Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương là dạng đề để đánh giá khả năng hiểu bài đọc của học sinh. https://www.thepoetmagazine.org/ khai thác góc nhìn theo từng nhân vật giúp bạn thấu hiểu nỗi oan khuất của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Table of Contents

Dàn ý phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

Mở bài: Giới thiệu tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương trong SCK Văn 9 và nhân vật cần phân tích

Thân bài:

1/ Chân dung của Vũ Nương:

  • Vũ Nương quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị, nết na, xinh đẹp.
  • Cuộc đời nàng ngắn ngủi nhưng vẫn làm tròn bổn phận của người phụ nữ. Nàng biết giữ gìn khuôn phép, vì vậy cuộc sống gia đình trong ngoài ấm êm.
  • Trương Sinh đi lính, nàng phải vất vả sinh nở nuôi on một mình, chăm sóc mẹ già khi ốm đau, khi mất lo toan như mẹ của mình. Nàng đã làm tròn bổn phận làm dâu, làm vợ, làm mẹ.
  • Vũ Nương cũng giống bao người phụ nữ khác, lúc nào cũng ước mong người chồng trở về đoàn tụ.
phân tích nhân vật vũ nương trong chuyện người con gái nam xương của nguyễn dữ
Vũ Nương là cô gái xinh đẹp có tài có sắc và công dung ngôn hạnh đủ đầy

2/ Cái chết của Vũ Nương:

  • Trương Sinh trở về, ước mong Vũ Nương sắp trở thành hiện thực nhưng nào ngờ đó lại là cuộc chia li vĩnh viễn.
  • Trương Sinh bế con, nó không theo, chàng lại nghe lời thằng bé và cho rằng vợ có người đàn ông khác.
  • Trương Sinh không lắng nghe vợ, mất đi lí trí, mắng nhiếc Vũ Nương thậm tệ rồi đánh đuổi nàng đi. Nàng chỉ còn có thể lấy cái chết để chứng minh trong sạch.
  • Cái chết của Vũ nương còn do chiến tranh li tán, vợ xa chồng tạo mối ngờ vợ, xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
  • Cái chết của nàng chứng minh: Hạnh phúc lứa đôi chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở yêu thương chân chính, có sự cảm thông và chia sẻ.

Kết bài: Đánh giá, cảm nhận về nhân vật Vũ Nương và cái chết của nàng.

Tổng hợp các phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

Dạng đề phân tích Văn 9 Chân trời sáng tạo này thường gặp trong các bài kiểm tra giữa kì hoặc cuối kì. Bạn có thể tham khảo các mẫu bài làm sau để có ý tưởng cho bài viết của mình.

Mẫu 1 – Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kỳ hoặc có tính chất truyền ỳ xong được tôn vinh là thiên cổ kì bút thì cho đến nay chỉ có một Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Không chỉ vì tác giả Truyền kì mạn lục đã phát huy công năng của thể loại một cách thần tình; mà có lẽ quan trọng hơn: bút lực của ông rất già dặn, vừa thông minh, tài hoa lại vừa giàu tính nhân đạo.

phân tích vẻ đẹp của vũ nương trong chuyện người con gái nam xương
Nàng bộc bạch thanh minh khi bị chồng nghi oan

Chuyện người con gái Nam Xương được rút trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp, nết na tê là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Nguyễn Dữ không chú trọng miêu tả hình thức, chúng ta chỉ biết Vũ Nương tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác nhau. Ở từng thời điểm, nhân vật bộc lộ cá tính của mình một cách cụ thể. Mối quan hệ với Trương Sinh diễn ra qua bốn thời điểm: Khi chồng ở nhà, khi chồng đi lính, khi xa chồng và khi chồng trở về. Trong những ngày chung sống với nhau, biết Trương Sinh là người có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức nên Vũ Nương luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. KKhi tiễn chồng đi lính, tính cách của Vũ Nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa đã chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức thâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bây bổng”. Từ cách nói đến nội dung đều hiện lên một Vũ Nương dịu dàng, tha thiết với hạnh phúc, không hư danh, thương chồng và giàu lòng vị tha, một tâm hồn có văn hóa.

Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền dâu thảo, chăm sóc thuốc thang tận tình khi mẹ chồng đau yếu, ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời. Nguyễn Dữ đã đặt những lời ca ngợi đẹp nhất về Vũ Nương vào miệng của mẹ chồng nàng, khiến nó trở nên ý nghĩa vô cùng: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắn ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song, lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, trong nguy sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng, ban cho phúc đức, giống dòng tốt tươi, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Người thiếu phụ tận tụy, hiếu nghĩa ấy còn là một người vợ thủy chung đối với chồng. Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến, người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp đó một lòng một dạ chờ chồng, nuôi con, mặc cho khi “bướm lượn đầy vườn” hay lúc “mây che kín núi” vẫn một mực chung thủy sắt son với chồng. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được mọi người yêu mến bởi tính tình và phẩm hạnh của nàng. Trong cái nhìn nâng niu và trân trọng của ông, Vũ Nương là người phụ nữ của gia đình. Đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người vợ hiền, dâu thảo một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để giữ gìn vun vé cho hạnh phúc gia đình.

Người phụ nữ dịu dàng, hiếu nghĩa tận tụy chung tình đó đáng ra phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình êm ấm hạnh phúc. Nhưng đau đớn thay, một ngày kia chồng nàng trở về, nghe lời con trẻ đinh ninh là vợ có tình nhân, mắng nhiếc, đánh đập và đuổi nàng đi bất chấp sự ngăn cản của họ hàng, làng xóm và lời than rớm máu của người vợ trẻ: “Thiếp vốn là con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa từng bén góp. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói”. Nhưng Vũ Nương càng thanh minh thì mối nghi ngờ của Trương Sinh càng lớn. Vũ Nương phải bất đắc dĩ nói: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vi nghi gia thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc bông tuyết hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn cso thể lên núi Vọng Phu kia nữa”. Với trái tim tan nát, tuyệt vọng, Vũ nương đã tìm đến cái chết. Đến bến Hoàng Giang, người thiếu phụ đau khổ nguyện rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con lẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng dám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm Ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Với nàng cái chết là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Nhịp văn dồn dập, lời văn thống thiết như cực tả nỗi niềm đồng cảm, xót thương của tác giả đối với người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh! Thương Vũ Nương, thương cho số phận của người phụ nữ đẹp người, đẹp nết mà chịu bất hạnh, Nguyễn Dữ đã sáng tạo ra một thế giới thần tiên êm đềm trong chốn làng mây cung nước để Vũ Nương được sống như nàng tiên. Nhà văn cũng tạo ra cuộc gặp gỡ kì thú giữa Phan Lang – một người dương thế – với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc gặp gỡ ấy đã sáng tỏ thêm những phẩm chất của Vũ Nương. Khi Phan Lang nhắc đến chuyện nhà cửa tổ tiên thì Vũ Nương “ứa nước mắt khóc”. Tính cách của nàng và bi kịch như được tô đậm khơi sâu một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn đưa phần truyền kỳ vào câu chuyện không chỉ có thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một chân lí nghệ thuật: cái đẹp là bất hủ. Vũ Nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống vĩnh hằng ở cõi tiên vì nàng hiện thân cho cái đẹp.

Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng vấn đề mà Chuyện người con gái Nam Xương đặt ra là vấn đề có tính khái quát giàu ý nghĩa nhân văn. Phía sau tấn bi kịch của Vũ Nương có một cuộc chinh chiến, loạn li cách biệt, nhưng căn bản là lễ giáo phong kiến hà khắc và tư tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành bạo chúa gia đình… Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang khắc khoải niềm thương và nỗi ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung, xinh đẹp, hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh. Đó là tất cả ý nghĩa mà chúng ta có thể cảm nhận được từ Chuyện người con gái Nam Xương.

Mẫu 2 – Phân tích nhân vật Vũ Nương trong chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa đã được thể hiện qua nhiều tác phẩm. Tuy nhiên, để được tôn vinh “thiên cổ kì bút” thì Chuyện người con gái Nam Xương trong Truyền Kì Mạn Lục của Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm kinh điển. Tác phẩm khắc họa thành công hình ảnh và cả số phận lênh đênh, lấy chồng theo chồng, không thể làm chủ bản thân của phụ nữ thời bấy giờ.

Nàng Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết. Việc Nguyễn Dữ đưa họ tên thật sự và quê quán Nam Xương chính xác thể hiện đây là nhân vật có thật. Điều này khiến người đọc càng tin vào việc có một Vũ Nương như thế, đã phải chịu nỗi hàm oan như thế.

Chính điều này cũng khiến danh tính của nàng có thể lưu truyền hậu thế. Và hình ảnh, số phận người phụ nữ trong chế độ xưa càng được khắc họa rõ nét hơn, hiện thực hơn. Người đọc có thể cảm nhận được những đau khổ xót xa, nỗi hàm oan không thể hóa giải khiến nàng phải đi vào bước đường cùng.

Hình ảnh Vũ Nương được khắc họa là một người con gái đủ các phẩm chất công dung ngôn hạnh “tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Nhưng ngay từ đầu tiên, độc giả đã có thể cảm nhận thấy một cuộc sống chẳng thể bình yên với nàng khi lấy phải người chồng bản tính đa nghi “Song Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”.

Vậy nhưng Vũ Nương vẫn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”. Đây chính là bản tính của phụ nữ Việt Nam thời xưa. Lấy chồng phải theo chồng dù đức lang quân có nhiều tính xấu, hay ghen tuông nghi ngờ. Họ chỉ biết cam chịu số phận để dung hòa mối quan hệ mong sao cuộc sống gia đình bình yên êm ấm.

Sự vẹn toàn của nàng Vũ Thị Thiết không chỉ thể hiện trong mối quan hệ vợ chồng. Điều đó còn được lột tả qua việc nàng lo lắng cho sự an nguy của chồng khi phải ra trận mạc. Ý của nàng thể hiện rõ ràng qua những lời dặn dò chồng trước lúc lâm trận “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rối. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”.

Việc nàng dốc tâm chăm sóc mẹ chồng đau ốm bệnh tật cũng thể hiện đức tính tốt đẹp của người phụ nữ. Xã hội xưa, vị trí của người vợ, người mẹ trong gia đình không được coi trọng. Lấy vợ chỉ để sinh con, lấy dâu chỉ để thêm người làm. Tuy nhiên, việc mẹ chồng đối xử với nàng như con gái, gia đình hòa thuận ấm êm đã tô thêm phẩm giá cho nàng.

Những lời bà trăn trối trước lúc ra đi thể hiện rõ ràng, Vũ Nương là con người toàn vẹn mọi đường. “Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”​.

