hy sinh vì con. Ngoài ra, lão Hạc còn là người trong sạch và có lòng tự trọng.
- Nghệ thuật: Sử dụng theo ngôi kể thứ nhất, theo lời kể của nhân vật ông giáo. Nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật tạo cảm giác dễ đồng cảm. Ngôn ngữ gần gũi.
Kết bài: Khái quát về nhân vật lão Hạc và nêu cảm nghĩ về nhân vật này.
Phân tích về nhân vật lão Hạc ngắn gọn
Tổng hợp những bài văn hay dành cho học sinh lớp 12. Bạn có thể tham khảo để hiểu hơn cách phân tích về nhân vật trong tác phẩm này.
Phân tích lão Hạc với bài làm của học sinh giỏi mẫu 1
Lão Hạc là một trong những truyện ngắn tiêu biểu trong sáng tác của nhà văn Nam Cao. Tác phẩm viết về số phận người nông dân trước cách mạng. Nổi bật hơn cả là hình ảnh lão Hạc đã trở thành một trong những biểu tượng cho người nông dân Việt Nam.
Đầu tiên, lão Hạc sống trong hoàn cảnh chung giống như biết bao người nông dân giai đoạn trước cách mạng – lão phải đối mặt với cuộc sống nghèo đói, khổ cực. Mặt khác, lão cũng có hoàn cảnh riêng của mình. Vợ lão mất sớm. Đứa con trai duy nhất bỏ đi đồn điền cao su vì muốn kiếm tiền cưới vợ. Lão chỉ có con chó tên cậu Vàng là kỷ vật của con cùng bầu bạn. Không chỉ vậy, lão còn bị đẩy vào cảnh đói nghèo do gặp bão lớn, lão không thể làm việc kiếm ăn được nữa. Lão lâm bệnh nặng lại còn gặp bão lớn khiến lão không thể đi làm thuê được nữa. Từ đó, lão phải đối mặt với cái đói, sự già yếu, và nỗi cô đơn. Để rồi cuối cùng, lão đành phải bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”.
Dù sống trong hoàn cảnh túng thiếu và khó khăn là thế, nhưng lão Hạc vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp. Lão là một người cha yêu thương con trai hết mực. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, và nỗi buồn của tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Khi con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Vì đó con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Tâm sự với chú chó, lão tưởng như được nói chuyện với con mình. Việc đó khiến lão vơi đi nỗi nhớ con. Lão thương con đến mức thà chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ nhất quyết không chịu bán đi mảnh vườn là của hồi môn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt hẳn lão sẽ đủ trang trải và để vượt qua thời gian khốn khó này. Nhưng lão lại lo khi con trai trở về mà không có đất sinh sống làm ăn.
Dẫu cuộc sống đói nghèo và khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Lão quyết không nhận sự giúp đỡ của ông giáo, bởi lão biết hoàn cảnh của ông giáo cũng có khá hơn mình đâu. Có những ngày “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến một ngày lão nhận ra mình chẳng còn gì để ăn, để sống. Bị dồn vào hoàn cảnh cùng cực này, con người ta rất dễ sa ngã và làm những việc trái lương tâm. Tuy nhiên, lão Hạc thì không như vậy, lão quyết định tìm đến cái chết để giữ cho tâm hồn mình được trong sạch. Lão đến xin Binh Tư một ít bả chó khiến cho Binh Tư ông giáo nghi ngờ lão sẽ làm chuyện không đứng đắn. Nhưng không, lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn đáng trân trọng của người nông dân và cả lòng tự trọng cao đẹp của bản thân. Lão Hạc chọn cho mình một cái chết vô cùng đau đớn như một sự giải thoát khỏi tình cảnh khó nghèo hiện tại. Và dường như một lời xin lỗi chân thành đến con chó Vàng tội nghiệp.
Dưới ngòi bút của nhà văn Nam Cao, hình tượng nhân vật người nông dân lão Hạc được khắc họa rõ nét. Qua đó giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn về số phận bất hạnh của người nông dân Việt Nam thời kỳ phong kiến. Không chỉ vậy, qua hình tượng lão Hạc còn làm nổi bật lên phẩm chất tốt đẹp của họ dù trong hoàn cảnh bế tắc.
