Dàn ý, mẫu phân tích Qua đèo ngang (Văn 8) đầy đủ
Phân tích Qua đèo ngang giúp học sinh có thể cảm nhận được ý nghĩa độc đáo và phong cách nghệ thuật của bài thơ. Bà Huyện Thanh Quan đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên đẹp và nói lên nỗi nhớ thương quê nhà.
The POET Magazine là trang thơ, phân tích văn học, tổng hợp truyện dân gian, ca dao tục ngữ hay nhất. Trang đưa ra những bài mẫu tuyển tập từ học sinh giỏi và thầy cô để học sinh tham khảo cho dạng đề này.
Dàn ý phân tích bài thơ Qua đèo ngang
Mở bài: Giới thiệu tác giả Bà Huyện Thanh Quan và hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm.
Thân bài:
Kết cấu gồm 4 phần:
- Hai câu đề: Cảnh thiên nhiên đèo ngang
- Hai câu thực: Hình ảnh con người
- Hai câu luận: Tâm trạng của con người
- Hai câu kết: Tâm sự sâu kín của tác giả
Nội dung tác phẩm:
Bức tranh cảnh vật: Thời gian, không gian, cảnh vật.
Tâm trạng con người
Ý nghĩa và nghệ thuật
Kết bài: Khái quát nội dung và ý nghĩa, nêu lên cảm nhận bài thơ Qua đèo ngang của bạn.
Tuyển tập mẫu bài phân tích thơ Qua đèo ngang
Có rất nhiều phân tích bài thơ Qua đèo ngang hay và ý nghĩa, khai thác tốt vẻ đẹp của tác phẩm. Học sinh có thể tham khảo những bài văn mẫu lớp 8 Chân trời sáng tạo, phân tích các tác phẩm văn học lớp 8 Kết nối tri thức và tìm những mẫu đắt giá để ứng dụng trong quá trình khám phá tác phẩm.
Mẫu 1 – Phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan
Ngày nay, khi tới Đèo Ngang, mỗi chúng ta đều cảm nhận được hình bóng Bà Huyện Thanh Quan ngắn liền với bài thơ Qua đèo ngang nổi tiếng. Bài thơ được sáng tác vào những năm đầu thế kỉ XIX khi bà từ Thăng Long và Huế nhận chức cung trung giáo tập. Bài thơ sống mãi với thời gian, sống mãi trong tâm trí người Việt Nam qua bao thế hệ. Bài thơ là bức tranh toàn bích, sâu lắng tâm sự của người nghệ sĩ.
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Đèo Ngang là thắng cảnh của Tổ quốc, nằm giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Đây là địa điểm chứng kiến nhiều sự tích chống giặc ngoại xâm anh hùng của dân tộc ta. Bài thơ “Tức khẩu” đối cảnh sinh tình, miêu tả cảnh đẹp Đèo Ngang lúc chiều tà:
“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà”
Theo luật thơ Đường, câu thơ đầu là giới thiệu bao quát đối tượng được miêu tả (đặt vấn đề). Thời gian tới Đèo Ngang là buổi chiều tà sắp bước sang buổi hoàng hôn. Buổi chiều tà, với cảnh mây trời non nước nơi chốn hoang dã càng gợi lên nỗi buồn trống trải, thể hiện được tâm sự sâu kín của tác giả.
Cảnh vật ở đây được nhà thơ sắp xếp trong bảy chữ nhưng có sức khái quát cao và thật sinh động, gần gũi, cụ thể:
“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”
Cây cói mọc chen đá, lá thì chen hoa, hình ảnh đan chéo hài hòa gợi cho ta liên tưởng đến các hòn non bộ được nghệ nhân mô phỏng. Đây là bức tranh với vẻ đẹp mộc mạc, đơn sơ, rất tự nhiên, là sự sáng tạo của tạo hóa. Bức tranh ấy trở nên sinh động, trống vắng:
“Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.”
Trong cảnh tĩnh lặng của núi đồi, hoạt động của con người trở nên nhỏ bé trước cái hùng vĩ của thiên nhiên. Vài chú tiểu đi lấy củi, vài căn nhà thưa thớt bên sông. Đèo ngang có nhà, có sự sống, có con người nhưng sao vẫn thấy xa xôi, tiêu điều quá, tĩnh lặng quá, nhất là đứng ngang đèo nhìn xuống.