Tuy nhiên, tất cả những điều đó đều không được chồng nàng – Trương Sinh ghi nhận. Chàng không thấy được sự hy sinh của vợ, cộng thêm bản tính đa nghi nên chỉ cần một tác động nhỏ đã khiến câu chuyện gia đình rơi vào bi kịch.

Mới ngày nào vợ chồng còn bịn rịn chia tay khiến người người rơi nước mắt, chỉ qua năm sau mọi thứ đã đổ vỡ tan tành. Sự khắc khoải chờ mong, sự lo toan sống chết đối lại là nghi ngờ, ghen tuông mù quáng và những lời mắng nhiếc đánh đập đến thậm tệ. Liệu rằng Vũ Nương có bao giờ từng nghĩ đến số phận mình lại chua xót sâu cay đến thế.

Chỉ vì một chiếc bóng được nhân cách hóa lúc chồng xa nhà để vơi đi nỗi nhớ mà nàng đã làm hại chính mình. Để người chồng trở về chẳng kịp nhìn lại những công lao nuôi con dưỡng mẹ, sự cố gắng làm tròn bổn phận con dâu của vợ. Tất cả đều đổ xuống sông xuông biển chỉ sau vài lời thơ dại của con trẻ. Cuối cùng, nàng đành phải trầm mình xuống Hoàng Giang lạnh lẽo để chứng tỏ sự chung trinh của mình.

Vũ Nương là hiện thân của sự bế tắc và bất lực của người phụ nữ xưa. Họ chỉ biết đến chồng, đến con, đến gia đình mà chưa từng nghĩ cho bản thân. Đến khi có chuyện xảy ra, họ không có lối thoát và chỉ có thể chọn cách cuối cùng là kết thúc sinh mạng để chứng minh bản thân. Một kết thúc quá đau đớn cho những hy sinh, cố gắng.

Bi kịch của Vũ Nương chính là sự đầu hàng trước số phận. Đây cũng là lời tố cáo những đấng “nam nhân” thời phong kiến với thói ích kỷ ghen tuông. Ngay từ đầu, sự thất học của Trương Sinh đã là tình tiết không bình thường khởi đầu cho những bất công anh ta mang đến cho người vợ. Tuy nhiên, thời đó là thế, chắc gì một Trương Sinh có học có thể khiến Vũ Nương được hạnh phúc!

Tham khảo thêm những bài soạn Văn 9 Kết nối tri thức ngắn nhất tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương được cập nhật tại website.

Mẫu 3 – Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong chuyện người con gái Nam Xương

Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương là hiện thân của người phụ nữ xưa trong xã hội phong kiên. Cả về con người, tính cách lẫn số phận đều thể hiện sự bất công của thời đại. Chính điều này là khởi nguồn cho tấn bi kịch cuộc đời mà nàng cùng nhiều người con gái khác phải chịu đựng.

Về con người, Vũ Nương – Vũ Thị Thiết được miêu tả là “tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Có thể nói, ở nàng hội tụ đầy đủ các yếu tố công – dung – ngôn – hạnh. Đây là hình ảnh hoàn hảo, kim chỉ nam cho hầu hết chị em không chỉ ở thời xưa mà ngay cả hiện nay.

Về tính cách, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công người đàn bà vì chồng, vì con, hy sinh và tận tụy. Đối với chồng thì “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”. Khi chồng đi lính luôn giữ trinh tiết vẹn toàn tránh điều tiếng, giữ gìn thể diện ” Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thoả tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.

cảm nhận của em về nhân vật vũ nương trong chuyện người con gái nam xương
Chỉ vì chiếc bóng trên tường mà Vũ Nương phải chịu bị kịch

Đối với mẹ chồng thì “Nàng hết sức thuốc than lễ bế thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn” và khi bà mất thì “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Vậy nên mối quan hệ mẹ chồng con dâu hết sức bền chặt khăng khít. Trước khi ra đi, những lời dặn dò của bà cũng thể hiện được việc bà quý cô con dâu này đến mức nào. Cuối cùng cũng chỉ hy vọng con trai không phụ lòng con dâu “Chồng con nơi xa xôi không biết sống chết thế nào không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

Tuy nhiên, số phận đưa đẩy khiến một người tốt đẹp như Vũ Nương lại không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Cưới chồng chưa bao lâu, cuộc sống chưa tròn thì chồng đi lính. Xã hội loạn lạc chính là một yếu tố quan trọng tác động đển số phận người phụ nữ. Họ không có quyền, không có tiếng nói, không có chỗ đứng nên mãi mãi chỉ thấp cổ bé họng, không thể làm chủ vận mệnh của mình.

Ngay từ những tình tiết đầu tiên đã có thể thấy Nguyễn Dữ khéo léo dùng câu chữ cho người đọc thấy “ái ngại” thay cho nàng Vũ Nương. Một người con gái vẹn toàn nhưng lại lấy phải người chồng giàu có nhưng thất học, lại có tính đa nghi ghen tuông. Hình tượng người đàn ông này không thiếu trong xã hội xưa và cũng là nguồn cơn gây nên nhiều bi kịch.

Vì nhớ chồng, nàng đã tự nghĩ ra nhân vật “Cha Đản” từ chiếc bóng của mình trên tường. Nhưng cũng chính chiếc bóng này đã khiến Vũ Nương gặp họa lớn. Tuy nhiên, đó chỉ là yếu tố bên ngoài. Chủ yếu là xét ở góc độ con người, Trương Sinh không hề có lòng tin với vợ. Vậy nên chỉ một tác động, một sự việc chưa rõ ngọn ngành đã khiến chàng ta đối xử nhẫn tâm với người vợ đầu ấp tay gối.

Cuối cùng, rơi vào bế tắc, đi đến bước đường cùng, Vũ Nương tự vẫn. Số phận phụ nữ thời xưa thấp cổ bé họng, không có ai làm chủ hay bảo vệ. Lấy chồng phải theo chồng, chồng ruồng rẫy không dám minh oan mà chỉ dám lấy cái chết ra bày tỏ. Sự cùng cực đến đỉnh điểm khiến họ không thể vực lại, không thể tiếp tục sống.

Thế nhưng, rốt cục nàng vẫn tha thứ cho Trương Sinh khi trở về tại đàn giải oan. Nàng vẫn vẹn nghĩa vợ chồng dù chính người đó đã đẩy mình vào đường chết. Cho đến cuối cùng, người thiệt thòi nhất vẫn là Vũ Nương.

Câu chuyện và nhân vật tái hiện hình ảnh người phụ nữ trong chế độ phong kiến. Những ràng buộc xã hội, những quy tắc như gông đeo trên cổ khiến họ không được có tiếng nói, không thể bảo vệ bản thân.

Mẫu 4 – Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong chuyện người con gái Nam Xương

Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ được đánh giá là thiên cổ tùy bút. Các tác phẩm mang màu sắc mới lạ, kết hợp giữa đời thực và yếu tố nhân hóa. Điều nàng mang đến cho độc giả sự hào hứng thích thú khi xem. Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những tác phẩm tiêu biểu nói về số phận bất hạnh của người phụ nữ thời phong kiến. Nguyễn Dữ đã khắc họa nhân vật Vũ Nương với nhiều hình ảnh, tình tiết đáng suy ngẫm.

Chuyện người con gái Nam Xương là thiên thứ mười sáu trong hai mươi thiên truyện của “Truyền kì mạn lục”. Nàng Vũ Nương được chỉ đích danh với tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương. Điều này thể hiện việc Nguyễn Dữ muốn nhấn mạnh đây là nhân vật có thật, thực sự tồn tại câu chuyện về số phận Vũ Nương đúng như lời kể.

Tác giả khắc họa nàng là một người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh, đẹp người, đẹp nết. Thế nhưng khi lấy chồng lại kết duyên với Trương Sinh giàu có nhưng ít học lại còn hay ghen tuông. Chính sự không tương xứng này đã dẫn đến bi kịch của đời nàng, bị chồng nghi oan thất tiết đến mức phải tự vẫn kêu oan. Kết thúc câu chuyện là hình ảnh nàng hiện về nói lời từ tạ chồng con.

Đây là bi kịch của cuộc đời Vũ Nương nhưng cũng lại là hiện thực chung cho số phận người phụ nữ thời đó. Đầu tiên là việc cha mẹ đặt đâu phải ngồi đó, chấp nhận lấy Trương Sinh và cam chịu cuộc sống. Khi gia đình và chồng là chỗ dựa duy nhất bị lung lay, họ không có sự lựa chọn nào khác ngoài kết thúc cuộc đời. Đây là hiện thực xã hội thời bấy giờ, cũng là số phận của người phụ nữ khi không thể làm chủ cuộc đời của mình.

Ở Vũ Nương, ta thấy nàng là người phụ nữ vẹn toàn. Về con người thì “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Về tính cách, nàng luôn chăm lo cho gia đình, săn sóc chồng con và mẹ chồng. Rất nhiều nội dung đã được Nguyễn Dữ tập trung để làm nổi bật vẻ đẹp đức hạnh của nàng. Ông đã đưa nhân vật vào nhiều hoàn cảnh khác nhau.

Ví dụ, khi chồng đi lính thì “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rối”. Đối với mẹ chồng hết lòng săn sóc thương yêu, khi bà ốm đau lo lắng như cha mẹ đẻ.

Tiết hạnh của Vũ Nương còn được khẳng định khi chồng trở về từ chiến trường và nghi oan cho mình. “Cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót…”. Mặc dù đã gia sức thanh minh nhưng Trương Sinh vốn bản tính đa nghi không tin vợ đã khiến nàng đi vào đường cùng bên bến Hoàng Giang.

Nàng hết sức thanh minh mong giữ được tình nghĩa phu thê vẹn toàn. Dù khẳng định một lòng nhất mực thủy chung, không làm điều gì khuất tất mà son sắt với chồng. Điều này cho thấy nàng luôn giữ gìn hạnh phúc, tìm mọi cách hàn gắn gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Đây cũng chính là tâm lý của phụ nữ thời xưa, luôn coi trọng gia đình. Đây là chỗ dựa duy nhất của họ khi đã theo chồng.

Trước khi trầm mình nàng còn mang chính bản thân của mình ra thề mong thần linh chứng giám. “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.

Khi chưa đọc đến kết câu chuyện, từ tình tiết này cũng có thể thấy, việc Trương Sinh nghi oan cho nàng là không đúng. Nếu thực sự có gian tình thì chẳng thể nào Vũ Nương có thể mạnh miệng trước thần linh, mang thân mình ra để minh chứng.