Phân tích đặc điểm nhân vật lão Hạc mẫu 2
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những tập truyện chân thực viết về hai mảng đề tài chính: người nông dân bị vùi dập và người trí thức nghèo, họ sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Trong đó, tác phẩm Lão Hạc được coi là truyện ngắn tiêu biểu của ông khi viết về người nông dân.
Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ có hoàn cảnh khó khăn khi vợ mất sớm, một mình nuôi con khôn lớn. Tài sản trong nhà không có gì ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ và một con chó tên Vàng. Vì lão không có đủ tiền cho con trai cưới vợ nên anh ta bỏ đi đồn điền cao su. Từ đó, lão chỉ sống một mình cùng cậu Vàng. Sau một trận ốm nặng, lại gặp cảnh bão lớn, trong nhà không còn gì để ăn. Do đó, lão phải đưa ra quyết định bán cậu Vàng là kỉ vật mà con trai để lại. Lão day dứt khôn nguôi vì nó không chỉ là một con vật mà còn giống như một người bạn tri kỷ của lão.
Cuộc sống khốn khó là vậy, nhưng lão vẫn giữ được những phẩm chất cao đẹp đáng ngưỡng mộ. Nổi bật lên cả là hình tượng một con người hiền lành, nhân hậu và giàu tình yêu thương. Lão vô cùng thương yêu con trai mình. Vì thương con, lão chấp nhận sống cảnh cô độc một mình lúc tuổi già ốm yếu để con ra đi làm ăn. Khi chỉ còn một mình, lão lại dồn hết tình cảm vào con chó Vàng vì khi nhìn thấy nó, lão tưởng như được thấy chính con trai mình. Không chỉ vậy, tình yêu thương con bao la của lão còn khiến lão thà chịu đựng cái đói khổ chứ kiên quyết không chịu bán đi mảnh vườn. Lão quyết để mảnh vườn phòng khi con trai trở về mà không có gì để sinh sống. Thậm chí lão Hạc sẵn sàng lựa chọn cái chết để không động đến số tiền dành dụm cho con. Lão bán đi căn nhà, và đem hết số tiền, tài sản sang nhà ông giáo gửi và nhờ trông coi mảnh vườn để chờ ngày con trai lão trở về. Không chỉ đối với con trai, lão còn dành tấm lòng yêu thương sâu nặng dành cho con Vàng. Lão đối xử với cậu Vàng như với một thành viên trong gia đình, cho ăn bằng một cái bát lớn còn nguyên vẹn, lão chia sẻ bữa cơm ít ỏi của mình cho nó cùng ăn. Mỗi khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa và tâm sự. Khi uống rượu có đồ nhắm ngon, lão lại gắp cho nó một miếng hệt như cách người ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà. Lão coi cậu Vàng như một người bạn tâm giao hơn là một con chó. Để rồi đến khi phải bán nó, lão đã vô cùng đau đớn và day dứt trong lòng. Quyết định bán cậu Vàng vô cùng khó khăn, lão trăn trở giống như phải quyết định một việc vô cùng trọng đại trong đời. Ngay cả khi kể lại việc bán cậu Vàng cho ông giáo nghe, lão Hạc cũng vô cùng đau đớn và luôn tự trách bản thân mình nỡ đi lừa một con chó.
Lão Hạc cũng là một con người có tấm lòng trong sạch và giàu lòng tự trọng. Dù sống trong hoàn cảnh túng quẫn, chỉ ăn củ chuối sống qua ngày nhưng lão lại từ chối “một cách gần như hách dịch” với ý muốn giúp đỡ của ông giáo. Bởi lão biết hoàn cảnh của ông giáo cũng khó khăn không kém. Lão không muốn làm phiền đến hàng xóm xung quanh và chỉ đến nhờ ông giáo hai việc. Một là, nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn để khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó. Hai là, nhờ ông ông giáo giữ hộ vài đồng để khi mình chết thì có người lo liệu ma chay cho mình. Sau đó, lão đến xin Binh Tư một ít bả chó và nói dối rằng muốn đánh bả con chó hay đến phá vườn nhà lão. Việc này khiến ông giáo và Binh Tư nghi ngờ lão đã bị tha hóa bởi số phận bi thảm. Nhưng thực ra lão dùng số bả chó ấy để tự tử. Nhà văn đã khắc họa hình ảnh cái chết của lão Hạc đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết”. Đó là một cái chết dữ dội, đầy đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.