Với phép đảo ngữ gây ấn tượng mạnh, âm điệu thơ gợi sự tĩnh lặng sâu lắng, phù hợp với tâm trạng, tâm sự của nhà thơ:
“Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”
Hai câu thơ đối ý, đối lời, đối thanh rất chỉnh. Khi ta diễn xuôi thì ý thơ có sức khái quát rất cao: Nhớ thương nước nhà, hoặc là Nhớ nước thương nhà. Đó là tâm trạng của người xa nhà vào nơi chốn đô thị xa lạ, làm sao tránh khỏi nỗi buồn thương trống vắng. Bà Huyện Thanh Quan vẫn tự coi mình là người Bắc Hà nên khi vào Nam Hà (Đàng Trong), bà coi như đi khỏi nước mình, hoặc là đi khỏi quê hương mình vì yêu quê hương là yêu nước, điều đó khiến bà buồn và thương nhà, nhớ nước khôn nguôi.
Hai câu kết thể thơ Đường luật đóng lại ý tứ của toàn bài và nói lên cảm nghĩ của tác giả:
“Dừng chân đứng lại trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”
Tế Hanh, nhà thơ của một bài thơ nổi tiếng “Nhớ con sông quê hương” mà người Việt Nam bao thế hệ đều say mê đã nhận định khi đánh giá hai câu thơ ấy của Bà Huyện Thanh Quan: “vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra một chân trời cảm xúc nơi tâm hồn tác giả”.
Đúng vậy, trước cảnh đẹp hùng vĩ “trời, non, nước”, tác giả cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn và trống vắng, không một ai để giãi bày tâm sự: “Một mảnh tình riêng, ta với ta”. Tâm sự của tác giả là tâm trạng của người yêu nước thương dân, oán trách chế độ phong kiến với lũ quan lại bất tài hại dân.
“Qua đèo ngang” của bà Huyện Thanh Quan là một bài thơ hay, đẹp. Hay và đẹp ở bút pháp đặc sắc, mang nặng ý nghĩa giáo dục tình yêu quê hương đất nước thiết tha, yêu vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên. Nữ sĩ đã giúp cho tất cả người đọc bài thơ này biết phát hiện, bảo vệ vẻ đẹp của thiên nhiên Tổ quốc mình.
Mẫu 2 – Đặc sắc của bài thơ Qua đèo ngang (Bà Huyện Thanh Quan)
Thơ Nôm Đường luật trong văn học Việt Nam đã đạt đến một trình độ điêu luyện với những bài thơ nổi tiếng của hai nữ sĩ tài hoa Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Mỗi người, bằng những nét rất riêng đã in đậm dấu ấn của mình trong lòng người đọc. Bên cạnh cái mạnh mẽ, sắc sảo, đầy cá tính của nữ sĩ họ Hồ là Bà Huyện Thanh Quan với những điệu buồn trang nhã, nhẹ nhàng, man mác mà da diết thấm sâu. Với một số lượng ít ỏi các tác phẩm nhưng thơ của Bà Huyện lại lắng sâu, có sức ám ảnh, day dứt tâm can con người. Cùng với “Chiều hôm nhớ nhà”, “Thăng Long thành hoài cổ”, bài thơ Qua đèo ngang xứng đáng được xem như một tác phẩm cổ điển của văn học nước nhà.
Không gian chiều thường gợi buồn gợi nhớ. Chiều trong ca dao cũng thường trở đi trở lại với vẻ buồn, nó đồng điều và dễ khiến người ta dãi bày tâm sự, thổ lộ tâm tư:
– Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
– Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ cô yếm đỏ dải điều thắt lưng
– Chiều chiều ra đứng bờ ao
Trông cá, cá lội, trông sao, sao mờ
Thôi Hiệu, nhà thơ Trung Quốc, cũng đã từng buồn nhớ quê hương trong một chiều sông nước mịt mờ sương khói:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Qua đèo ngang có cảnh có tình, cảnh chiều tà hoang vắng và một nỗi buồn thầm lặng, cô đơn. Bà Huyện Thanh Quan dường như rất có duyên với những cảnh chiều:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
hay
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn
Và trong bài thơ này là một chiều Qua đèo ngang. Hai câu thơ đề mở ra cảnh chiều nơi đèo cao heo hút, hoang sơ:
“Bước tới Đèo ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”.
Dừng chân trên đèo khi bóng chiều đã xế, cảnh tượng cây cỏ um tùm gợi một thứ cảm giác ngao ngán, cái buồn đã bắt đầu xâm lấn và hồn. Điệp từ ở câu thứ hai cực tả cái hoang dại, rậm rạp choáng ngợp không gian trong một cái nhìn gần, Tiếp đến, hai câu thực, với cái nhìn ở tầm xa, từ bên trên mà quan sát, khung cảnh chợt khiến ta bâng khuâng, nao nao buồn:
“Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.”