Sau cùng, Nguyễn Dữ mới nói ra nguyên nhân dẫn đến kết cục đau khổ của nàng. Trước hết là do những lời ngây thơ của con trẻ về chi tiết cái bóng mà chắc chắn khi nói, Vũ Nương cũng chẳng thể ngờ được có ngày. Thế nhưng, nguyên nhân sâu xa lại chính là người chồng đa nghi, vũ phu vốn đã không tương xứng ngay từ đầu. Nguyên nhân nữa là do chế độ phong kiến hà khắc cùng sự đề cao người đàn ông trong xã hội. Điều này dung túng cho thói gia trưởng độc đoán của người đàn ông.

Chính điều này khiến người phụ nữ dù được “họ hàng, làng xóm bênh vực và biện bạch cho” nhưng cũng không thể giải bày. Người duy nhất có thể giúp đỡ nàng là mẹ chồng thì bà đã mất. Chính những yếu tố này đã đẩy Vũ Nương vào con đường cùng không lối thoát.

Khi trầm mình, nàng được thần linh che trở do trinh tiết đức hạnh của mình. Ở thế giới bên kia nàng đã được đối xử tử tế thể hiện giấc mơ của con người về sự lương thiện tử tế chiến thắng và khát khao hạnh phúc.

Tác giả sử dụng nghệ thuật kể chuyện độc đáo đan xen thực ảo mang đến sự hào hững cho người đọc. Khắc họa thành công hình ảnh và số phận nhân vật Vũ Nương cũng là đại diện cho sự bất hành và những bất công người phụ nữ phải chịu. Qua đó, ta thấy được cả một thời kỳ của chế độ xưa.

Mẫu 5 – Vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm chuyện người con gái Nam Xương

Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một người hội tụ đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Nàng sở hữu vẻ đẹp ngoại hình và tâm hồn đầy thu hút, khiến người đọc cảm nhận được sự trân trọng và nâng niu của tác giả dành cho nhân vật này.

Nàng được tác giả ưu ái miêu tả là “khuôn sắc mặn mà, đoan trang hiền thục”, “thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp”. Vẻ đẹp ngoại hình của nàng không chỉ thể hiện qua những nét đẹp tự nhiên mà còn toát lên từ sự đoan trang, hiền thục, đức hạnh. Không chỉ đẹp về bên ngoài, Vũ Nương còn hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn đầy thu hút.

Nàng là người phụ nữ hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp, khiến người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến. Đây chính là tiêu chuẩn vẻ đẹp lý tưởng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Hiếu thảo là tính cách đầu tiên cần nhắc đến khi nói về vẻ đẹp tâm hồn của nàng. Khi chồng đi lính, một mình nàng lo toan mọi việc trong nhà, hết lòng chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau. Nàng luôn giữ gìn lễ nghĩa, hiếu thảo, dù mẹ chồng khó tính, hay nghi kỵ và luôn đối xử như mẹ ruột của mình.

Bên cạnh sự hiếu thảo, Vũ Nương còn là người thủy chung, son sắt. Khi chồng đi lính, nàng một lòng chờ đợi, ngày đêm mong ngóng chồng trở về. Nàng luôn giữ gìn phẩm giá của bản thân, không hề xiêu lòng trước hay dù phải chịu nhiều oan ức vẫn không hề lay chuyển. Đây còn là người phụ nữ nhẫn nhịn, chịu đựng khi liên tục nàng nhường nhịn để giữ gìn hòa khí gia đình, không muốn khiến chồng buồn phiền. Nàng bao dung dù phải chịu nhiều oan trái vẫn giữ thái độ bình tĩnh, nhẹ nhàng.

Cuối cùng, dũng cảm là phẩm chất thể hiện rõ nét nhất trong tính cách của Vũ Nương. Khi bị chồng nghi oan, hắt hủi nàng đã chọn cách tự vẫn để bảo vệ danh dự bản thân. Nàng dũng cảm đối mặt với số phận nghiệt ngã, không muốn sống trong nhục nhã, oan trái nhưng cũng là hiện thân của của xã hội phong kiến đầy bất công.

Vũ Nương là nạn nhân của xã hội phong kiến với những quan niệm cổ hủ, bất công và phải chịu đựng những oan ức, nghi kỵ từ chồng mà không thể giải thích được. Nàng bị nghi oan, hắt hủi, phải chịu cảnh “trắng án mà mang nhục” và cuối cùng phải tìm đến cái chết để bảo vệ danh dự bản thân.

Số phận bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo xã hội phong kiến đầy bất công, nơi người phụ nữ không có tiếng nói, không được bảo vệ và phải chịu nhiều oan trái. Nàng là biểu tượng cho những người phụ nữ đức hạnh, nết na nhưng phải chịu số phận bi thảm trong xã hội phong kiến.

Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp như hiếu thảo, thủy chung, nhẫn nhịn, thông minh, khéo léo. Vẻ đẹp và số phận bi kịch của nàng được Nguyễn Dữ khắc họa lại đã lay động trái tim người đọc khiến họ cảm thông, xót thương và căm phẫn xã hội phong kiến thời xưa.

Mẫu 6 – Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm chuyện người con gái Nam Xương

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã được nhiều tác giả lột tả sinh động khiến ai ai cũng cảm thương. Tuy nhiên, thể hiện rõ ràng nhất, chân thực nhất, “thật” nhất chắc chắn phải nhắc đến nàng Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương.

Đầu tiên phải kể đến, việc tác giả Nguyễn Dữ để tên thật cho Vũ Nương – Vũ Thị Thiết làm tăng tính chân thực của câu chuyện. Mặc dù là Truyện kỳ mạn lục – ghi lại những cấu chuyện được lưu truyền nhưng yếu tố này khiến người đọc cảm thấy thực sự có một người con gái quê ở Nam Xương với số phận như trong câu chuyện.

Hình ảnh Vũ Nương được phác họa chân thực, đúng chuẩn phụ nữ thời xưa với công dung ngôn hạnh. Từ việc miêu tả tính cách, hình thức đến những lời nói của nhân vật trong chuyện cũng thấy được nàng là người có ăn có học đàng hoàng.

Lẽ ra, một người con gái như thế phải được gả vào gia đình tương xứng, môn đăng hậu đối. Tuy nhiên, có thể chính vì gia cảnh nghèo khó nên cha mẹ nàng đồng ý gả cho họ Trương – Trương Sinh – gia đình khá giả trong vùng. Người chồng ít học, hay ghen tuông chính là yếu tố không cân xứng dẫn đến bi kịch cuộc đời Vũ Nương sau này. Dù có cố gắng giữ đạo làm con, làm vợ, có “iữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà” thì nàng cũng không tránh khỏi số kiếp.

Nàng là hình mẫu tiêu biểu của người phụ nữ xưa. Lúc chưa lấy chồng chỉ biết đến cha mẹ, lấy chồng rồi chăm lo vun vén cho gia đình chồng. Đối với mẹ chồng hết mực thương yêu, đối với chồng săn sóc vun vén, đối với gia đình giữ lửa trọn vẹn. Mong ước lớn nhất của cuộc đời họ chỉ là nương nhờ vào chồng có được cuộc sống bình yên. Điều này thể hiện qua những lời dặn dò của nàng trước lúc chồng ra trận “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ”.

Mẫu 7 – Phân tích nhân vật Vũ Nương trong chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

Vũ Nương là một nhân vật không chỉ đẹp về ngoại hình, phẩm chất mà còn đẹp về giá trị nhân văn. Nàng là biểu tượng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, luôn tồn tại trong lòng người đọc qua bao thế hệ. Nàng là bài ca về sự thủy chung, đức hạnh và phẩm giá của người phụ nữ đồng thời là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất công, tàn bạo.

Ngay từ lần đầu gặp gỡ, Trương Sinh đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Vũ Nương. Anh ta khen ngợi rằng nàng “Tính đã thùy mị, nết na lại có thêm tư dung tốt đẹp”. Lời khen này cho thấy nàng sở hữu nhan sắc mặn mà, dịu dàng, khiến người ta say đắm. Sau khi về nhà chồng, Vũ Nương càng được mọi người trong làng yêu mến. Họ khen ngợi nàng “Công dung ngôn hạnh đủ cả”. Lời khen này khẳng định rằng nàng không chỉ xinh đẹp mà còn có phẩm chất tốt đẹp, khiến mọi người nể trọng.

Vẻ đẹp người của Vũ Nương không chỉ thể hiện ở nhan sắc mà còn ở những phẩm chất tốt đẹp như nết na thùy mị, đức hạnh, thủy chung, cam chịu. Nàng luôn giữ gìn khuôn phép, lễ nghĩa, đối xử hiếu thảo với mẹ chồng, hòa thuận với mọi người trong gia đình và làng xóm. Khi mẹ chồng ốm, nàng hết lòng chăm sóc, thuốc thang, phụng dưỡng chu đáo. Khi bà mất, Vũ Nương đã lo ma chay đầy đủ, làm tròn đạo làm con. Nàng luôn giữ gìn hòa khí trong gia đình, không để xảy ra mâu thuẫn. Cách cư xử của Vũ Nương thể hiện sự dịu dàng, thanh tao, khiến mọi người yêu quý và kính trọng.

Bên cạnh phẩm chất của người vợ hiền thục, Vũ Nương còn là người mẹ thương con hết mực. Tình yêu thương con của nàng được thể hiện qua từng hành động, lời nói và cách cư xử. Nàng thấu hiểu nỗi nhớ cha của con thơ, nên đã tìm cách xoa dịu bằng những lời nói nhẹ nhàng, trìu mến. Nàng mong con được sống trong sự yêu thương, bảo vệ của cha, và mong ngày con được gặp lại cha. Không chỉ vậy, Vũ Nương còn dành trọn vẹn thời gian và tâm sức để chăm sóc con trai. Nàng tảo tần nuôi con, dạy dỗ con nên người.

Khi chồng đi lính, nàng không hề lơi lỏng, buông thả bản thân. Nàng vẫn giữ gìn khuôn phép, lễ nghĩa, không hề giao thiệp với người khác phái. Nàng luôn giữ gìn phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, không để làm nhục danh dự của chồng và gia đình. Tuy nhiên, bi kịch lại ập đến với Vũ Nương khi bị nghi oan một cách vô cớ. Nàng không thể thanh minh cho bản thân, đành phải chọn cách tự vẫn để bảo vệ danh dự cho bản thân.

Vì thương cho người phụ nữ bất hạnh Vũ Nương, nhà văn Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên chi tiết hư cấu về việc bà sống dưới thủy cung sau khi tự vẫn. Chi tiết này mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, góp phần làm nên giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”. Việc Vũ Nương được sống dưới thủy cung là một hình ảnh tượng trưng cho một xã hội tốt đẹp, nơi người phụ nữ được sống bình đẳng, được hưởng hạnh phúc. Đây là ước mơ của tác giả và cũng là ước mơ của bao người về một xã hội công bằng, tốt đẹp hơn.