Nhà văn Nam Cao sử dụng nghệ thuật miêu tả nhân vật gần gũi và vô cùng thành công. Kết hợp với đó, tác giả sử dụng ngôn ngữ kể chuyện giàu tính tạo hình và sức gợi cảm đã lột tả được nội tâm nhân vật sâu sắc. Từ đó thành công khắc họa nhân vật lão Hạc và tạo sự đồng cảm từ độc giả.
Qua truyện ngắn Lão Hạc, Nam Cao đã đã khắc họa chân thực cuộc đời của người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ. Đồng thời, nhà văn muốn ca ngợi phẩm chất cao quý và tấm lòng lương của họ dù trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực.
Phân tích nhân vật lão Hạc học sinh giỏi về phẩm chất của ông mẫu 3
Lão Hạc là truyện ngắn phản ánh chân thực đời sống cơ cực và nhiều cay đắng của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Tác giả Nam Cao đã xây dựng hình ảnh nhân vật lão Hạc với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp dù gặp số phận bi thảm. Cái chết của lão cuối truyện cũng luôn ám ảnh người đọc, bởi giá trị mà nó muốn nhắn gửi sâu xa như thế nào.
Không phải bỗng nhiên lão Hạc lại tìm đến cái chết, chỉ khi túng quẫn, và không còn con đường nào khác để đi thì cái chết là sự giải thoát nhẹ nhàng nhất. Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng được vài đồng thì luôn cảm thấy day dứt. Lão luôn tự trách bản thân vì thật tệ bạc với nó, lão như vậy mà lại đi lừa một con chó. Nhưng rồi sau đó, lão tính đi tính lại số tiền mình đang có, cuối cùng cũng tích được 30 đồng thì sang gửi ông giáo. Lão dặn ông giáo giữ hộ và trông nom mảnh vườn đến bao giờ con trai ông về thì giao lại cho nó.
Ngay từ đầu câu chuyện, Nam Cao đã giới thiệu lão Hạc là một lão nông có hoàn cảnh vô cùng khó khăn, cùng cực và cô độc. Vợ mất đã lâu, con trai thì đi cao su biền biệt chưa thấy về nên lão chỉ sống với cậu Vàng. Lão thương con trai vô bờ và luôn mong muốn nó quay trở về sống với lão. Tấm lòng phụ tử đó của lão thực sự đáng trân trọng và cảm phục.
Tuy nhiên, cuộc sống của lão ngày càng khó khăn và thiếu thốn, lão đổ bệnh triền miên. Nhưng vì là một người có lòng tự trọng cao, lại không muốn cậy nhờ ông giáo và làm phiền đến hàng xóm nên lão đã xin Binh Tư ít bả chó. Lão nói dối mình xin bả chó để bẫy con chó hay đến vườn lão nhưng thực ra lão dùng số bả ấy để tự tử. Hành động tìm đến cái chết của lão Hạc như một cách để giải thoát cho số phận túng nghèo của bản thân, cũng là để không làm gánh nặng cho bất kỳ ai.
Cái chết của lão để lại nỗi ám ảnh lớn. Cái chết ấy giàu giá trị nhân văn và cũng là sự phản ánh chân thực hiện trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Vì quá bế tắc nên cái chết là sự lựa chọn giải thoát cuối cùng cho số phận người nông dân thấp hèn. Xã hội Việt Nam khi ấy là một xã hội nghèo đói tràn lan, thực dân phong kiến đã dồn ép những người nông dân đến bước đường cùng khiến họ phải tự tìm cách giải thoát cho mình.
Thật vậy, truyện ngắn Lão Hạc kết thúc với cái kết đầy bi kịch và dữ dội. Qua đó, nhà văn Nam Cao muốn lên án những bất công của xã hội phong kiến và đề cao phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam.
Cảm nhận về nhân vật lão Hạc mẫu 4
“Làm quái gì một con chó mà lão có vẻ băn khoăn quá thế!”. Đấy là lời độc thoại của ông Giáo khi nghe đi nghe lại mãi cái dự định bán “cậu Vàng” của lão Hạc. Đọc truyện ngắn này, cái khiến người đọc bàng hoàng thông cảm chắc hẳn là cái chết bi thảm của lão. Tuy thế, sự kiện có sức ám ảnh, nhai cứa tâm can người đọc lại là nỗi khổ tâm của lão Hạc khi phải bán cậu “Vàng”.