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Khuôn mẫu của thể thơ này đòi hỏi hai liên giữa (hai câu liền nhau) phải đối: câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6. Chúng ta thấy một cặp đối ở hai câu thực: “Lom khom/ Lác đác, dưới núi / bên sông, tiều vài chú/chợ mấy nhà”. Nằm trong sự cân đối ấy, hai từ “vài” và “mấy” gợi vẻ thưa vắng, heo hút, buồn tẻ. Hai câu luận tiếp theo tác giả hé lộ nỗi niềm:
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia
Tiếng chim quốc quốc vẳng kêu nghe sao mà da diết, khắc khoải buồn thương. Chuyện kẻ rằng vua nước Thục sau khi nhường ngôi cho vị thể tưởng có tài trị thủy, lên ẩn cư tại núi Tây Sơn rồi qua đời, hồn biến thành chim đỗ quyên (chim quốc quốc), vào tháng hai cho đến cuối xuân đầu hè thường cất tiếng kêu ai oán như tiếng gọi hồn nước cũ. Hai câu thơ đối rất chỉnh: “Nhớ nước”/ “Thương nhà”, “đau lòng”/ “mỏi miệng”, “con quốc quốc”, “cái gia gia” (theo nghĩa Hán Việt thì quốc = nước, gia = nhà, tác giả đã kín đáo bộc lộ tâm sự trong câu thơ này). Đèo Ngang vốn là ranh giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Bà Huyện sinh ra vào thời Nguyễn, chồng bà làm quan thời Nguyễn nhưng vốn gốc người Thăng Long Bắc Hà nên lưu luyến triều xưa (nhà Lê) cũng là điều hiển nhiên. Các từ láy ở hai liên giữa giàu sức gợi hành, gợi thanh và tạo âm hưởng “lom khom”, “lác đác”, “quốc quốc”, “gia gia”. Hai câu kết:
“Dừng chân đứng lại trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”
Tả cảnh ngụ tình là thủ pháp hay được sử dụng trong thơ cổ. Bài thơ này cũng đã cho ta thấy một nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, điêu luyện. Cảnh gợi buồn “bóng xế tà”, “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” và có âm thanh nhưng chỉ càng thêm hoang vắng, khắc khoải, lòng người lại bâng khuâng hoài niệm. Nhưng phải đến những câu kết cái buồn xuyên suốt bài thơ mới bật ra thành tiếng cảm thán, mang nặng nỗi u hoài không có ai chia sẻ. Một mảnh tình mong manh, riêng chiếc giữa cảnh trời, non, nước bao la càng khiến người ta cảm nhận sâu sắc cái cô độc hiện hữu, thấm thía đến tận xương tủy. Nhịp điệu thơ miên man như chính nỗi buồn nhớ, nhưng cũng thật ngưng đọng, ngắt nhịp 4/1/1/1 ở cuối câu thứ bảy tự như một thoáng bồn chồn dừng chân.
“Ta” với “ta”, mình lại đối diện với chính mình, xúc cảm buồn đến đây đã mang một chiều sâu mới. Trong chiều muộn, giữa không gian mênh mông, chỉ mình ta hiểu ta, cảnh có buồn song không thể sẻ chia được nỗi niềm, cô đơn lại càng cô đơn, một sắc thái cô đơn mang đậm phong vị cổ điển.
Vẻ đẹp của đèo ngang là nét buồn trang nhã toát lên từ cảnh sắc thiên nhiên và của chính tâm hồn con người. Những cảm xúc đẹp đẽ mà chúng ta được thưởng thức chỉ có thể được nảy sinh từ một tâm hồn tao nhã với một tình yêu quê hương đất nước đậm sâu.
Xem thêm:
- Tuyển tập phân tích văn học lớp 8 hay nhất (đầy đủ dàn ý)
- Qua Đèo Ngang: Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác
- Hướng dẫn soạn văn 8 Qua Đèo Ngang, trả lời câu hỏi đầy đủ
Kết luận
Thông qua phân tích Qua đèo ngang, người đọc hiểu rõ Bà Huyện Thanh Quan đã khắc họa thành công hình ảnh thiên nhiên buổi chiều tà, thấp thoáng bóng người nhưng vẫn còn hoang sơ. Bức tranh phong cảnh đèo ngang hiu quạnh đã nói lên nỗi buồn và nhớ về quê nhà của tác giả.