Cuộc đời và số phận bi kịch của Vũ Nương là bài ca về sự thủy chung, đức hạnh và phẩm giá của người phụ nữ. Nàng là nạn nhân của những định kiến xã hội, của sự ghen tuông vô cớ và lòng dạ hẹp hòi của con người. Nàng phải chịu đựng những bất công, oan trái một cách âm thầm, nhẫn nhịn và cuối cùng chọn cách giải thoát bằng cái chết. Qua đây tác giả đã lên án xã hội phong kiến đã chà đạp lên hạnh phúc của người phụ nữ, đồng thời thể hiện niềm thương cảm sâu sắc cho số phận của họ.

Dù tác phẩm có khép lại song những gì là văn là thơ là nghệ thuật đích thực thì vẫn còn mãi với thời gian. Vũ Nương là một nhân vật khiến người đọc vô cùng cảm động và xót thương. Nàng là lời nhắc nhở cho mỗi chúng ta về giá trị của hạnh phúc gia đình và tầm quan trọng của việc bảo vệ phẩm giá của bản thân.

Mẫu 8 – Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương trong chuyện người con gái Nam Xương

Nhà văn Nam Cao từng khẳng định: “Phụ nữ là những người yếu đuối nhất, nhưng cũng mạnh mẽ nhất”. Câu nói này như một lời khẳng định cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công hình ảnh người phụ nữ hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp, tiêu biểu là nhân vật Vũ Nương.

Vũ Nương được miêu tả là người phụ nữ “thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Nét đẹp của nàng không chỉ thể hiện qua ngoại hình mà còn toát lên từ tính cách và phẩm chất cao quý. Nàng là người vợ đảm đang, hiền thục, đức hạnh, thủy chung, cam chịu, thông minh, sáng dạ và có lòng yêu thương con cái vô bờ bến. Nét đẹp này khiến nàng được mọi người yêu mến và trân trọng. Mặc dù không có miêu tả trực tiếp, nhưng vẻ đẹp của Vũ Nương được thể hiện qua lời khen ngợi của mọi người.

Đức hạnh, hiếu thảo là phẩm chất nổi bật nhất của Vũ Nương. Khi chồng đi lính xa, một mình nàng gánh vác mọi việc nhà, vừa chăm sóc con thơ, vừa phụng dưỡng mẹ già. Nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để xảy ra mâu thuẫn, xích mích trong gia đình. Nàng đối xử hiếu thảo với mẹ chồng như mẹ đẻ, hết lòng chăm sóc, thuốc thang khi mẹ ốm đau. Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay chu đáo, khiến mọi người trong xóm đều khen ngợi.

Vũ Nương còn là người phụ nữ thủy chung, son sắt. Khi sống xa chồng, nàng luôn giữ gìn phẩm giá của bản thân, không đi chơi, đi hội, không trò chuyện với người đàn ông khác. Nàng luôn tin tưởng vào chồng, mong ngày chồng trở về. Khi bị nghi oan một cách vô cớ, nàng cũng không hề cãi vã, to tiếng mà chỉ âm thầm chịu đựng. Nàng thà chết chứ không chịu mang tiếng oan, thể hiện phẩm chất cao quý và lòng tự trọng của người phụ nữ.

Bên cạnh những phẩm chất truyền thống, Vũ Nương còn là người phụ nữ thông minh, sáng dạ. Khi con trai hỏi về cha, nàng đã nghĩ ra cách giải thích bằng chiếc bóng trên vách để con không nghi ngờ. Nàng cũng là người mẹ có lòng yêu thương con vô bờ bến. Nàng thường dỗ con bằng cách nói: “Con có thấy cha về không?”. Lời nói tưởng chừng như vô tình ấy lại ẩn chứa tình yêu thương và sự hy sinh to lớn của người mẹ dành cho con.

Việc Vũ Nương được sống dưới nước là minh chứng cho sự trong sạch, trắng án của nàng. Nàng được Linh Phi, một vị thần trong truyền thuyết, cứu giúp và che chở, thể hiện cho niềm tin vào công lý, vào sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác. Việc tác giả cho Vũ Nương được sống dưới nước và báo mộng Phan Lang về lập đàn giải oan thể hiện niềm tin vào công lý, vào sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác. Đồng thời, tác giả cũng muốn bày tỏ sự trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Hình ảnh Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Qua bi kịch của Vũ Nương, tác giả Nguyễn Dữ đã lên án xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đồng thời thể hiện niềm thương cảm sâu sắc cho số phận của người phụ nữ trong xã hội ấy. Hình ảnh Vũ Nương mãi là một bài học về lòng thủy chung, đức hạnh và phẩm giá của người phụ nữ Việt Nam.

Mẫu 9 – Nêu cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong chuyện người con gái Nam Xương

Không phải ngẫu nhiên phụ nữ được gọi là “phái yếu”. Dù họ cố tỏ ra mạnh mẽ đến đâu thì bên trong luôn tiềm ẩn sự yếu đuối mong manh cần được trở che. Và người gần gũi nhất, thân cận nhất, đáng phải đùm bọc bảo vệ họ nhất chính là người chồng đầu ấp tay gối.

Thế nhưng đôi khi, chính những người chồng lại là nguồn cơn cho những bi kịch, những khổ đau, những bất công mà họ phải chịu đựng. Ghen tuông mù quáng vô cớ, thói gia trưởng vũ phu, những tác động từ xã hội… khiến phụ nữ thường chịu thiệt thòi. Thời nay đã vậy, thời xưa điều này còn kinh khủng và phổ biến hơn nhiều.

Không hiếm những người đàn bà phải chịu tủi nhục vì kẻ mang danh là “chồng”. Một trong những số phận đau khổ được Nguyễn Dữ đã ghi chép lại trong Truyện kỳ mạn lục đó là nàng Vũ Nương. Vì những điều tiếng nghi ngờ của lang quân nàng đã phải trầm mình tự vẫn. Để rồi trời xanh cũng chứng kiến nỗi oan khuất mà giúp nàng có được một con đường sống nơi Thủy cung của Linh Phi.

Nguyễn Dữ khắc họa hình ảnh nhân vật Vũ Nương chân thực khiến người đọc cảm nhận hiện thực có một nàng Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Và câu chuyện về cuộc đời nàng là một câu chuyện thật, những tình tiết thật, đau đớn thật.

Qua ngòi bút và những ghi chép của tác giả, Vũ Nương hiện lên là một người phụ nữ hoàn mỹ, công dung ngôn hạnh đủ cả. Thế nhưng số phận lại trêu ngươi khiến người tốt lại chẳng được hạnh phúc.

Đầu tiên, Vũ Thị Thiết xinh đẹp giỏi giang, đẹp người đẹp nết. Cái đẹp chẳng nghiêng nước nghiêng thành, chẳng khiến “hoa ghen liễu hờn” như ai kia mà là vẻ đẹp thuần khiết, trong trẻo, vẻ đẹp của sự thanh thuần “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Dù sinh ra trong gia đình có gia cảnh nghèo khó nhưng nàng đã nhận được sự giáo dục nghiêm khắc của cha mẹ.

Ngay trong lời ăn tiếng nói cũng có thể thấy được học thức của Vũ Nương. Ví dụ khi bị Trương Sinh nghi oan, nàng đã nói ” Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thoả tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.

Hay khi quyết định trầm mình nơi sông Hoàng Giang, nàng cũng đã lập lời thề với trời đất “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.

Chính vì tư chất hơn người, nàng đã lọt vào mắt xanh của Trương Sinh vốn là con nhà hào phú “trong làng có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Tuy nhiên, độc giả sẽ cảm nhận thấy sự không tương xứng khi Trương Sinh ít học, lại “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”.

Đây chính là nguồn cơn của những bất hạnh mà sau này Vũ Nương phải đối mặt. Người vợ đẹp, nhẹ nhàng, chăm lo vun vén gia đình gặp người chồng ít học, gia trưởng lại hay ghen tuông. Hình mẫu này thường tạo ra những kết cục không hạnh phúc mà xã hội ngày nay cũng không hiếm gặp.

Càng đi sâu phân tích Vũ Nương ta càng thấy được nàng là người phụ nữ vẹn toàn. Không chỉ đẹp, đối với chồng nàng còn hết sức “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”. Đối với mẹ chồng thì chăm sóc như mẹ đẻ, lo toan khi ốm đau, liệu đám ma chay đầy đủ trọn vẹn đạo nghĩa. Ngay cả khi chồng ra trận, nàng cũng thể hiện được tình cảm của mình khi “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”.

Vũ Nương chỉ mong một cuộc sống yên bình bên gia đình hạnh phúc. Chẳng cần võng lọng cờ hoa, chẳng cần giàu sang phú quý. Đây cũng là mong muốn lớn nhất của đa số phụ nữ thời phong kiến khi suy nghĩ “lấy chồng theo chồng” hay phụ nữ chăm lo nội trợ đang còn phổ biến.

Hình ảnh Vũ Nương được Nguyễn Dữ kể lại với tình yêu vô bờ dành cho chồng. Khi Trương Sinh đi chiến trường, vì vợ nhớ chồng, vì con nhớ nha nàng đã tự bịa ra một nhân vật “cha Đản” với chiếc bóng của mình trên tường. Thế nhưng sự ngây thơ của bé Đản cùng yếu tố tưởng chừng vô hại này đã khiến nàng phải chịu oan sai đến mức phải tự vẫn.

Đây cũng chính là số phận người phụ nữ thời xưa, không có tiếng nói, không thể thanh minh. Không chứng minh được trong sạch chỉ còn có thể tự kết liễu mình để vẹn toàn. Đây chính là sự bế tắc của con người, cũng là sự phê phán xã hội với những định kiến và bất công với phụ nữ.

Cuối cùng, vì tấm lòng chung trinh, trời xanh cũng an bài giúp nàng giữ mạng, sống nơi động rùa của Linh phi. Tưởng chừng không thể tha thứ nhưng cuối cùng nàng vẫn cho Trương Sinh cơ hội chuộc lỗi. Đây cũng chính là tấm lòng của người vợ, người mẹ. Dù bị nghi oan, dù bị đối xử tệ bạc vẫn dành cho đối phương con đường lui.

Hình ảnh Vũ Nương được Nguyễn Dữ khắc họa chính là hiện thân cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cuộc đời và số phận bi thương của nàng khắc học rõ nét cũng là sự phê phán xã hội với đầy rẫy sự bất công.