Lão Hạc phải bán “cậu Vàng” vì sự nghèo khó, túng quẫn cứ ngày càng đe dọa, lăm le dồn lão đến đường cùng: “Sau trận ốm, lão yếu người đi ghê lắm. Những công việc nặng không làm được nữa. Làng mất vé sợi, nghề dệt vải đành phải bỏ. Đàn bà rỗi rãi nhiều. còn tí việc nhẹ nào, họ tranh nhau làm mất cả. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão. Hoa màu bị phá sạch sành sanh. Từ ngày bão đến nay, vườn lão chưa có một tí gì bám. Gạo thì cứ kém mãi đi. Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo, mà ra sự vẫn còn đói deo đói dắt”.
Lão Hạc là một nông dân chính cống, ắt phải tính toán chi li theo kiểu của lão. Lão sợ con chó mà phải ăn ít thì sẽ bị gầy, “bán hụt tiền, có phải hoài không”. Nhưng không chỉ có thế, “cậu Vàng” (lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự) còn là bạn, là kỉ vật lưu hiện hình bóng của con trai lão: “Con chó của cháu nó mua đấy chứ! … Nó mua về nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt … ” Cho nên, ta mới hiểu tại sao lão Hạc lại khổ tâm đến thế khi bán “cậu Vàng”. Nam Cao đã chứng tỏ tài năng xuất sắc bậc thầy khi khắc họa trạng thái tâm lí của lão Hạc sau khi bán chó:
– “Trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước …”
– “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”.
Những giọt nước mắt mới thành thiện làm sao! Vẻ đẹp thánh thiện ẩn hiện trong cái bề ngoài khắc khổ, già nua của một lão nông! Đằng sau những giọt nước mắt ấy là một tấm lòng nhân hậu, là nỗi giằng xé, đau đớn của một người cha suốt đời còm cóp, chắt chhiu cho đứa con biệt tích. Lão sống với “cậu Vàng:, sống với sự chờ đợi, mong mỏi đứa con trở về. Bán “cậu Vàng”, lão Hạc bước sang một chặng sống khác. Hóa ra lão đang chuẩn bị để chết. Lão chết vì tự trọng, vì để giữ bằng được mảnh vườn cho con.
Người tự trọng phải là người tự ý thức cao về mình. Tâm lão Hạc sáng quá nên lão nhận rõ hơn ai hết tình cảnh của mình, nguy cơ của mình (cái nguy cơ đánh mất tự trọng; giữ mảnh vườn cho con cũng là tự trọng của lão). Cho nên tất yếu lão tự tìm đến cái chết như hành động tự giải thoát. Nếu cái nghèo khó túng quẫn không bao vây, dồn ép lão, nếu tâm lão không quá sáng như thế thì lão đã không phải chết.
Đừng vội xem cái chết của lão Hạc là manh động, là tiêu cực. Lão đã rất bền bỉ, gắng để sống: “Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế được món ăn gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc” mà không được. Bi kịch là thế đấy. Nếu không muốn sống thì lão đã không phải cố duy trì sự sống bằng mọi cách như thế. Lão có thể tự sát ngay sau khi ủy thác cho ông Giáo mảnh vườn và tiền làm tang. Dường như, trong mòn mỏi, lão vẫn cố chờ điều gì … Chờ con trai trở về. Biết đâu trong những ngày gắng sống ấy nó trở về! Không thể chờ thêm được nữa, cuối cùng (đến tận cuối cùng) thì lão Hạc phải chấp nhận mọi sự thật của chính mình, để lão không vi phạm lẽ sống của lão: Muốn sống mà vẫn tự chết. Tại sao lão tự trọng đến “hách dịch” như thế cơ chứ?