Mẫu 10 – Phân tích vè đẹp Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

Vũ Nương trong Truyền kỳ mạn lục được khắc họa rõ nét thể hiện hình ảnh, cuộc đời và số phận của người phụ nữ thời phong kiến. Họ không thể làm chủ vận mệnh của mình, chưa lấy chồng thì phụ thuộc cha mẹ, lấy chồng rồi thì phụ thuộc vào chồng. Cuộc sống tốt xấu ra sao chủ yếu dựa vào việc người chồng có thể bảo vệ săn sóc hay không. Chính vì vậy mà nhiều người đã phải chịu số phận cay đắng.

Nhân vật được tác giả Nguyễn Dữ khắc họa nhan sắc nhẹ nhàng. Chủ yếu toàn bộ tác phẩm ông chỉ tập trung tô đậm vẻ đẹp phẩm chất của nàng. Đối với chồng, Vũ Nương hết mực yêu thương lo nghĩ. Biết chồng hay ghen nên nàng luôn cố gắng “giữ gìn khuôn phép, không lúc nào để vợ chồng phải thất hòa”. Khi chồng phải tòng quân đi đánh giặc, nàng cũng chẳng mong phong ấn mũ quan mà chỉ mong 2 chữ bình yên để sum họp đoàn tụ. Những lời từ biệt tha thiết thể hiện rõ tình cảm vợ chồng, tình yêu với đức lang quân khiến ai nghe cũng đều cảm động. Lời nói cũng thể hiện nàng là người có ăn có học đàng hoàng, biết lễ nghĩa trước sau.

3 năm ròng rã đợi chồng chinh chiến, nàng tự sinh con, tự nuôi khôn lớn, chăm lo gia đình nhà cửa. Trong nỗi nhớ mong khôn nguôi, nàng vẫn giữ trọn tấm lòng chung trinh chờ chồng. Đến khi Trương Sinh trở về, chẳng những không hỏi han quan tâm mà còn buông lời nghi kỵ phẩm giá. Nàng cũng chỉ nhẹ nhàng giải thích thanh minh, vô cùng mềm mỏng chỉ mong giữ được thú vui nghi gia nghi thất”. Mục đích cuối cùng cũng chỉ là bảo vệ gia đình, để con có mẹ có cha, để vợ có chồng.

Đối với mẹ chồng, nàng luôn săn sóc quan tâm. Lúc ốm đau bệnh tật ngày đêm túc trực không khác gì đối với cha mẹ đẻ. Tấm lòng của nàng được mẹ thấu rõ đến mức khi chuẩn bị trút bỏ hơi thở cuối cùng còn dặn dò “Chồng con nơi xa xôi không biết sống chết thế nào không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

Đối với con – bé Đản – dù không được tác giả nhắc đến nhiều nhưng lại là chi tiết quan trọng ảnh hưởng đến cuộc đời nàng. Cảnh mẹ con côi cút không có người đàn ông ở cạnh, vì nịnh con, vì nhớ chồng nàng đã phải tự chỉ chiếc bóng nói đó là “cha Đản”. Chắc hẳn lúc đó, Vũ Nương chỉ nghĩ đơn giản để vơi đi nỗi nhớ khôn nguôi chứ chưa từng biết, đó chính là nguồn cơn của bất hạnh cuộc đời nàng.

Hình ảnh nhân vật được khắc họa rõ nét qua mối quan hệ với chồng và mẹ chồng. Chính hàng xóm sau sự việc đau lòng xảy ra cũng đã ra sức thanh minh, bảo vệ cho Vũ Nương trong sự nghi kỵ của Trương Sinh. Không những được lòng mẹ, nàng còn khiến bà con xóm giềng ra sức bảo vệ. Một người phụ nữ như vậy làm sao có thể ngoại tình. Nhưng khi Trương Sinh nhận ra điều này thì mọi sự cũng đã quá muộn màng.

Vũ Nương còn là người có tấm lòng bao dung và vị tha. Mặc dù Trương Sinh đã nghi oan khiến bản thân không có cơ hội giải bày, phải lấy cái chết ra minh chứng trời đất thì nàng vẫn tha thứ cho chồng. Khi Phan Lang nhắc đến Trương Sinh cùng câu chuyện cũ, nàng đã dứt khoát “Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa!”.

Tuy nhiên khi được biết, Trương Sinh đã biết sự tình, ngày đêm nhung nhớ “Nương tử dù không nghĩ đến, nhưng tiên nhân còn mong đợi nương tử thì sao?” thì nàng lại xao động. Cuối cùng quyết định cho đối phương một cơ hội “Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Phải chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cản vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.” và đã gửi chiếc trâm thoa vàng làm tin.

Cuối cùng, khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng thì Vũ Nương vẫn chẳng hề trách móc mà còn đưa lời cảm tạ “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Nàng đã tha thứ cho Trương Sinh, đã giải thoát cho những năm tháng dày vò dằn vặt vì sai lầm và sự ghen tuông, ích kỷ của chàng. Dù bản thân phải hy sinh nhưng trong lòng Vũ Nương vẫn không hề thay đổi. Nàng vẫn dịu dàng, hiền thục, vẫn vì chồng vì con dù chính đối phương đã gây cho nàng biết bao đau khổ.

Người phụ nữ trong xã hội phong kiến, dù có những phẩm chất tốt đẹp thế nhưng cuộc đời lại chẳng hề dễ dàng. Những bất công, bất hạnh kéo dài khiến họ chẳng thể đứng lên, mệt mỏi thể xác lẫn tâm hồn.

Mẫu 11 – Phân tích Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

Trong kho tàng văn học Việt Nam, có rất nhiều hình ảnh người phụ nữ đẹp, tiêu biểu như: Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, Tấm trong “Tấm Cám”,… Tuy nhiên, Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ vẫn là một nhân vật đặc biệt, để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Vũ Nương của Nguyễn Dữ là một người phụ nữ hoàn hảo, hội tụ đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến. Nàng là người vợ đức hạnh, đảm đang, hiếu thảo, thủy chung. Khi chồng đi lính, nàng một mình lo toan mọi việc nhà, chăm sóc mẹ chồng chu đáo. Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay tế lễ chu toàn, không để thiếu sót điều gì. Nàng hiếu thảo với mẹ chồng như với cha mẹ ruột.

Nàng là người mẹ thương con tha thiết. Khi bị nghi oan, nàng thương xót cho con nhỏ, lo con không có cha, không có mẹ. Nàng mong muốn được gặp con lần cuối trước khi ra đi. Hình ảnh Vũ Nương hiện về dưới bóng trăng, ôm con trong vòng tay, âu yếm, vỗ về là một hình ảnh vô cùng cảm động, thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng của người mẹ.

Khi chồng đi lính, nàng một lòng chung thủy, nhớ thương chồng khôn nguôi. Nàng giữ gìn khuôn phép, không hề lơi lỏng, dù chỉ là trong ý nghĩ. Khi bị nghi oan, nàng vẫn tin tưởng chồng, không hề nghi ngờ hay trách móc. Nàng tự vẫn để giải oan cho mình, để giữ gìn phẩm giá cho bản thân và gia đình.

Tuy “đẹp” nhưng Vũ Nương lại phải chịu bi kịch oan nghiệt do xã hội phong kiến bất công. Nàng bị nghi oan một cách vô cớ, dẫn đến cái chết đầy thương tâm. Cái chết của Vũ Nương là lời tố cáo xã hội phong kiến thối nát, bất công, đã chà đạp lên những phẩm chất tốt đẹp của con người.

Qua hình ảnh Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã thể hiện hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam với những bất công, thối nát, đẩy người phụ nữ như Vũ Nương đến bi kịch. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện sự trân trọng, đề cao những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ và lên án xã hội thời xưa

Vũ Nương là một người phụ nữ hội tụ đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến. Nàng là biểu tượng cho những người phụ nữ đức hạnh, thủy chung, chịu thương chịu khó. Vẻ đẹp của Vũ Nương không chỉ khiến người đọc cảm nhận được sự trân trọng mà còn khiến người đọc cảm thấy xót thương cho số phận bi kịch của nàng.

Mẫu 12 – Phân tích nhân vật Vũ Nương trong chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến luôn khiến ta trăn trở, suy ngẫm. Trong số những người phụ nữ ấy, Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một nhân vật để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

Trước hết, Vũ Nương là một người con gái mạnh mẽ, bản lĩnh và giàu lòng tự trọng. Khi bị nghi oan một cách vô cơ, nàng không hề oán trách hay than vãn mà lựa chọn gieo mình xuống sông để chứng minh mình vô tội. Hành động quyết liệt này xuất phát từ bản lĩnh không cam chịu của nàng. Nàng không chịu ấm ức, sống trong uất ức mà mất đi phẩm giá của bản thân.

Bên cạnh đó, Vũ Nương cũng là một người yêu thương chồng con sâu sắc, giàu tính yêu thương vô bờ bến. Khi chồng đi lính, nàng gánh vác mọi chuyện vừa làm con dâu hiếu thảo, vừa làm một người mẹ, người cha yêu thương và dạy dỗ con nên người. Nàng chăm lo cho mẹ chồng ốm nặng cũng lo luôn đám ma cho mẹ chu toàn. Nàng được hàng xóm khen ngợi rất nhiều.

Đặc biệt phải kể đến phẩm chất thủy chung, son sắc của người phụ nữ này. Nàng luôn chung thủy với chồng dù chống đi lính xa. Nàng biết tránh xa các mối quan hệ xung quanh, không hề lơi lỏng dù chỉ trong suy nghĩ. Khi bị nghi oan nàng vẫn không oán trách mà vẫn một lòng với chồng của mình. Nàng dùng cái chết của mình để chứng  minh cho mọi người cũng như Trương Sinh biết rằng: “ Đời này Vũ Nương chỉ có một đời chồng và mãi mãi như thế”.

Nếu nhìn Vũ Nương theo cái nhìn rộng hơn, sâu sắc hơn thì ta có thấy được rằng nàng chính là đại diện cho người phụ nữ Việt Nam phong kiến. Dù có bao  nhiêu phẩm chất tốt đẹp đi chăng nữa thì số phận cuối cùng vẫn là chịu áp bức bóc lột của xã hội. Họ vũ phu thì mình chịu đựng, họ mắng mỏ mình cũng chịu đựng và cái “chết” chính là câu trả lời đáp trả dành cho họ. Và cái “chết” ấy như một lời tố cáo xã hội nam quyền đã vùi dập lên sự “nhỏ bé” của người phụ nữ.

Việc Vũ Nương được Linh Phi cứu giúp chính là mong muốn hư ảo của Nguyễn Dữ dành cho người phụ nữ thời xưa. Cuộc sống dưới thủy công là cuộc sống trong mơ của nhiều cô gái, một cuộc sống có sự công bằng, không bị dè bủi. Và Vũ Nương người con gái ấy xứng đáng được như vậy. Việc Vũ Nương được Linh Phi cứu giúp là sự bù đắp cho những bất công mà nàng đã phải chịu đựng, đồng thời thể hiện niềm tin vào con người, vào cuộc sống.

“Chuyện người con gái Nam Xương” là một tác phẩm giàu giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Hình ảnh Vũ Nương sẽ mãi là một biểu tượng đẹp đẽ, một bài học sâu sắc về phẩm giá con người và niềm tin vào công lý.

Mẫu 13 – Nêu cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong chuyện người con gái Nam Xương

Vẻ đẹp của người phụ nữ là một chủ đề muôn thuở được các nhà văn, nhà thơ khai thác trong tác phẩm của mình. Vẻ đẹp ấy không chỉ thể hiện ở ngoại hình mà còn toát ra từ phẩm chất tâm hồn bên trong. Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” là một người phụ nữ hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp ấy.

Trước hết, Vũ Nương là người phụ nữ sở hữu sức mạnh nội tâm phi thường. Khi chồng đi lính, nàng một mình gánh vác mọi việc nhà, chăm sóc mẹ chồng chu đáo và nuôi dạy con nhỏ. Nàng đối mặt với những khó khăn, thử thách mà không hề than vãn, kêu ca. Khi mẹ chồng mất, cô cũng lo ma chay tế lễ chu toàn, thể hiện sự hiếu thảo và lòng kính trọng. Đặc biệt, khi bị nghi oan một cách vô cớ, nàng vẫn giữ được sự bình tĩnh và bản lĩnh.

Bên cạnh sức mạnh nội tâm, Vũ Nương còn có lòng vị tha và sự bao dung đáng quý. Khi bị nghi oan, nàng vẫn tin tưởng chồng, không hề nghi ngờ hay trách móc. Nàng chọn cách giải quyết vấn đề một cách ôn hòa, không muốn làm tổn thương bất kỳ ai. Ngay cả khi đã chết, nàng vẫn hiện về tha thứ cho chồng và mong muốn được trở về nhà. Nàng không hề oán hận hay căm phẫn mà vẫn là một người vợ hiền lành cần mẫn, một người mẹ yêu thương và nhớ con.

Hình ảnh Vũ Nương được Nguyễn Dữ khắc lên là người phụ nữ đầy lòng yêu thương. Nàng yêu thương chồng con tha thiết, luôn lo lắng, chăm sóc cho họ. Khi chồng đi lính, nàng một lòng chung thủy, nhớ thương chồng khôn nguôi. Khi bị nghi oan, nàng thương xót cho con nhỏ, lo con không có cha, không có mẹ. Nàng sẵn sàng hy sinh tất cả vì hạnh phúc gia đình. Nàng chọn cách tự vẫn để bảo vệ phẩm giá cho bản thân và gia đình, để con trai được sống trong môi trường tốt đẹp.

Vẻ đẹp của Vũ Nương không chỉ toát lên từ ngoại hình “vừa đẹp người vừa đẹp nết” mà còn ẩn chứa trong tâm hồn cao quý, mạnh mẽ. Nàng sở hữu những phẩm chất tốt đẹp khiến người đọc cảm phục và trân trọng. Vẻ đẹp ấy là vẻ đẹp của tâm hồn con người, là vẻ đẹp của những giá trị tốt đẹp. Vẻ đẹp ấy sẽ mãi là nguồn cảm hứng cho con người trong cuộc sống.

Vũ Nương – người phụ nữ đẹp lại phải chịu bi kịch oan nghiệt do xã hội phong kiến bất công, thối nát. Nàng bị nghi oan một cách vô cớ, dẫn đến cái chết đầy thương tâm. Cái chết của Vũ Nương là lời tố cáo xã hội phong kiến với những hủ tục, luật lệ hà khắc, đã chà đạp lên phẩm giá con người. Đây là tiếng nói thương cảm cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời là lời kêu gọi bảo vệ những giá trị tốt đẹp của con người.

Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Nguyễn Dữ đã thể hiện sự trân trọng, đề cao những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ đồng thời lên án xã hội phong kiến nam quyền đã đẩy họ đến cái kết bi đát. Tác phẩm cũng thể hiện niềm tin vào công lý, sự chiến thắng của cái thiện.

Mẫu 14 – Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm chuyện người con gái Nam Xương

Có khi nào đọc một tác phẩm mà bạn buồn bạn khóc chưa? Trong số những văn bản trong sách giáo khoa thì câu chuyện khiến cả lớp òa khóc hôm ấy chính là “Chuyện người con gái Nam Xương”. Nguyễn Dữ đã miêu tả sâu sắc nhất một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng cũng đầy bi át. Nàng chính là hiện thân cho thế giới loài người thời xưa.

Vũ Nương không chỉ sở hữu ngoại hình xinh đẹp mà còn mang trong mình tâm hồn cao quý, được thể hiện qua phẩm chất đức hạnh xuất sắc. Nàng là người phụ nữ hiền thục, đảm đang, trọn vẹn bổn phận. Khi chồng đi lính xa nhà, Vũ Nương một mình gánh vác mọi việc gia đình, từ việc đồng áng, chăn nuôi đến việc dỗ dành con nhỏ. Nàng chăm sóc mẹ chồng chu đáo như chính mẹ ruột, khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay tế lễ như với cha mẹ đẻ. Nàng thương xót cho con nhỏ khi bị nghi oan, mong muốn được gặp con lần cuối trước khi ra đi.

Nàng không chỉ là người vợ hiền, dâu thảo mà còn là người phụ nữ thủy chung, một lòng một dạ với chồng. Khi chồng đi lính xa nhà, nàng vẫn giữ gìn khuôn phép, không hề lơi lỏng dù chỉ trong ý nghĩ. Nàng luôn tin tưởng chồng, dù không biết ngày tháng chồng trở về. Khi bị nghi oan một cách vô cớ, Vũ Nương vẫn một mực tin vào sự trong sạch của bản thân và tin tưởng chồng. Nàng thà chết chứ không chịu mang tiếng nhục thất tiết.

Trước sự nghi oan vô cớ, Vũ Nương không hề than vãn, oán trách hay cam chịu số phận mà chọn cách giải oan cho bản thân bằng hành động quyết liệt. Hành động này xuất phát từ lòng tự trọng, bản lĩnh phi thường và mong muốn giữ gìn phẩm giá của bản thân. Nàng không chấp nhận sống trong uất ức, oan khuất, thà chết chứ không để đánh mất phẩm giá của người phụ nữ.

Câu chuyện về Vũ Nương là lời tố cáo đanh thép xã hội phong kiến bất công, trọng nam khinh nữ, đẩy người phụ nữ vào bi kịch. Lễ giáo phong kiến “trọng nam khinh nữ” khiến cho Trương Sinh – một kẻ vũ phu, hồ đồ, dễ dàng nghi oan cho vợ. Chiến tranh phong kiến phi nghĩa khiến Trương Sinh phải đi lính, để Vũ Nương phải chịu cảnh cô đơn, gánh vác gia đình. Yếu tố kỳ ảo được sử dụng góp phần tăng thêm tính hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm.

Tác phẩm còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của Nguyễn Dữ đối với số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nàng là nạn nhân của những bất công, tàn bạo, và phải chịu đựng những bi kịch không thể nào lý giải. Qua câu chuyện về Vũ Nương, Nguyễn Dữ cũng muốn khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam, dù trong hoàn cảnh nào vẫn luôn giữ gìn phẩm giá, sự thủy chung và lòng vị tha.

Câu chuyện “Chuyện người con gái Nam Xương” là một áng văn hay, giàu giá trị nhân đạo. Tác phẩm không chỉ tố cáo xã hội phong kiến bất công, mà còn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Hình ảnh Vũ Nương sẽ mãi là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp, và là lời nhắc nhở về giá trị cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội ngày nay.

Mẫu 15 – Phân tích ngắn gọn về nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

Vào thế kỷ XVI, Nguyễn Dư được biết đến là nhà văn có tài, học rộng, hiểu biết nhiều. Ông đã viết nên tập truyện “Truyền kì mạn lục” vô cùng đặc sắc, ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Trong đó, “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những tác phẩm đặc sắc trong tập truyện ấy. Hình ảnh nhân vật chính – Vũ Nương được khắc họa một cách đậm nét, thể hiện đúng số phận hẩm hiu của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thời xưa.

Vẻ đẹp của Vũ Nương được tác giả giới thiệu ngay từ đầu câu chuyện. Đó là một người con gái có dung mạo xinh đẹp, cốt cách đoan trang, tư dung tốt đẹp. Có thể nói, Nguyễn Dữ đã xây dựng hình ảnh một người phụ nữ công dung ngôn hạnh, đẹp cả về sắc lẫn đức hạnh. Về vẻ đẹp phẩm chất, Vũ Nương đã thể hiện qua từng mốc thời gian cụ thể.

Khi lấy chồng, nàng là một người phụ nữ chu toàn, khéo léo, biết trên biết dưới. Mặc dù Trương Sinh là người chồng gia trưởng, hay ghen tuông mù quáng nhưng vì biết tính chồng nên Vũ Nương luôn biết cách cư xử phải phép. Nhờ vậy mà cuộc sống gia đình lúc nào cũng ấm êm, hạnh phúc.

Khi chồng phải ra chiến trận, một mình nàng ở nhà chăm lo cho mẹ già và đứa con nhỏ. Trước khi Trương Sinh đi lính, nàng ân cần dặn dò kỹ lưỡng, không mong cầu vinh hoa phú quý, chỉ mong chồng bình an, sớm về đoàn tụ với gia đình. Cứ vậy, Vũ Nương một lòng son sắc thuỷ chung đợi chồng trở về.

Biết chồng là người con hiếu thảo rất yêu mẹ mình nên Vũ Nương đã thay chồng chăm sóc mẹ già rất chu đáo. Khi bà lâm bệnh nặng, nàng không quản vất vả, thuốc thang ân cần. Đến khi nhắm mắt xuôi tay, mẹ Trương Sinh vẫn hết lời khen ngợi người dâu thảo. Như vậy mới biết, Vũ Nương đã hết lòng yêu thương, chăm sóc và lo toan cho nhà chồng như thế nào.

Chưa kể, một mình nàng đã chăm sóc rất tốt cho cậu con trai, luôn kể về người cha thân yêu với mong muốn cậu luôn nhớ đến cha mình. Hằng đêm, Vũ Nương còn chỉ lên tường nói chiếc bóng đen ấy chính là cha bé Đản. Điều này chứng tỏ trong lòng này lúc nào cũng thương nhớ người chồng nơi phương xa. Lúc nào cũng mong mỏi gia đình sớm đoàn tụ để con trai có được tình thương yêu của cả cha lẫn mẹ.