Lão có thể cậy nhờ để sống qua ngày cơ mà, dân gian chẳng đã từng nói “hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau là gì!” Đến ngay tiền làm ma cho mình lão còn không động đến nữa là cậy nhờ! Thế mới là lão Hạc. Cậu Vàng chết để có thêm 5 đồng vào 24 đồng thành 30 đồng lão gửi ông Giáo làm tang nếu lão có mệnh hệ nào. “Đâu vào đấy” là cay đắng thế ư? Khi con chó phải chết, lão Hạc mong hóa kiếp cho nó; đến khi lão chết, con chó chỉ còn là 5 đồng để tiễn đưa hương hồn lão. Cơ cực đến thế là cùng! Chẳng gì khác, xã hội thực dân nửa phong kiến đen tối đã đẩy cuộc sống người nông dân đến đường cùng; cái nghèo khó cùng cực đã đẩy lão Hạc đến một lựa chọn đau đớn.
Ngòi bút của Nam Cao thật tinh tế, điêu luyện khi để ông Giáo, nhân vật kể chuyện nói hộ lòng mình. Những diễn biến tâm trạng của lão Hạc cứ đan xen với độc thoại nội tâm của ông Giáo làm cho mạch kể chuyện uyển chuyển, linh hoạt. Trong cái làng ấy, chẳng ai gần gũi với lão Hạc hơn ông Giáo (“tôi”). “Tôi” chứng kiến, “tôi” cảm thông, “tôi” than thở và “tôi” cứ mỗi lúc bừng ngọ ra cái ánh sáng từ lương tri lão Hạc, và cuối cùng “tôi” vỡ lẽ và thốt lên: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”.
Trước đó, khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin hắn bả chó để bắt “Con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão”…, ông Giáo đã cảm thấy “cuộc đời quả thật đáng buồn”. Cái ngỡ ngàng về phẩm hạnh lão Hạc khi ấy là khoảng hẫng hụt để dẫn đến cái ngỡ ngàng cuối kết: chứng kiến cảnh lão Hạc chết. Khi nỗi nghi ngờ được giải tỏa thì đã muộn mất rồi. Hóa ra, vẻ đẹp nhân phẩm của Lão Hạc vượt quá sự suy xét của ông Giáo, vượt cả những đoán định của người đọc. Ông Giáo đã không còn phải buồn vì nhân cách của lão Hạc. Nhưng một nỗi buồn cho thế sự lại dấy lên trong ngẫm ngợi của con người tri thức này. CUộc đời vẫn thật buồn nhưng không phải vì nó mất đi tính người mà vì những con người cao quý như Lão Hạc chẳng được sống, chẳng sống được trong nó. Nếu tất cả những người như lão Hạc chết hết đi thì cuộc đời thật đáng sợ.
Lão Hạc có thể không chết đau đớn thê thảm như thế. Nếu buộc phải chết thì thiếu gì cách chết cho nhẹ nhàng hơn. Có lẽ ngay cả chết như thế nào cũng đã được lão Hạc tính toán và lựa chọn cả rồi. Ta chợt ớn lạnh khi nhớ lại lão Hạc đã từng khổ đau khi phải lừa “cậu Vàng”. Lão tự trừng phạt mình chăng? SAo chẳng phải bả chuột mà lại là bả chó. Con người này trung thực, tự trọng đến dự dội đến tận cuối cùng.
Truyện ngắn Lão Hạc giản dị, chân thật mà cảm động. Nam Cao đã thâm nhập vào những cuộc đời, những thân phận đau thương để từ đấy cất lên tiếng nói yêu thương, trân trọng. Với một bút lực dồi dào, chỉ là những chuyện đời thường, rất nhỏ, nhà văn đã khái quát thành những vấn đề ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Tấm lòng nhân đạo cao cả của ông đã khơi dậy tình yêu thương con người của mỗi chúng ta.
Phân tích nhân vật lão Hạc với nhiều dạng đề khác nhau
Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao là nhân vật đại diện cho tầng lớp nông dân khổ cực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám. Do đó, có rất nhiều dạng đề phân tích về nhân vật này mà học sinh cần tham khảo để biết cách làm bài.
Phân tích cái chết của lão Hạc
Văn học hiện thực phê phán là một dòng văn học kể về những con người khốn khổ và luôn bị đẩy vào bước đường cùng. Nước mắt và cái chết có thể coi là những mô típ quen thuộc của văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945. Một trong những cái chết ám ảnh nhất chính là cái chết của Lão Hạc – một nông dân nghèo khổ và phải chịu nhiều bất hạnh trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao.
Nam Cao đã miêu tả cái chết của lão Hạc là một cái chết đầy đau đớn: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy”.
Những dòng văn này khiến người đọc giật mình về một cái chết thật dữ dội và kinh hoàng. Đây không phải là một cái chết bình thường, đó là một cái chết đầy đau đớn và khiến người ta liên tưởng đến cái chết của một con chó. Lão Hạc trong cái chết của mình vô cùng đau đớn và vật vã. Cả đời lão đã khổ sở, nhưng đến khi nhắm mắt xuôi tay, lão vẫn không hề được bình yên và thanh thản.
Cái chết của lão khiến nhiều người bất ngờ. Lão giấu tất cả mọi người, kể cả với người bạn thân thiết là ông giáo. Lão lựa chọn ra đi trong im lặng để không làm phiền đến hàng xóm xung quanh. Sự bất ngờ của cái chết khiến cho câu chuyện thêm phần căng thẳng và xúc động. Những mâu thuẫn bế tắc được tác giả đẩy lên đến đỉnh điểm và kết thúc một cách bi đát hơn cả. Lão Hạc không thể tìm con đường nào khác để tiếp tục sống mà không động vào tiền của con, hoặc bán mảnh vườn. Do vậy, lão đành chọn cho mình cái chết, lão chấp nhận đau khổ để con trai được sống trong cảnh sung túc hơn. Với một người như lão Hạc thì cái chết là xảy ra như một điều tất yếu trong hoàn cảnh bấy giờ.
Độc giả bao thế hệ đều xúc động nghẹn ngào khi phát hiện ra những ý nghĩa sâu sắc ẩn sau cái chết đau đớn của lão. Lão không chọn cách chết quằn quại như cách chết của một con chó ăn phải bả. Lão đã chọn một cách giải thoát đau đớn như một cách tạ lỗi đến cậu Vàng, về việc mình đã trót lừa một con chó. Lão Hạc yêu thương con chó như chính con trai mình nhưng lại nỡ lừa bán nó đổ cho thằng Mục giết thịt. Do đó, lão ân hận và day dứt khôn nguôi. Lão Hạc chết trong đau đớn, vật vã ghê gớm về thể xác nhưng có thể tâm hồn lão lại thanh thản. Lão chết để giữ phần ấm cho con, để giữ lại hi vọng cho người con duy nhất đang ở nơi xa của mình. Cái chết của lão là biểu hiện cao nhất của tình phụ tử thiêng liêng, của đức hi sinh cao cả.
Cái chết của lão Hạc phản ánh về số phận và tính cách của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: nghèo khổ, bế tắc, nhưng giàu lòng yêu thương và đức hi sinh. Mặt khác, cái chết của lão Hạc cũng là lời tố cáo hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến. Xã hội khi ấy đã đẩy những con người lương thiện vào bước đường cùng, họ phải chấp nhận cái chết như cách duy nhất để giải thoát cho cuộc đời đầy đau khổ.
Cái chết của lão Hạc mang một màu sắc vô cùng bi thảm nhưng nó cũng khiến người đọc đồng cảm. Vì cái chết ấy không chỉ mang những giá trị nhân đạo mà còn giúp ta gia tăng niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người dù phải chịu hoàn cảnh nghiệt ngã. Đó cũng chính là giá trị nhân văn mà nhà văn Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm truyện ngắn này.
Phân tích ý nghĩa cái chết của lão Hạc
Nam Cao là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học hiện thực trong những năm đầu thế kỷ XX. Trong mỗi tác phẩm của mình Nam Cao đều thể hiện sự thương cảm với những số phận con người nghèo khổ, bị xã hội bần cùng, bức bách tới chân tường không lối thoát.
Tác phẩm Lão Hạc thể hiện sự bần cùng, không lối thoát và phải tìm đến cái chết đầy cay đắng của một người nông dân hiền lành. Dẫu vậy, người nông dân ấy lại có những phẩm chất vô cùng tốt đẹp và đáng quý. Thông qua truyện ngắn Lão Hạc, Nam Cao muốn tố cáo tội ác của chế độ phong kiến đã đẩy người nông dân tới tận cùng, khiến họ không còn lối thoát mà phải tìm tới cái chết.
Trong tác phẩm này Nam Cao đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật lão Hạc với những phẩm chất cao quý. Lão là người cha thương yêu con trai của mình, là người nông dân hiền lành, phúc hậu và có lòng tự trọng hơn người. Hình ảnh cái chết của lão ở cuối truyện ngắn khiến người đọc vừa đau xót và day dứt. Từ đó, trào dâng sự căm phẫn chế độ thực dân cũ quá tàn ác, đã khiến cho một ông lão nghèo khó phải tự mình tìm tới cái chết trong tức tưởi để bảo toàn được những gì mình đang có.
Chính chế độ phong kiến và nạn đói đã đẩy lão Hạc tới cái chết. Chỉ có cái chết mới khiến lão thanh thản và có thể giữ lại được tất cả tài sản ít ỏi mà lão có để cho con trai. Dù cho sống trong tình cảnh nghèo khó chung nhưng hoàn cảnh của lão có chút đặc biệt hơn. Lão không có người thân bên cạnh, vợ mất đã lâu nên một mình lão phải nuôi con trai lớn. Nhưng khi không có đủ tiền để cưới vợ thì người con trai nhưng xin đi đồn điền cao su biền biệt không rõ tung tích. Từ đó lão chỉ sống một mình cùng với con chó là kỷ vật mà con trai để lại trước khi đi xa. Lão đặt tên cho con chó là cậu Vàng, lão xem cậu Vàng là bạn tri kỷ và dành tình yêu thương cho nó. Nhìn thấy con Vàng như lão đang nhìn thấy chính đứa con trai của mình.
Dù không rõ tung tích đứa con trai nhưng lão vẫn thầm mong con trai mình sẽ về, và lão sẽ để lại mảnh vườn này để trai lão về có chỗ mà sinh sống và làm ăn. Tuy nhiên trong bối cảnh bế tắc lại gặp nạn đói hoành hành, nhiều lúc lão chỉ có thể ăn củ mài, củ chuối sống qua ngày. Đời sống khi ấy của lão cơ cực và heo hắt như ngọn đèn trước gió, có thể bị tắt bất kỳ lúc nào. Để rồi đến một ngày, lão đành phải bán đi con chó mà mình hết mực yêu quý. Bán đi cậu Vàng khiến lão dằn vặt khôn nguôi, lão nghĩ rằng mình như vậy mà lại đi lừa cả một con chó.
Nhưng dù sống trong hoàn cảnh nghèo khó là vậy, lão Hạc vẫn giữ cho mình tâm hồn trong sạch và lòng tự trọng đáng quý. Lão không muốn làm phiền đến hàng xóm và đặc biệt là sự giúp đỡ từ ông giáo vì lão biết hoàn cảnh của ông giáo cũng khó khăn không kém. Lão chỉ nhờ ông giáo hai việc là coi sóc mảnh vườn chờ ngày con trai lão quay về và giữ hộ lão ít tiền để làm ma chay nếu lão có gặp chuyện. Rồi sau đó, lão sang nhà Binh Tư xin bả chó. Thấy lão xin bả chó Binh Tư và ông giáo ngạc nhiên lắm vì tưởng lão bần cùng sinh đạo tặc, không còn giữ được phẩm chất cao quý của mình nữa. Nhưng đến khi chứng kiến cái chết quằn quại trong cơn đau “đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc” thì cả ông giáo và Binh Tư mới vỡ lẽ. Lão Hạc đã ăn bả chó tự tử, một cái chết đau đớn và dữ dội.
Lão Hạc lựa cái chết vì mong ước muốn để dành những điều tốt đẹp nhất cho người con trai duy nhất của mình. Một tình cảm của người cha thương con vô sâu đậm và cao quý. Chính cái chết của lão Hạc như một sự minh chứng cho những bế tắc của thời đại phong kiến lúc bấy giờ. Cái chết ấy như một lời lên án xã hội cũ luôn dồn ép người nông dân vào đường cùng, khiến họ phải tự tìm cảnh giải thoát cho số phận nghiệt ngã ấy.
Truyện ngắn Lão Hạc kết thúc với bi kịch là cái chết của nhân vật chính, nhưng lại gợi mở trong lòng người vô cùng nhiều cảm xúc. Qua đó, tác giả muốn bày tỏ lòng cảm thương sâu sắc cho số phận của một người nông dân chân chất, hiền lành, có lòng tự trọng cao quý.
Viết đoạn văn ngắn phân tích nguyên nhân cái chết của lão Hạc
Nhân vật lão Hạc là một người nông dân hiền lành và tốt bụng nhưng phải chịu cái chết đầy bi thảm. Cái chết của lão đến từ tình yêu thương vô bờ dành cho con trai, lão chấp nhận hy sinh bản thân vì hạnh phúc của con. Không chỉ vậy, lão Hạc chết còn bởi vì lão cảm thấy ân hận khi lừa bán đi con chó – kỷ vật mà con trai để lại. Lão không muốn làm phiền đến hàng xóm xung quanh nên lựa chọn cái chết để chấm dứt cuộc sống đói khổ này. Qua cái chết của lão, ta có thể cảm nhận lão Hạc là người thanh cao và có lòng tự trọng cao. Hơn hết, lão là cha hết mực yêu thương con, vì con lão có thể bỏ mạng sống mình.
Viết đoạn văn ngắn lý giải nguyên nhân cái chết của lão Hạc
Cái chết của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng mỗi độc giả. Lão Hạc xin Binh Tư ít bả chó với lý do muốn bắt chó nhà khác. Lý do ấy khiến Binh Tư nghĩ lão giả bộ hiền lành nhưng cũng ghê ra phết. Không chỉ vậy, lý do này còn khiến ông giáo hiểu lầm lão, từ một con người đã “khóc vì trót lừa con chó, một con người nhịn ăn để có tiền làm ma” nay đã bị tha hóa làm điều xấu. Vậy nhưng, trớ trêu thay, lão ăn bả chó để tự tử. Lão Hạc đã chọn cái chết khi bị dồn vào đường cùng, lão thà chết chứ không muốn sống nhục làm phiền đến người khác. Lão chết một cách vật vã và quằn quại trong đau đớn “vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc…chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, giật nẩy lên”. Cái chết này như thể lão đang đền tội vì đã bán cậu Vàng đi. Tuy nhiên, trong suy nghĩ của lão, chỉ có cách này mới giúp lão giữ được miếng đất và tiền của cho con trai lấy vợ. Và chỉ có chết đi lão mới có thể chấm dứt cuộc sống nghiệt ngã và khổ cực này. Cái chết của lão Hạc khiến ta đau đớn, cảm thương sâu sắc, từ đó nhận ra tình phụ tử thiêng liêng. Lão Hạc chết để lấy cái sống cho đứa con trai đang đi phu đồn điền biền biệt, vì nếu lão còn sống là còn ăn vào tiền và đường sống của con trai mình. Từ xưa đến nay, không ít những bậc làm cha mẹ sẵn sàng hy sinh cơm ăn, áo mặc cho con cái. Tuy nhiên, để hy sinh cả mạng sống của mình như lão Hạc lại là một trường hợp hiếm thấy. Lão Hạc là người có một tấm lòng thật đáng trân trọng: lòng tự trọng của một lão nông nghèo nhưng trong sạch. Cái chết của lão đã phản ánh tình cảnh cũng như số phận của người nông dân luôn chịu đói khổ và bế tắc giai đoạn trước cách mạng tháng Tám. Đồng thời, qua cái chết của lão, nhà văn Nam Cao cũng muốn tố cáo hiện thực xã hội thực dân khắc nghiệt thời kỳ nửa phong kiến. Người nông dân là tầng lớp thấp bé và họ luôn phải chịu cảnh đói khổ và tăm tối. Quả thực, cái chết của lão Hạc góp phần làm nên thành công về mặt giá trị hiện thực và tính nhân đạo của tác phẩm.
Xem thêm:
- Tuyển tập phân tích văn học lớp 12 Chân trời sáng tạo đầy đủ nhất
- Tổng hợp các bài phân tích tác phẩm Lão Hạc hay nhất của học sinh giỏi
- Xuân tóc đỏ cứu quốc: Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác
Kết luận
Phân tích nhân vật lão Hạc với nhiều dạng đề được tổng hợp chi tiết. Bạn có thể tham khảo và đưa ra những góc nhìn khác về nhân vật này. Từ đó, giúp bạn dễ dàng áp dụng cách viết văn phân tích vào bài văn của mình.