Khi bị người chồng nghi oan, nàng một mực giải thích, bảo vệ sự trong sạch, danh tiết của mình. Không còn cách nào khác, Vũ Nương đành lấy cái chết để chứng minh sự chung thuỷ. Một người phụ nữ cả đời hy sinh vì chồng, vì con nhưng cuối cùng lại nhận cái kết quá cay đắng. Ấy vậy mà khi Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng đã tha thứ cho mọi lỗi lầm mà chồng gây ra. Đây thực sự là người phụ nữ có tấm lòng bao dung, trở thành hình mẫu lý tưởng mà bao người mơ ước.

Vũ Nương mang vẻ đẹp và một phẩm chất vô cùng đáng quý của người phụ nữ thời phong kiến. Tuy nhiên, nàng lại chịu số phận thật đáng thương, không được trân trọng. Qua nhân vật này, Nguyễn Dữ đã tố cáo chế độ phong kiến trọng nam khinh nữ, bày tỏ sự cảm thông với số phận nữ nhi.

Mẫu 16 – Đưa ra nhận xét cá nhân về nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

Ở thời trung đại, văn học Việt Nam nổi bật với tác phẩm “Truyền kì mạn lục” của tác giả Nguyễn Dữ. Với thiên truyện thứ mười 16 có tên “Chuyện người con gái Nam Xương”, ông đã thành công khi xây dựng nhân vật Vũ Nương – người phụ nữ có nét đẹp toàn diện cả về sắc lẫn đức hạnh nhưng lại phải chịu nhiều oan trái. Câu chuyện như muốn nói lên nỗi niềm, sự đồng cảm của tác giả với thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

Vũ Nương được xây dựng hình ảnh là người con gái có nét đẹp dịu hiền, tính tình đoan trang, nết na. Tuy nhiên, nàng lại sinh ra trong gia đình không mấy khá giả. Còn Trương Sinh – chồng nàng là người có xuất thân giàu có nhưng học ít, suy nghĩ hồ đồ. Có lẽ chính vì sự khác biệt này đã gây nên những bi kịch đau thương cho cả một gia đình.

Vũ Nương gợi cho người đọc hình ảnh người phụ nữ tần tảo, son sắc, hết mực yêu chồng, thương con. Biết chồng có tình hay ghen, nàng luôn giữ mình, cư xử khôn khéo, phải phép với tất cả mọi người. Gia đình họ Trương lúc nào cũng êm ấm cũng nhờ một tay nàng vun vén, chăm lo.

Không chỉ là người vợ mẫu mực, thuỷ chung, Vũ Nương còn là người con dâu hiền, hiếu thảo. Khi chồng đi lính, nàng ở nhà hết mực chăm lo cho mẹ chồng, khi bà lâm bệnh nàng thuốc thang tận tình chu đáo. Rồi đến khi mẹ chồng nhắm mắt xuôi tay, Vũ Nương cũng thay chồng lo hậu sự, để tang bà rất cẩn thận. Trong mắt mẹ chồng, nàng thực sự là người con dâu tuyệt vời, không có điều gì phải chê trách.

Trong suốt những năm chồng đi lính, vì sợ con trai thiếu hơi cha sẽ thiệt thòi. buồn bã, Vũ Nương còn lấy cái bóng của mình để đóng giả làm cha bé Đản. Điều này có thể thấy, nàng luôn một lòng thương nhớ người chồng, mong ngóng từng ngày để gia đình được đoàn tụ. Đây chính là hình ảnh vô cùng đẹp, thể hiện đức hạnh của người phụ nữ son sắc thuỷ chung.

Ngoài ra, Nguyễn Dữ còn xây dựng hình ảnh Vũ Nương là người trọng danh dự, sống ơn nghĩa, biết trước biết sau. Khi bị chồng ngờ vực, vu oan, nàng vẫn một lòng giải thích mong chồng thấu hiểu. Nàng vô cùng đau khổ khi bị gán cái danh “thất tiết” – đây là tội lỗi tày đình của người phụ nữ phong kiến xưa. Để bảo vệ sự trong sạch, phẩm giá của mình, Vũ Nương không còn cách nào khác ngoài lựa chọn quyên sinh.

Có thể thấy, đây là hành động rất quyết liệt, một mực bảo vệ danh dự của mình, quyết không chịu sống trong oan tức, tủi hờn. Đến khi được giải oan, Vũ Nương đã không nghĩ đến hạnh phúc của mình mà quyết định ở lại thuỷ cung để đền ơn cứu mạng cho Linh Phi. Người con gái nhỏ bé ấy thực sự là người trọng tình, trọng nghĩa, một lối sống vô cùng đáng quý.

Hình tượng nhân vật Vũ Nương được tác giả xây dựng hội tụ đầy đủ phẩm chất công dung ngôn hạnh. Tuy nhiên, cuối cùng vẫn chịu số phận đầy oan trái, bất công. Qua nhân vật này, Nguyễn Dữ muốn phản ánh, tố cáo chế độ phong kiến xưa, thời đại trọng nam khinh nữ, tước đoạt đi quyền được mưu cầu hạnh phúc của những người phụ nữ.

Mẫu 17: Phân tích Vũ Nương – nhân vật chính trong Chuyện người con gái Nam Xương

“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm văn học đặc sắc ở thế kỉ XVI. Tập truyền thành công khi xây dựng hình ảnh nữ chính Vũ Nương – một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng chịu số phận đắng cay. Qua đây, tác giả muốn phản ánh, tố cáo sự bất công của xã hội phong kiến xưa đối với người phụ nữ.

Hình ảnh người con gái Nam Xương có sức ảnh hưởng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Vua Lê Thánh Tông đã từng rất xúc động, viết nên những câu thơ về nhân vật này trong bài thơ “Miếu vợ chàng Trương” như sau:

“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,

Miếu ai như miếu vợ chàng Trương…”​

Câu chuyện về Vũ Nương khiến người đọc không khỏi xót xa trước số phận bi thương. Để dữ danh tiết của mình, người phụ nữ ấy không còn cách nào khác đã phải dìm mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Tác phẩm đề cao chủ nghĩa nhân đạo, cho dù bị nghi oan, phải chết tức tưởi nhưng cuối cùng Vũ Nương vẫn tha thứ cho mọi lỗi lầm của người chồng đã gây ra.

Nguyễn Dữ đã xây dựng hình ảnh Vũ Nương là người con gái xinh đẹp, hiền dịu, nết na, sống biết trên biết dưới. Nàng là người sống chân thành, hết lòng vì chồng vì con, đối xử với mẹ chồng và gia đình chồng rất tốt. Mặc dù lấy phải Trương Sinh – một người ít học, hồ đồ, đa nghi, ghen tuông mù quáng nhưng Vũ Nương vẫn rất khéo léo, giúp gia đình lúc nào cũng ấm êm, hạnh phúc.

Khi biết tin chồng phải đi lính chiến đấu giặc ngoại xâm, những lời đưa tiễn chồng của Vũ Nương cho thấy nàng là người công – dung – ngôn – hạnh. Người con gái ấy chẳng mong chồng áo gấm cao sang trở về, chỉ cần chồng bình an, đoàn tụ bên gia đình là đủ. Trong suốt quãng thời gian Trương Sinh đi lính, Vũ Nương luôn một lòng chung thuỷ, giữ mình mong ngày được gặp lại người thương.

Tính cách cao đẹp của người phụ nữ ấy còn thể hiện bởi sự hiếu thảo với mẹ chồng. Biết Trương Sinh rất yêu thương mẹ nên Vũ Nương đã thay chồng chăm sóc mẹ già vô cùng chu đáo. Khi bà lâm bệnh nặng thì tận tình thuốc thang, đến lúc bà qua đời nàng lo hậu sự ma chay rất cẩn thận.

Thói đời xưa này, mẹ chồng nàng dâu thường rất khó dung hoà, nhất là trong gia đình phong kiến. Thế nhưng dù chỉ hai mẹ con sống với nhau nhưng nàng luôn yêu thương, chăm sóc mẹ chồng như mẹ đẻ. Đến khi nhắm mắt xuôi tay, mẹ chồng hết mức khen ngợi người con dâu hiếu thảo: “Xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ …”

Lòng chung thuỷ với chồng còn được thể hiện ở cách nàng chăm sóc, nuôi nấng đứa con trai khôn lớn suốt những tháng ngày chồng xa nhà. Vì không muốn con thiếu thốn tình cảm của cha, hàng đêm Vũ Nương chỉ vào cái bóng của mình trên tường, bảo bé Đản gọi là cha. Nhưng cũng chính vì điều này đã đẩy người phụ nữ đức hạnh vào cái chết oan trái.

Nỗi oan hàm, uất hận không được quyền nói, sự suy xét cho ra bởi người chồng độc đoán, đa nghi, lại ít học khiến Vũ Nương phải quyên sinh để bảo vệ danh tiết của mình. Bị chồng ghen tuông mù quáng, người phụ nữ ấy ra sức giải thích, bà con xóm làng cũng khuyên ngăn nhưng Trương Sinh không hề tin vợ. Hắn ta chì chiết, đánh đập vợ mỗi ngày, mối nghi ngờ ngày càng lún sâu không thể nào gỡ ra được. Không có cách nào để giãi bày nỗi oan ức, hạnh phúc gia đình tan vỡ, Vũ Nương đành lựa chọn cái chết để minh oan cho mình. Một người vợ hiền lành, đức hạnh, sống nghĩa tình chung thuỷ nhưng lại phải chết oan ức. Mãi sau khi vợ mất, Trương Sinh mới biết mình đã nghi oan cho người đầu ấp tay gối, khiến gia đình rơi vào cảnh âm dương cách biệt, chồng mất vợ, con mô côi mẹ.

Vũ Nương trong truyện là một nhân vật rất đẹp, đẹp người đẹp cả nết nhưng lại phải chịu nỗi oan ức tày trời. Cái chết đau đớn, bất công chỉ vì sự hiểu nhầm, từ một câu nói ngây thơ của đứa con đang bập bẹ nói khiến Trương Sinh nghi oan, đã làm mất đi một người vợ đức hạnh. Chính sự độc đoán của người đàn ông trong xã hội phong kiến đã đẩy người phụ nữ đến bước đường cùng. Đây cũng chính là vấn đề nhức nhối mà Nguyễn Dữ muốn phê phán, tố cáo thông qua tác phẩm văn học của mình.

Mẫu 18: Phân tích Vũ Nương – người phụ nữ đức hạnh nhưng chịu số phận oan trái trong Chuyện người con gái Nam Xương

Chuyện người con gái Nam Xương nằm trong tập truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ được viết bằng những áng văn xuôi trong thế kỉ 16. Đây là kiệt tác văn chương cổ, có yếu tố hoang đường, được lưu truyền trong dân gian về bi kịch của một gia đình. Nhân vân chính là Vũ Nương, được tác giả xây dựng với hình tượng người phụ nữ đức hạnh, đẹp người đẹp cả nết nhưng lại phải chịu số phận hẩm hiu, oan trái.

Vũ Nương từ đầu được giới thiệu là người con gái tính tình thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Nàng được xem là cô gái danh giá nên Trương Sinh – chàng trai con nhà hào phú đã đem lòng mến mộ, muốn hỏi cưới nàng về làm vợ. Khi về làm dâu nhà họ Trương, Vũ Nương làm tròn trách nhiệm của một người dâu thảo, vợ hiền, hết lòng vì gia đình chồng.

Trương Sinh được biết đến là người ít học, suy nghĩ hồ đồ, tính tình đa nghi, luôn ngờ vực cả người đầu ấp tay gối với mình. Biết tính chồng, Vũ Nương đã sống giữ mình, cư xử khéo léo, biết trên biết dưới nên gia đình lúc nào cũng hòa thuận, ấm êm. Trong thời loạn lạc, Trương Sinh phải đi chinh chiến ở biên ải xa xôi, người vợ tào khang ấy đã ra tiễn chồng, rét chén rượu đầy mong chồng hai chữ bình yên.

Trong những năm tháng xa chồng, nàng ngày đêm mong nhớ “… mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Đây cũng chính là tâm trạng chung của những người phụ nữ chịu cảnh cô đơn một mình trong thời loạn lạc.

Thể hiện tâm trạng ấy, tác giả Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nhân vật nữ chính, vừa ngợi ca tấm lòng thuỷ chung son sắc của nàng. Khi chồng đi lính được một tuần, Vũ Nương hạ sinh một cậu con trai kháu khỉnh, đặt tên là Đản. Một mình nàng vừa chăm con thơ, vừa tận tình phụng dưỡng mẹ già ốm yếu. Khi mẹ chồng qua đời, nàng thay chồng lo ma chay lễ nghĩa chu đáo, hàng xóm họ hàng không một ai trách cứ điều gì.

Qua đây, có thể thấy Vũ Nương hội tụ đầy đủ cả 3 đức tính tốt đẹp của người phụ nữ: Là đứa con dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang chung thuỷ và người mẹ hiền đức hạnh. Đây chính là hình ảnh lý tưởng của người con gái trong xã hội phong kiến xưa.

Sau hơn hai năm chinh chiến trở về, gia đình Trương Sinh hạnh phúc được đoàn tụ, sum vầy cùng nhau. Tuy nhiên, niềm vui chưa được bao lâu thì bi kịch xảy ra chỉ vì câu nói ngây thơ của đứa con lên ba. Chỉ vì không tin tưởng vợ, ghen tuông mù quáng mà Trương Sinh đã khiến người vợ tào khang phải chọn cái chết, gia đình lâm vào cảnh âm dương cách biệt.

Vũ Nương bị chồng nghi oan rằng có mối quan hệ bất chính với người đàn ông khác. Trong xã hội phong kiến xưa, đây là tội tày đình, không thể nào dung túng. Không có cách nào minh oan, cảm thấy bản thân bị sỉ nhục, danh dự bị bôi nhọ, Vũ Nương đã dìm mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Nàng lấy cái chết để bảo vệ danh tiết của mình, quyết không thể sống trong oan ức cả một đời.

Sau cái chết của vợ không lâu, Trương Sinh mới biết thì ra người đàn ông thường xuất hiện vào lúc đêm khuya theo lời con trai kể chính là chiếc bóng của vợ mình. Hắn ta vô cùng ân hận nhưng mọi chuyện đã quá muộn màng. Để vợ được siêu thoát, Trương Sinh lập đàn giải oan ba ngày ba đêm trên sông Hoàng Giang.

Tác giả khéo léo đưa vào truyện yếu tố hoang đường chính là việc Vũ Nương ngồi kiệu hoa trở về. Câu nói của nàng giữa dòng sông vọng vào: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” đã làm cho giá trị nhân văn được nâng cao. Mặc dù bị chết oan ức nhưng cuối cùng người phụ nữ ấy vẫn không hề oán trách người chồng tệ bạc của mình. Vũ Nương không chỉ là người đức hạnh mà còn có tấm lòng bao dung, nhân hậu.

Tác giả Nguyễn Dữ đã xây dựng rất thành công người con gái dung hạnh nhưng lại bạc mệnh. Mặc dù mang yếu tố hoang đường nhưng tác phẩm văn học Chuyện người con gái Nam Xương lại đề cao giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là một điểm hình cho người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh, thiệt thòi trong gia đình và xã hội phong kiến ngày xưa.

Mẫu 19: Nêu cảm nhận của em về Vũ Nương – người phụ nữ hồng nhan bạc phận trong Chuyện người con gái Nam Xương

“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những tác phẩm đặc sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc của nhà văn Nguyễn Dữ. Qua câu chuyện, tác giả đã xây dựng hình ảnh Vũ Nương – người con gái đức hạnh, dung mạo đoan trang nhưng phải chịu một cuộc đời hẩm hiu, oan trái. Đây cũng là số phận của nhiều người con gái khác trong xã hội phong kiến xưa vốn trọng nam khinh nữ.

Chỉ qua vài lời giới thiệu ngắn gọn, tác giả đã khắc hoạ cho người đọc thấy hình ảnh người phụ nữ mang nét đẹp truyền thống. Vũ Nương khiến đọc giả yêu mến ngay từ đầu câu chuyện nhờ sở hữu nhan sắc xinh đẹp, tính tình hiền dịu, nết na. Nàng là người vợ hiểu chuyện, sống một lòng vì chồng vì con, luôn cố gắng vun vén cho hạnh phúc gia đình.

Vì biết tính chồng là người đa nghi, ghen tuông mù quáng nên Vũ Nương luôn sống khép mình, cư xử phải phép với tất cả mọi người. Chính vì sự khéo léo, tinh tế của nàng mà cuộc sống gia đình lúc nào cũng ấm êm, hoà thuận. Để chồng yên tâm đi lính, người vợ ấy đã ân cần, dịu dàng dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…” Đối với Vũ Nương, nàng không cần quyền quý cao sang, chỉ mong chồng bình an trở về là đủ.

Trong suốt những năm chồng vắng nhà, Vũ Nương phải gánh vác trọng trách của một trụ cột trong gia đình. Nàng vừa phải chăm sóc, dạy dỗ đứa con thơ, vừa phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo. Khi bà đau ốm, nàng ân cần thuốc thang cứu chữa. Đến khi mẹ chồng qua đời, Vũ Nương một tay lo liệu ma chạy, lễ nghĩa đầy đủ, khiến bà con họ hàng đều phải ngợi ca. Trong suốt thời gian ở với mẹ chồng, nàng chưa một lần khiến bà phiền lòng phải trách móc điều gì. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, mẹ chồng còn dành những lời khen ngợi cho nàng: “Xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ …”

Khi làm mẹ, Vũ Nương là một người mẹ nhân hậu, hiền từ, luôn sợ đứa con trai thiếu thốn tình cảm của cha nên hết mực yêu thương, chăm sóc. Hàng đêm, nàng còn chỉ vào chiếc bóng của mình và nói là cha Đản để đứa trẻ không quên mình vẫn có cha.

Những tưởng một người phụ nữ đức hạnh, vẹn toàn sẽ được hạnh phúc sau khi gia đình đoàn tụ. Ấy vậy mà khi chồng trở về lại chính là những tháng ngày nàng sống trong tủi nhục, phải tìm đến cái chết để bảo vệ sự trong sạch của mình. Chỉ vì câu nói ngây thơ của đứa con nhỏ mà Trương Sinh không màng đúng sai, nổi cơn ghen tuông mù quáng, cho rằng vợ mình có mối quan hệ bất chính với người đàn ông khác. Mặc cho vợ giải thích, van xin, hắn ta vẫn đánh đập, mắng nhiếc, sỉ nhục nàng, còn đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà không thương tiếc.

Vì là người có lòng tự trọng cao, không chịu sống trong oan ức, tủi hờn nên Vũ Nương đã dìm mình xuống sông Hoàng Hà mà tự vẫn. Đến khi Trương Sinh biết được thực hư câu chuyện, thì ra người đàn ông bé Đản nhắc đến chính là cái bóng của vợ mình. Hắn ta vô cùng ân hận, day dứt nhưng giờ mọi chuyện đã quá muộn màng, người vợ tào khang, đức hạnh sẽ mãi không thể quay trở về được nữa.

Để lấy lại sự trong sạch cho vợ, Trương Sinh đã lập đàn giải oan ba ngày ba đêm trên sông Hoàng Giang. Có lẽ vì không thể siêu thoát nên Vũ Nương đã hiện về, giãi bày những oan ức mà mình phải chịu. Tiếng ai oán của người phụ nữ ấy nghe đau xót thấu tận trời xanh, ai chứng kiến cũng xót thương, rơi lệ.

Bị người chồng đối xử tệ bạc, dồn vào bước đường cùng nhưng Vũ Nương vẫn thể hiện tấm lòng vị tha, bao dung cho những lỗi lầm của chồng.  “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Lời nói của Vũ Nương khiến ai cũng phải đau xót, đến cuối cùng nàng vẫn yêu thương chồng con nhưng đã hết duyên nợ với hồng trần.

Nguyễn Dữ đã rất thành công khi xây dựng nhân vật Vũ Nương với nội tâm sâu sắc, được thể hiện qua nhiều hoàn cảnh khác nhau. Thông qua đó, ông muốn tố cáo, lên án xã hội phong kiến xưa với những bất công, oan trái mà người phụ nữ phải gánh chịu. Đặc biệt, yếu tố kì ảo ở cuối truyện như muốn khắc họa sâu đậm hình ảnh Vũ Nương trong lòng người đọc, là người năng tình nghĩa, coi trọng phẩm chất, có tấm lòng vị tha, bao dung.

Lời kết

Những mẫu bài phân tích nhân vật Vũ Nương trong chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ với cách đặt vấn đề và triển khai khác nhau sẽ giúp học sinh có nhiều lựa chọn. Tham khảo thêm bài soạn và kể lại chuyện dưới góc nhìn của nhiều nhân vật để có thêm hiểu biết về tác phẩm.

XEM THÊM:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *