5+ Mẫu phân tích truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao ngắn, chọn lọc

Phân tích tác phẩm Lão Hạc của tác giả Nam Cao với dàn ý chi tiết. Đồng thời, Thepoetmagazine đưa ra nhiều dạng đề bài phân tích cho học sinh tham khảo.

Dàn ý phân tích tác phẩm Lão Hạc

Mở bài: Giới thiệu tác giả Nam Cao và hoàn cảnh sáng tác Lão Hạc. Có thể đề cập khái quát về nội dung câu chuyện được in trong Văn 12 sách mới.

Thân bài: Chia làm ba phần chính bao gồm hoàn cảnh sống của lão Hạc, tính cách tốt đẹp  và nghệ thuật được sử dụng để miêu tả nhân vật.

  • Cuộc sống của lão Hạc: Nghèo khó, sống cô độc vì vợ mất sớm và con trai đi làm xa.
  • Tính cách lão Hạc: Người cha nhân hậu và có lòng tự trọng cao. Lão Hạc là nhân vật đại diện cho người nông dân Việt Nam.
  • Nghệ thuật được tác giả sử dụng: Ngôn ngữ gần gũi, miêu tả nhân vật qua hành động và suy nghĩ, tạo sự đồng cảm.

Kết bài: Khẳng định lại giá trị mà tác phẩm mang lại.

dàn ý phân tích tác phẩm lão hạc
Dàn ý chi tiết về tác phẩm Lão Hạc

Phân tích đánh giá tác phẩm Lão Hạc

Tổng hợp những bài văn mẫu phân tích truyện ngắn Lão Hạc. Bạn có thể tham khảo để biết cách phân tích tác phẩm này.

Phân tích truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao mẫu 1

Tác giả Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông là cây bút sáng giá chuyên viết văn học hiện thực thời kỳ trước cách mạng tháng Tám và được mệnh danh là bậc thầy của truyện ngắn tại Việt Nam.. Nam Cao viết nhiều vẻ đẹp của nông dân trong cái đói khổ, dù họ bị dồn ép đến đường cùng nhân nhân cách vẫn tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc là một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện cái nhìn nhân đạo ấy. 

Nhân vật chính trong câu chuyện là một lão nông dân nghèo tên lão Hạc. Mặc dù gặp nghèo khó là thế, nhưng lão vẫn giữ được cho mình bản chất lương thiện và lòng tự trọng đáng kính. Thông qua nhân vật này, tác giả Nam Cao muốn người đọc thấy rõ được tình cảnh khốn cùng và số phận đáng thương của nông dân Việt Nam trong chế độ phong kiến. Người kể truyện trong tác phẩm này là ông giáo, hàng xóm thân thiết với lão Hạc. Qua lời kể của ông, câu chuyện của lão Hạc trở nên gần gũi và chân thực hơn.

Tác giả Nam Cao có cách dẫn dắt độc đáo để đọc giả tưởng như đang sống trong câu chuyện, vui buồn với nhân vật. Từ đó, ta có thể cảm nhận được suy nghĩ và hành động của lão Hạc khi rơi vào hoàn cảnh bi thảm. Tác giả quả xứng danh với bậc thầy truyện ngắn khi dễ dàng kết hợp kể và tả, hiện tại và quá khứ giữa hiện thực và trữ tình để viết nên câu chuyện. Giọng văn được sử dụng linh hoạt, ở đó có hối hận, bất ngờ đến đồng cảm & cũng có những dằn vặt riêng tư của nhân vật. Tất cả đã đẩy cảm xúc của độc giả lên đến đỉnh điểm, để họ có sự thương cảm sâu sắc về thân phận con người tại thời điểm đó.

Tác giả vẽ nên gia cảnh của Lão Hạc không thể khổ hơn khi vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất lại phải bỏ vào Nam làm đồn điền cao su vì không có tiền lấy vợ, chẳng tin tức gì. Dù vậy nhưng lão vẫn dồn tất cả tình yêu thương cho con & sẵn sàng hy sinh để con được hạnh phúc.

Thương con, lão Hạc đau đớn vì không thể giúp còn hoàn thành tâm nguyện, ông dằn vặt hằng ngày rồi lại mòn mỏi chờ con về. Ngày ngày, ông quanh quẩn làm thuê để kiếm cái ăn, cái mặc nhưng vẫn nhất quyết giữ mảnh vườn và không động vào số tiền dành dụm cho con. Để rồi “sau một trận ốm nặng kéo dài, lão thấy người yếu đi ghê lắm“.  Dường như tình huống truyền dần lên đến đỉnh điểm khi tất cả số tiền lão tích cóp bấy lâu nay đã cạn kiệt. Khó khăn hơn khi trận bão lớn vừa qua đã phá sạch hoa màu trong vườn. Để rồi, tất cả sự bất hạnh đều ập đến, ông lão buộc phải ra quyết định, ông bán con chó Vàng thân thiết – kỷ vật con trai để lại, lão sang nhờ cậy ông Giáo.

Cách dẫn chuyện của ông Giáo từ từ, nhưng vẫn khiến người đọc cảm nhận được mạch cảm xúc của toàn truyện, của lão Hạc và của chính ông Giáo. Bởi mở đầu, Lão Hạc kể ngay cho ông chuyện đã bán cậu Vàng, con chó được ông gọi một cách trìu mến và cho ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Với lão, cậu Vàng là tri kỷ, là bạn tâm giao để nói chuyện, để tâm sự thì thầm to nhỏ khi nhớ con trai. Chính vì quá gắn bó nên trước đó, Lão Hạc đã mấy lần định bán cậu nhưng rồi lại không bán nổi. Cuối cùng, cái nghèo vẫn khiến lão phải chạm đến giới hạn cuối cùng. Bởi bây giờ cơm còn không có mà ăn, lấy gì nuôi Cậu Vàng. Số tiền ít ảo Lão để được cho con trai từ bán hoa lợi Lão cũng không muốn động vào bởi trước đó Lão cũng đã dùng quá nhiều vì đau ốm. Thế rồi Lão vẫn ra quyết định bán cậu trong sự dằn vặt ít ai có thể hiểu nổi. 

Ông Giáo kể lại, lời của Lão Hạc chứa đầy sự xúc động và xót xa khi kể về cảnh bán cậu Vàng. Trong thâm tâm ông hiểu rõ, Lão Hạc đã đau khổ, dằn vặt, tự trách mình như thế nào, vì lão cảm thấy mình có lỗi với con chó “già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Cả đời, ông lão nhân hậu này nào đã nỡ lừa ai!”. Qua lời ông Giáo, thái độ và cử chỉ của lão Hạc lại càng đáng thương hơn. “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…” Cứ như vậy, nỗi khổ tâm của ông lão già, nghèo khó lại hiện lên chồng chất, chỉ vì chữ nghèo mà phải  cư xử không đàng hoàng với con chó mà mình hết mực chăm sóc.

Chính qua lời kể của ông Giáo lại khiến ta lần nữa hiểu hơn về tấm lòng của Lão Hạc, rằng ông là một người đôn hậu và chất phác. Cả cuộc đời mình sống quanh quẩn bên lũy tre nên những tính toán của ông thật đơn giản.Lão cũng tìm đến ông Giáo để chia sẻ tâm sự và quan trọng hơn là tìm một chỗ dựa tinh thần. “Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẻ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể rút vào hai việc. Việc thứ nhất: lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở cái làng này. Tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão, lão viết văn tự nhượng lại cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi nào con lão về thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thế để tôi trông coi cho nó… Việc thứ hai: lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào, con không có nhà, lỡ chết không ai đứng ra lo cho được; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt; lão còn được hăm nhăm đổng bạc với năm đồng bạc vừa bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi, để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả…” Lời tâm sự của ông khiến không ai không xót thương, khâm phục. Có thể thấy, Lão là người cha dù chịu hoàn cảnh khó khăn những cũng vẫn muốn dồn hết tất cả cho con cái, dành cho con tình yêu lớn lao nhất, cho đứa con duy nhất của đời mình. Đồng thời, lão cũng chẳng muốn liên lụy tới ai bởi ngoài mảnh vườn để lại cho con, Lão vẫn gửi ông Giáo ba mươi đồng nhờ hỗ trợ chuyện chôn cất, là người có lòng tự trọng, có phẩm giá, là một người nông dân với phẩm chất tốt đẹp, bị xã hội chà đạp mà bước đến đường cùng. 

Chính Lão cũng hiểu được rằng, số tiền ba mươi đồng bạc có thể giúp Lão sống lay lắm thêm một thời gian nhưng cũng chỉ có thể. Vì vậy, thà rằng Lão chọn cái chết để bảo toàn tài sản còn lại cho con trai. Lựa chọn này xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà sâu nặng, cũng là  lòng tự trọng đáng kính của ông lão. Cách nói chuyện của Lão hạc với ông Giáo cũng rất lễ phép và cung kính, có phần hơi quá mức: “Đã đành rằng thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?… Tôi cắn rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo! Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi”. Rõ ràng, Lão Hạc đã bày tỏ thái độ kính trọng với người hiểu biết hơn mình, nhờ cậy giúp đỡ. 

Lời kể của ông Giáo cũng giúp ta hiểu, lão Hạc không phải kiểu người đói ăn vụng, túng làm càn mà luôn giữ nếp sống trong sạch. “Luôn mấy hôm tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thỉnh thoảng một vài củ rảy hay bữa trai, bữa ốc”.  Khi ông Giáo kể cho vợ nghe tình cảnh của lão Hạc thì bà gạt phắt đi “cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm khổ lão chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói”. Cũng khó trách phản ứng của vợ ông Giáo bởi ai cũng thiếu thốn trăm bề, ông cũng chỉ đành ngậm ngùi “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương”.

Đây là sự xót xa, chân thành của tác giả Nam Cao trước sự bất lực, trước số phận của người nông dân nghèo. Chủ đề này được bàn luận rất nhiều trong các tác phẩm của ông. Rằng con người chỉ thực sự là con người khi có được sự thấu hiểu, đầng cảm,, trân trọng, biết nâng niu những điều đáng thương, đáng quý ở người khác.

Cái chết của lão Hạc chứa đầy sự bi thảm nhưng cũng là biểu hiện của sự hi sinh, tình phụ tử. Vì nghĩ cho con, giữ tài sản cho con thoát khỏi cảnh đói khổ mà Lão phải chọn con đường bi kịch nhất. Cái chết lão Hạc chọn cũng là cái chết đầy đau đớn, lão muốn giải phóng bản thân khỏi cảnh túng quẫn và bế tắc. Đây là chi tiết đắt giá, phản ánh số phận cùng cực của người nông dân nghèo trong xã hội đầy áp bức bất công. Lão Hạc đã chuẩn bị con đường này ngay khi bán cậu Vàng bởi chính ông Giáo cũng nghe Binh Tư kể lại rằng lão Hạc xin bả chó. Khi nghe tin ấy, đến ông cũng phải ngạc nhiên vì tưởng nhầm lão Hạc muốn theo Binh Tư đến với con đườn  làm ăn gian dối. “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn.”

Đây là tình tiết được tác giả xây dựng nhằm đánh lạc hướng người đọc và gây bất ngờ. Mục tiêu để mọi người và ông Giáo mất đi ý nghĩ tốt đẹp về con người của lão Hạc, vì khi đến đường cùng, con người hoàn toàn có thể đánh mất đi thiện tính ban đầu mà dần tha hóa, buộc mình phải làm liều. Để ở thời điểm đó, ai cũng cho rằng một người giàu lòng tự trọng tấm lòng nhân hậu đến vậy mà nay cũng biến chất vì miếng ăn. Câu nói đầy mỉa mai của Binh Tư cho ta thấy góc nhìn của dân làng trước khi cái chết của Lão Hạc đến: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu.”  Câu nói vu vơ nhưng đã đẩy tình huống truyện lên cao trào, nhất là ở câu văn “chứng kiến cái chết vật vã đau đớn vì ăn bả chó của lão Hạc; mọi nghi ngờ trong lòng ông giáo tan biến: Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác.”

Chưa hẳn đáng buồn vì lão Hạc vẫn còn trong sạch nhưng lại thật buồn vì một người lương thiện, nhân cách cao đẹp lại phải tìm đến cái chết vì cái nghèo, vì xã hội mục nát. Một ông lão đáng thương, đáng kính phải chịu cái chết đầy bi thảm, người đọc không hiểu nhưng có lẽ cũng dần nắm được tâm lý nhân vật, về lý do lão Hạc quyết định quyên sinh theo cách đau đớn nhất. Bởi ông cảm thấy tội lỗi, cả đời lão Hạc chưa lừa một ai nhưng lại dối bạn tâm giao của mình là cậu Vàng, một sinh mệnh vô tội. Lựa chọn này của ông là cách trừng phạt bản thân, ông cho rằng mình cũng mang tội và phải nhận cái chết như một con chó.

Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư là hiểu.” Cái chết dữ dội, ám ảnh nhưng cũng chứa đựng sự thương cảm của tác giả cho nhân vật của mình, trong đó cũng là hình ảnh ấn tượng mạnh mẽ, khó quên với người đọc.

Nhà văn Nam Cao thành công xây dựng nhân vật để bạn đọc hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì cái đói nghèo nhưng đối lập là  nhân cách, tâm hồn lương thiện của người nông dân. Từ cách viết, cách kể, nhà văn cho thấy thái độ xót thương vô hạn của ông với những hoàn cảnh éo le do chính xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám đã tạo ra. 

Phân tích tác phẩm Lão Hạc ngắn nhất mẫu 2

Nam Cao là tác giả truyện ngắn xuất sắc chuyên viết về hiện thực giai đoạn trước cách mạng. Các tác phẩm của ông thường gắn liền với hình ảnh người nông dân đói khổ và từ đó ông xây dựng tình tiết truyện nâng cao phẩm chất tốt đẹp của họ, để họ tỏa sáng. Lão Hạc là một trong những tác phẩm như vậy, bởi dù đói nghèo, bất hạnh nhưng phẩm chất đáng quý của lão vẫn còn nguyên vẹn và đáng trân trọng.  

Toàn bộ câu chuyện được kể với ngôi thứ nhất qua lời văn của ông Giáo – người hàng xóm thân thiết của lão Hạc. Cách kể gần gũi giúp câu chuyện trở nên sinh động và chân thực, cũng giúp ta cảm nhận được đánh giá của người kể về nhân vật chính. Qua lời văn của ông Giáo, ta hiểu được hoàn cảnh Lão Hạc thật đáng thương khi vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất lại bỏ đi vì không có tiền cưới vợ chưa thấy ngày về, chưa có tin tức. Có lẽ người bạn chân thành nhất đối với ông chính là cậu Vàng – thứ mà con trai ông để lại, để ông tâm sự, để ông trò chuyện mỗi ngày. Có thể nói, cậu Vàng như người bạn tri kỉ với lão.  Nhưng cảnh đói kém ập đến, phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí khi lão Hạc ốm nặng phải dùng gần như cạn số tiền tích cóp bấy lâu. Nhưng mảnh vườn là tài sản cuối cùng của Lão, Lão cũng không muốn bán mà để dành cho con trai trở về. Để rồi lão phải ra quyết định bán Cậu Vàng (dù trước đó đã nhiều lần định bán nhưng rồi lại thôi). Quyết định này của lão dựa trên tâm lý không muốn phạm vào tiền của con trai, vì nếu nuôi thêm chó, lão sẽ phải phạm thêm vào số tiền ấy.  

Cảnh bán cậu Vàng được tác giả mô tả thật xót xa, chính lão thừa nhận “cả đời chưa lừa một ai” vậy mà bây giờ phải lừa một con chó để rồi phải dằn vặt mỗi ngày. Ông Giáo kể lại “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…” Ông Giáo thấu hiểu nỗi đau của lão Hạc, có lẽ vì vậy mà ông tìm đến người hàng xóm để giãi bày nỗi lòng. Đồng thời, ông Giáo cũng là người mà lão rất tin tưởng, gửi gắm trông coi mảnh vườn của con trai, rồi lại nhờ gửi tiền để lo ma chay nếu chẳng may mình qua đời, nhưng thực tế, lúc đó lão đã có quyết định cho số phận của mình. Dường như mọi thứ đã được Lão sắp xếp ổn thỏa, để con trai không phải sống cảnh túng thiếu khi trở về, cũng để chính ông nếu chết cũng không phiền hà xóm giềng quyên góp ma chay, đây là lòng tự trọng cuối cùng của một người cha già, một người nông dân nghèo không muốn ảnh hưởng đến ai. Tất cả lời gửi gắm này chính là dự báo cho hành động kinh hoàng sắp tới. 

Ông Giáo chứng kiến cảnh sống và sinh hoạt của lão sau ngày bán cậu Vàng mà phải xót thương. “Lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc.” Dù vẫn còn tiền, nhưng chính lão lại không muốn ảnh hưởng đến tiền của con trai là sự hi sinh thầm lặng của người làm cha.

Nhưng dù bế tắc và có cuộc đời bi thảm, lão vẫn đói cho sạch, rách cho thơm, sống một cuộc đời trong sạch thay vì tha hóa vì miếng cơm, vì đồng tiền. Lão sang nhà Binh Tư xin bả chó và nói dối là để hại con chó hàng xóm cứ đến vườn lão phá. Ông Giáo khi nghe tin này đã rất sốc và đau lòng bởi ông cho rằng con người lương thiện ấy cũng đã thay đổi vì miếng cơm. Không chỉ riêng người kể, chính những người trong làng nghe tin cũng không khỏi bất ngờ vì một người từng yêu chó như sinh mạng nay phải bán chó rồi lại định lấy bả đặt bẫy một con chó khác, ai cũng nghĩ rằng lão “rồi sẽ sa chân vào con đường tội lỗi”. Đây là tình tiết được Nam Cao đan cài tạo nên sự bất ngờ cho những nhân vật trong truyện và cũng là người đọc, bởi sự tha hóa khi hoàn cảnh éo le là có thể xảy ra. Nhưng khi chứng kiến cái chết của Lão Hạc, suy nghĩ của mọi người đảo lộn “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên… Cái chết thật là dữ dội.”.  Chứng kiến cái chết ấy, mọi hiểu lầm của ông Giáo, Binh Tư hay bà con lối xóm được hóa giải và có lẽ chỉ 2 người mới hiểu lý do ông lão chọn cái chết bi thảm, đau đớn đến vậy. Đứng trước cái nghèo khó, lại không muốn dùng đến tiền của con, Lão Hạc buộc lòng chọn cái chết, nhưng ông cho rằng mình mang tội khi lừa dối cậu Vàng. Vậy nên lão chọn quyên sinh theo cách đau đớn tột cùng, khiến ai cũng phải bất ngờ và cũng thật ám ảnh.

Truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao đã cho chúng ta hình dung cuộc sống bế tắc của người nông dân thời kỳ ấy có thể dẫn đến kết cục đau thương ra sao. Dù vậy, họ vẫn giữ cho mình tâm hồn trong sạch, không bị tha hóa biến chất. Đồng thời, toàn câu chuyện là lời nhắc nhở mỗi người cần biết quan tâm và giúp đỡ những số phận éo le để không dẫn đến kết cục tương tự.

phân tích tác phẩm lão hạc
Tổng hợp văn mẫu phân tích tác phẩm Lão Hạc

Viết bài văn phân tích tác phẩm Lão Hạc mẫu 3

Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc nhất của văn học Việt Nam giai đoạn trước cách mạng. Các tác phẩm của ông luôn dựa trên hai đề tài lớn là người trí thức và người nông dân. Tuy nhiên, thành công hơn cả là khi ông viết về đề tài người nông dân, nhà văn phát hiện được vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất cao quý ẩn sâu trong con người họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một trong số những tác phẩm như vậy.

Trước hết về nhân vật lão Hạc, lão là một nông dân có số phận bi thảm nhưng ẩn sau đó là những phẩm chất cao đẹp, đại diện cho người nông dân. Số phận lão Hạc cũng là số phận chung của biết bao người nông dân thấp bé giai đoạn trước cách mạng. Vợ lão chết sớm, lão ở vậy một mình nuôi con. Những khi đứa con lớn lên vì không lấy được người mình yêu nên phẫn chí bỏ nhà đi đồn điền cao su. Từ đó, lão ở vậy một mình với cậu Vàng – là con chó kỷ vật người con trai để lại. Nhưng cuộc đời lão càng ngày lại càng bi thảm hơn. Lão bị ốm nặng nên đã tiêu tốn nhiều tiền dành dụm cho con. Bởi không muốn tiếp tục động vào số tiền ấy nên lão đành bán con chó Vàng – người bạn đã ở bên giúp lão vơi bớt nỗi buồn khi phải xa con. Khi bán cậu Vàng lão dằn vặt và ân hận vô cùng. Nỗi day dứt đó được thể hiện qua hành động miêu tả đặc sắc: cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước, mặt đột nhiên co rúm lại, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít, hu hu khóc. Tình cảnh của lão thật đáng thương, lão luôn sống trong sự day dứt và trách tội bản thân.

Qua đó ta có thể thấy những phẩm chất cao đẹp của lão Hạc, lão là đại diện người nông dân lương thiện. Lão là một người giàu tình yêu thương, tình yêu thương đó không chỉ được thể hiện đối với con cái mà còn đối với cả với con vật: Lão gọi con chó là cậu Vàng, gọi nịnh như gọi một đứa trẻ. Lão chăm sóc cậu Vàng chu đáo khi cho ăn cơm trong chiếc bát lành lặn. Không chỉ vậy, lão  còn thường xuyên trò chuyện, mắng yêu cậu Vàng. Nhờ vậy, lão cảm thấy bớt cô đơn và vơi đi nỗi nhớ con. 

Không chỉ vậy, tình phụ tử yêu thương con của lão Hạc cũng vô cùng sâu sắc và thiêng liêng. Vì cảnh nghèo không cưới được vợ cho con, khiến lão vô cùng đau đớn. Do đó, lão luôn dành dụm tất cả số tiền làm cho con. Lão chấp nhận chịu khổ, mặc để người đời chửi mắng chứ nhất định không tiêu xài vào tiền của con. Sau khi lâm bệnh nặng, lão chỉ ăn khoai, hết khoai lão ăn củ chuối, rồi ăn sung luộc, rau má, củ ráy, vớ được thứ gì lão ăn thứ ấy. Và cuối cùng, lão lo lắng mình sẽ tiêu hết tiền cho con nên lão đành chọn cái chết để bảo toàn tài sản cho con trai mình. Cái chết đau đớn của lão Hạc như một cách giải thoát khỏi số phận bi thương mà lão đang phải chịu. Cái chết ấy còn xuất phát từ lòng thương con to lớn.

Mặc dù nghèo khổ nhưng lão luôn giữ tấm lòng trong sạch và lòng tự trọng đáng kính. Lão không muốn nhận bất cứ sự giúp đỡ của ai vì sợ làm phiền tới hàng xóm. Ngay cả khi ông giáo – người bạn thân thiết đề nghị giúp, lão từ chối, bởi lão hiểu hoàn cảnh gia đình ông giáo cũng nghèo túng chẳng khác gì mình. Lòng tự trọng đó còn được thể hiện qua việc lão để lại tiền nhờ ông giáo lo ma chay, vì không muốn phiền hà đến hàng xóm. Lão chết bằng cách ăn bả chó, một cái chết dữ dội và đầy đau đớn. Lão chọn cái chết để tâm hồn được trong sạch, và như một lời tạ tội sâu sắc với cậu Vàng. Cái chết của lão Hạc chính là sự khẳng định cho sức sống bất diệt của nhân cách trong ông.

Ngoài nhân vật lão Hạc trong tác phẩm ta còn thấy nổi bật lên hình ảnh của một ông giáo nghèo, người bạn thân thiết của lão Hạc và là người kể chuyện. Ông giáo có sự đồng cảm với cảnh ngộ đáng thương của lão Hạc khi thường xuyên đến an ủi, động viên và chia sẻ nỗi buồn với lão Hạc. Không chỉ vậy, ông luôn tìm mọi cách làm cho lão khuây khỏa. Ông còn là người am hiểu tường tận vẻ đẹp nhân cách và tâm hồn của lão Hạc: “Không cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Nghĩa khác ấy có thể hiểu rằng con người có nhân cách cao đẹp nhưng lại phải chết vật vã và cái chết ấy lại càng làm sáng hơn nhân cách cao đẹp của lão.

Tác giả sử dụng nghệ thuật kể chuyện xuất sắc khi câu chuyện được kể bởi nhân vật tôi (ông giáo) người luôn bên cạnh lão Hạc. Bởi vậy khiến câu chuyện trở nên chân thực, gần gũi, ngoài ra khiến mạch kể trở nên tự nhiên, linh hoạt, tạo điều kiện kết hợp tả, kể với bình luận một cách tự nhiên, sinh động. Giọng văn đa dạng và được thay đổi linh hoạt trong từng tình huống truyện. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ với những bước ngoặt giúp bộc lộ rõ tính cách, phẩm chất cao quý của nhân vật chính. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn của văn bản khi Nam Cao khắc họa hình tượng nhân vật qua diện mạo, ngôn ngữ đối thoại, diễn biến tâm trạng và qua lời nhận xét, bình luận của các nhân vật khá. Nhờ đó, chân dung nhân vật hiện lên chân thực và sinh động hơn.

Với các kể chuyện đặc sắc kết hợp ngôn ngữ giản dị, tình huống truyện chứa đựng nhiều bất ngờ, Nam Cao đã vẽ nên chân dụng số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng. Họ không có tiếng nói, luôn bị đẩy đến đường cùng và cuối cùng phải tìm đến cái chết để giải thoát nếu không muốn bị tha hóa hoặc ảnh hưởng đến người khác. Ẩn sau trong đó là tinh thần đáng quý, sự lương thiện và lòng tự trong cao cả đối lập hoàn toàn với số phận hẩm hiu mà họ phải đối diện.

Bài văn phân tích tác phẩm Lão Hạc mẫu 4

Nhà văn Nam Cao là một trong những cây bút tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực những năm đầu thế kỷ XX. Tác phẩm của ông thường viết về người nông dân có số phận nghèo khổ nhưng lại có tấm lòng thanh cao. Một trong những tác phẩm tiêu biểu là truyện ngắn Lão Hạc.

Lão Hạc là một người nông dân bất hạnh khi vợ mất sớm, người con trai duy nhất “bỏ đi bằn bặt”. Gia tài của lão chỉ vọn vẹn có ba sào vườn và con chó Vàng bầu bạn. Sau trận ốm nặng lại gặp bão lớn, lão không còn đủ sức để đi làm thuê nên lão đành phải bán cậu Vàng. Dù không muốn nhưng chỉ có bán con chó thì lão mới có thể giữ lại mảnh vườn cho con trai. Sau đó, lão đến xin Binh Tư ít bả chó. Việc này khiến ông giáo hiểu lầm lão đã bị cái nghèo đói tha hóa làm chuyện xấu. Cho đến khi ông chứng kiến “lão Hạc đang vật vã ở trên giường, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái” mới khiến ông giáo hiểu lão Hạc đã phải trải qua những gì. Lão Hạc chọn cho mình một cái chết đau đớn như để chứng minh tâm hồn mình trong sạch và cũng để đền đáp vì đã bán đi con chó Vàng tội nghiệp. Lòng tự trọng của lão trở nên rực rỡ nhất ngay cả khi thân xác của lão đang kiệt quệ và đau đớn.

Hình tượng lão Hạc được nhà văn Nam Cao xây dựng với những phẩm chất tốt đẹp. Tuy là một người nông dân nghèo khổ nhưng lão thật thà và hiền lành. Lão yêu thương người con trai vô bờ. Vì thương con, lão chấp nhận sống một mình và thậm chí sẵn sàng đánh đổi mạng sống để con được sung túc hơn. Lão day dứt khôn nguôi khi phải bán cậu Vàng – kỷ vật con trai để lại. “Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít”. Cậu Vàng đối với lão Hạc như tri kỷ, là chỗ dựa tinh thần của lão. Ấy vậy mà, vì cái nghèo, cái đói đeo bám mà lão đành phải bán đi người bạn thân thiết này. Sự dằn vặt và hy sinh vì người thân yêu cho ta thấy vẻ đẹp trong nhân cách của lão Hạc.

Tác giả Nam Cao đã rất tài tình khi sử dụng nghệ thuật kể chuyện theo ngôi thứ nhất, theo lời kể của ông giáo. Cùng với đó là sử dụng từ ngữ giao tiếp gần gũi giúp câu chuyện trở nên chân thực và đến gần hơn với người đọc. Không chỉ vậy, với giọng văn đa dạng và những tình huống bất ngờ cũng làm nổi bật lên phẩm giá cao quý của nhân vật chính. Ngoài ra, tác còn biết cách khắc họa nhân vật qua từng cử chỉ, diện mạo và diễn biến tâm lý trong từng tình huống khác nhau giúp cho nhân vật trở nên sinh động hơn. Từ những yếu tố nghệ thuật trên, nhà văn đã thành công khi khắc họa một câu chuyện mang lại dấu ấn khó quên trong lòng độc giả.

Trong xã hội ngày nay, con người dễ trở nên tha hóa khi lâm vào cảnh đường cùng. Nhưng lão Hạc không làm vậy, dù trong cảnh túng quẫn và tối tăm, ông hiện lên là một người có phẩm chất tốt đẹp. Có thể thấy rằng, lão Hạc càng gặp khó khăn, càng cho thấy ông là một lão nông thanh cao và trong sạch. Lão Hạc trong những câu văn của Nam Cao là đại diện cho hình tượng người nông dân Việt Nam kiên cường và tốt bụng. Tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật đối lập giữa cái nghèo và phẩm chất cao quý khiến người đọc dễ dàng đồng cảm với nhân vật.

Có thể nói rằng, nhà văn Nam Cao đã thành công khi khắc họa chân thực hình tượng chân chất của người nông dân Việt Nam trong giai đoạn trước cách mạng. Qua đó, thể hiện tấm lòng cảm thương của tác giả dành cho tầng lớp thấp bé nhất trong xã hội.

Phân tích truyện Lão Hạc ngắn gọn mẫu 5

Lão Hạc là một trong những truyện ngắn phê phán hiện thực xã hội hay nhất của Nam Cao. Tác giả đã khai thác sâu sắc nỗi khổ của người nông dân rồi từ đó, hiểu rõ bản chất cao đẹp trong tâm hồn của họ, nhân vật Lão Hạc trong truyện chính là một người như vậy.

Lão Hạc lại là người biết nhìn xuyên qua cái vỏ vật chất những giá trị tinh thần nặng trĩu: “Trước khi đi nó còn cho tôi 3 đồng bạc, ông Giáo ạ! Chả biết nó gửi thẻ xong vay trước được mấy đồng mà đưa về cho tôi 3 đồng. Nó đưa cho tôi 3 đồng và bảo: Con biếu thầy 3 đồng để thỉnh thoảng thầy ăn quà”… trong câu nói lặp đi lặp lại bốn lần cụm từ 3 đồng. Ba đồng bạc nhẹ tênh trong lòng bàn tay run rẩy của lão Hạc nhưng đè nặng lên trái tim già nua của ông một niềm đau đớn tủi hổ: 3 đồng bạc bán mình của con, lẽ nào ông lại ăn tiêu trên sinh mạng của nó?

Với con chó Vàng bị bán: “Thì ra tôi già bằng tuổi đầu này rồi mà còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó”. Chao ôi, phải chăng cuộc đời này, ta thường xuyên có những niềm ăn năn như vay?

Nhưng lạ lùng hơn hết, là Lão Hạc luôn luôn tự xóa mình, lão xóa mình đi trong tương quan chồng vợ, cha con: mảnh vườn thì do vợ tậu, con chó thì của con mua. Lão không cho mình sở hữu một cái gì cả, và sự xóa mình có ý thức ấy là một đặc điểm quan trọng nhất quan trong tính cách của lão Hạc để dẫn đến sự lựa chọn cuối cùng của đời lão. Một đức hi sinh lớn lao trong từng nếp nghĩ đã thành lẽ sống ở đời. Nó còn hơn cả lòng tự trọng và sĩ khí. Nó là sự quên mình cho một cái gì khác.

Vậy, cái gì khác là gì mà Nam Cao muốn gửi gắm trong bộ truyện đầy bi kịch này? Phải chăng là đứa con trai bất hạnh, núm ruột duy nhất của lão để biền biể ở phương trời xa lạ? Đúng thế, bởi ta đọc thấy trong truyện một đứa con ngoan không hề đòi hỏi và tình cảm của một người cha kín đáo, mà sâu sắc, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc gầy dựng cho con, nhẩm tính từng đồng xu, nhịn ăn và cuối cùng chọn cái chết, cũng để giữ lại cho con một di sản trọn vẹn.

Nhưng ta còn thấy lão Hạc luôn canh cánh một nỗi lo về mảnh vườn: “Ai lại bán vườn đi mà lấy vợ”. “Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?”, “Nếu không có người trông nom cho thì khó giữ được vườn đất để làm ăn ở làng này”. Và lão suy sụp hẳn sau cái chết của con chó Vàng. Kể từ giây phút ấy, ông lão đã chọn sẵn cho mình một lối thoát. Thế thì mảnh vườn và con chó không chỉ thuần túy là những giá trị vật chất. Chúng đóng vai trò to lớn trong cuộc đời lão Hạc, bởi chúng gắn liền với trái tim cô đơn của lão. Nhưng còn vì chúng là di vật của người vợ đã khuất và đứa con xa. Đặc biệt từ trong vô thức của lão, mảnh vườn đã trở thành một biểu tượng thiên liêng: là biểu tượng của sự ủy thác, là dấu vết của cội nguồn, là hi vọng về sự kế thừa tốt đẹp ở tương lai.

Thế thì lẽ nào phản bội sự ủy thác, lẽ nào dứt bỏ cội nguồn, lẽ nào tự xóa đi niềm hi vọng? Lão Hạc đã chọn trung thành với tính cách của mình, như chúng ta đã thấy. Lão Hạc đã xóa mình ra khỏi mảnh vườn để nó được tồn tại mà trao truyền trọn vẹn: lão xóa mình khỏi đời sống của đứa con để cho nó niềm hi vọng gắn bó với cội nguồn, lão xóa mình ra khỏi cõi thế phiền trược này để giữ gìn lẽ sống của mình.

Lão Hạc là bộ truyện mang nhiều ý nghĩa, đồng thời, thể hiện sự thương cảm của Nam Cao đối với nhân vật của mình. Sự lựa chọn cuối cùng của lão là bi kịch nhưng cũng là lời cảnh tỉnh với mỗi chúng ta về sự quan tâm đến người khác, là sự thấu hiểu và trân trọng tâm hồn cao đẹp của lão.

Phân tích bài Lão Hạc với nhiều dạng đề khác nhau

Truyện ngắn Lão Hạc là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Do đó, không chỉ có những dạng đề phân tích tác phẩm, truyện ngắn còn có nhiều dạng đề phân tích khác. Bạn có thể tham khảo một số đề mẫu cụ thể.

Đoạn văn nêu suy nghĩ về nhân vật lão Hạc

Nhân vật Lão Hạc của Nam Cao là điển hình cho những người nông dân Việt Nam thời kỳ phong kiến thực dân. Lão là người giàu lòng yêu thương, sống nhân hậu và có lòng tự trọng cao. Tuy nhiên, cuộc sống của lão lại gặp nhiều trắc trở và đơn độc. Vợ mất sớm, con trai duy nhất thì phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su, lão phải sống cô đơn với một con chó để bầu bạn. Sau khi bán cậu Vàng – người bạn duy nhất, lão thấy hối hận, sống day dứt và hối hận tột cùng. Lão Hạc là người có ý thức mãnh liệt về lẽ sống, nên lão không muốn làm phiền tới hàng xóm, lão chỉ nhờ ông giáo giữ một ít tiền để làm ma chay sau khi lão mất. Trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ, lão Hạc xuất hiện tựa như ngọn đèn lay lắt trước gió, là biểu hiện của người nông dân với tâm hồn cao quý. Qua truyện ngắn Lão Hạc, tác giả Nam Cao đã cho ta thấy phẩm giá tốt đẹp và nhân cách sống trong sạch của lão Hạc, cũng là tượng trưng cho người nông dân trong xã hội cũ.

Phân tích tác phẩm Lão Hạc học sinh giỏi

Nam Cao là nhà văn lớn của văn học Việt Nam, ông có nhiều tác phẩm tiêu biểu về người nông dân trước Cách mạng tháng tám. Bên cạnh bi kịch hóa cuộc đời của họ, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân khi đối diện với bờ vực, khó khăn cùng cực của cuộc đời.  Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm tiêu biểu trong số đó. Nhân vật chính là lão Hạc, một người nông dân có hoàn cảnh bất hạnh. Dù vậy, lão vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp thay vì tha hóa như nhiều người vì miếng cơm manh áo. 

Lão Hạc là đại diện của tầng lớn nông dân bấy giờ bởi lão nghèo và không có tiếng nói, cuộc sống như dưới đáy xã hội của giai đoạn phong kiến. Qua lời kể của ông Giáo, ta hiểu được hoàn cảnh của lão quá mực éo lẹ khi mà vợ mất sớm, con trai còn không có tiền lấy vợ đến mức phải bỏ vào Nam làm đồn điền cao su kiếm tiền, mất tăm mất tích mấy năm nay cũng không biết ngày về. Người bạn duy nhất với lão có lẽ là cậu Vàng – kỷ vật mà con trai để lại để lão Hạc bầu bạn. Đã bất hạnh đến vậy, cuộc đời còn dồn cho lão nhiều biến cố hơn nữa, đẩy lão đến lựa chọn bi quan nhất. Khi mà lão bệnh nặng, tiền dành dụm cho con cũng phải dùng đến cạn kiệt, hoa màu trong vườn lại bị bão ập đến phá tan không còn thứ gì. Rồi sau đó, lão hiểu rằng mình không thể tiếp tục sống như vậy vì nếu thêm nữa, chỗ tiền chỗ đất cho con cũng bị bán mất. Lão dứt ruột bán cậu Vàng mà lão yêu thương nhất. Ông Giáo cảm nhận được nỗi buồn vô hạn của lão Hạc khi nghe lão kể dù đã cố giả vờ vui vẻ: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc“.

Kể từ ngày ấy, lão cũng sống không ra hình người “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, nhưng khi “khoai cũng hết”, lão đành có gì ăn nấy. “Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc“. Ông Giáo có quan sát, có thấu hiểu cho nỗi đau và hoàn cảnh đáng thương tột cùng của Lão Hạc chứ nhưng có thể giúp được gì khi hoàn cảnh của mình cũng chẳng khá khẩm hơn. Đến hi chẳng còn gì để ăn, lão chọn đến cái chết, cái chết đau đớn nhất với bả chó. Cái chết ấy dữ dội vô cùng “lão sùi bọt mép, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên”. Cách tác giả xây dựng cũng chứa đựng nhiều bất ngờ bởi lão Hạc đã xin Binh Tư bả chó với lý do đặt bả cho con chó hàng xóm. Nghe đến đó, dù là bạn thân nhưng ông Giáo cũng phải xót xa vì cho rằng đến lão Hạc cũng bị thối nát này làm cho thay đổi, phải làm ra chuyện đó vì miếng cơm manh áo. Để rồi khi chứng kiến cảnh ông chết theo cách đau đớn nhất, Binh Tư và ông Giáo hiểu ra tất cả, cách quyên sinh ông chọn cũng vì tội lỗi khi đã lừa cậu Vàng yêu quý của ông, ông cho rằng mình xứng đáng phải nhận cái chết không khác gì con chó. Vậy là Lão Hạc vẫn giữ được tâm hồn đẹp, lòng tự trọng của mình nhưng ông không còn ở đó, dù tốt và lương thiện nhưng cái xã hội thối tha đã ép ông đến con đường cùng. 

Trong quá khứ, đã có không ít tác phẩm viết về tình phụ tử cao quý và thiêng liêng như “Cha con nghĩa nặng”  của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.  Tuy nhiên, tình yêu của Lão Hạc dành cho con cũng lớn lao nhưng dường như cũng có phần bảo bọc quá đà và tiêu cực. Có lẽ vì sinh ra trong thời đại quá nhiều khốn khó, quá nhiều nỗ lo, Lão phải lo cho con trước để con không rơi vào tình cảnh xót xa như mình. Vì thương con, lão chấp nhận để con ra đi thỏa chí và đối diện với cuộc sống cô đơn tuổi già.Lão yêu thương cậu Vàng rất nhiều, lão có thể nhịn đói nhưng chó thì không, nó còn được cho ăn trong chiếc bát lành lặn hiếm hoi. Và lão tâm sự với cậu mỗi ngày về nỗi nhớ con tưởng như được nhìn thấy con quay lại.  

Tình thương ấy to lớn đến độ sẵn sàng chấp nhận cái đói và cả cái chết đau đớn chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Thực tế, chỉ cần bán đi mảnh vườn, lão vẫn có thể vượt qua thời điểm khốn khó này nhưng lão cũng lại lo cảnh con trai trở về không có đất sinh sống làm ăn. Để rồi lão phải đối diện với cái chết vì không muốn phạm vào chút vốn liếng còn lại ấy. Có thể nói, tấm lòng lão vẫn luôn trong sạch vì thà chết chứ không tha hóa, thay đổi mình như nhiều nhân vật khác.

Cùng đó, lão cũng có lòng tự trọng rất cao khi từ chối sự giúp đỡ của mọi người. Và cả khi đã tính đến con đường chết, lão cũng gửi gắm ít đồng còn lại cho ông Giáo để bà con lối xóm cùng hỗ trợ lo chuyện ma chay, để chết đi rồi cũng không làm phiền mọi người. Nam Cao đã rất thành công khi khắc họa nhân vật, gợi niềm xót thương to lớn từ người đọc và nỗi thương cảm không có giới hạn.

Nam Cao đã bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc nhất vớ người nông dân trong giai đoạn trước cách mạng, đồng cảm với cái nghèo và cái đói khổ của họ. Đồng thời, ông cũng ca ngợi, trân trọng tâm hồn đẹp, tình yêu thương, lòng tự trọng đáng quý dù đối diện với nghịch cảnh nhưng không tha hóa, để bản thân đi vào con đường sai trái. Cũng chính vẻ đẹp ấy mà Nam Cao phải chiêm nghiệm “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Bởi đâu đó vẫn có những người mang phẩm chất cao quý như Lão Hạc

phân tích truyện ngắn lão hạc
Phân tích truyện ngắn Lão Hạc với nhiều dạng đề

Nghị luận phân tích đánh giá tác phẩm Lão Hạc

Nam Cao được mệnh danh “ông hoàng của truyện ngắn” với những tác phẩm mang lại giá trị hiện thực sâu sắc và chứa đựng nhiều thông điệp nhân văn. Ông nổi tiếng về những sáng tác về nông dân nghèo và Lão Hạc là một trong số tác phẩm tiêu biểu không thể không nhắc đến.  

Lão Hạc không chỉ mang giá trị về hình thức mà giúp ta có cái nhìn trân trọng cuộc sống hiện tại. Đồng thời ở đó chứa đựng những chiều sâu tư tưởng đạo lý và phản ánh hiện thực xã hội đáng buồn bấy giờ. Có thể thấy, đấu tranh sinh tồn cũng là một cuộc đấu tranh để giữ trọn nhân cách tốt đẹp ban đầu của con người. Bởi có không ít chúng ta trở nên tha hóa, vì miếng cơm mà thành trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, bán thân,… nhưng cũng có không ít người giữ vững sự lương thiện của mình để sống và tồn tại để nỗ lực từng ngày và có thể chấp nhận bi kịch vì không muốn bản thân biến chất. 

Nếu như “Tắt đèn” có cường quyền áp bức của xã hội đẩy người nông dân rơi vào éo le. Hay cũng chính thế lực ấy đã khiến anh pha trong “Bước đường cùng” không còn lối thoát. Qua tác phẩm Lão Hạc, ta lại có một góc nhìn khác mà nhà văn Nam Cao có sự dẫn dắt tài tình để lên án thế lực vô hình đã khiến người nông dân sống trong bi kịch, tình cảnh khốn cùng. 

Bàn thân Lão Hạc cũng là một tác phẩm chứa đựng lòng nhân đạo cao quý mà Nam Cao dành cho người nông dân. Dưới ngòi bút giản dị, gần gũi, Nam Cao đã giúp hình ảnh người nông dân thật bình dị, chính ta cũng dần đồng cảm với cuộc đời quá khốn khổ mà họ phải trải qua để rồi dù buồn nhưng cũng thấu hiểu phần nào lựa chọn và hành động của nhân vật. Lão Hạc chính là đại diện cho tầng lớp nông dân của xã hội cũ, lão phải đối diện với sự bất hạnh kéo dài, của cái nghèo của sự cơ cự dù đã nỗ lực rất nhiều. Để rồi chỉ một cơn bệnh, một cơn bão đi qua cũng lấy đi của lão nửa cái mạng rồi là cả cái mạng vì lão phải ra quyết định quyên sinh cuối cùng do sợ phạm vào tiền của con.

Cái chết của lão làm toàn câu chuyện bừng tỉnh, thắp sáng nên phẩm chấp cao đẹp, dù phải chọn cái chết cũng không thay đổi mình theo con đường tệ hại nhất. Cái chết đau đớn cũng là sự trừng phạt mà ông dành cho chính mình, cho tội lỗi mà ông gây nên với cậu Vàng. Nhưng chính ông, vẫn có lòng tự trọng cao đẹp, ông chuẩn bị sẵn tiền ma chay và nhờ gửi ông Giáo để không phải làm phiền bà con. Trước khi hành động, ông cũng thận trong qua gặp mặt người hàng xóm thân thiết của mình, để tâm sự, nhắn gửi mảnh vườn cho đứa con trai. Và cuối cùng, ông cũng giữ cho mình trong sạch.

Tác phẩm Lão Hạc đã mang đến góc nhìn khác về người nông dân trong xã hội cũ. Dù không bị cầm quyền áp bức nhưng vẫn có thể dồn ép họ đến con đường cùng. Truyện ngắn cũng là niềm thương cảm sâu sắc của Nam Cao với bi kích và số phận của người yếu thế tại Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.

Phân tích truyện ngắn Lão Hạc nhân vật ông giáo

Nam Cao là cây bút truyện ngắn hiện thực năng lực, tài giỏi. Truyện của ông gắn liền với đề tài nông dân và làng quê. Đề tài ấy trở nên quen thuộc trong tất cả tác phẩm của ông. Truyện ngắn Lão Hạc cũng là một trong số những tác phẩm nổi bật về đề tài về số phận người nông dân trong xã hội cũ. Trong truyện ngắn không chỉ nhớ đến nhân vật trung tâm là Lão Hạc mà còn nổi bật hình ảnh ông giáo – người bạn, người hàng xóm của lão.

Nhân vật ông giáo là hàng xóm của lão Hạc là người theo nghề dạy học được nhiều người kính nể. Dù ở thời điểm nào, nghề giáo cũng là nghề cao quý vì truyền bá con chữ đến với nhân dân. Ông Giáo cũng là người kể chuyện trong Lão Hạc, bản thân ông là người sống thân tình với lão, thường xuyên được ông ghé thăm, tâm sự và có sự thấu hiểu, đồng cảm sâu sắc với hoàn cảnh lão Hạc. Để bạn đọc thấy rõ chi tiết ấy, Nam Cao đã khắc họa qua việc lão Hạc thường ghé chơi nhà ông Giáo, lão cũng giãi bày nhiều nỗi băn khoăn, tâm sự về tình thương nhớ con trai và nỗi day dứt nơi ông khi bán cậu Vàng, ở những câu chuyện ấy còn có cả khó khăn, tính toán trong cuộc sống. Rõ ràng ông Giáo là người biết lắng nghe, từ chuyện to đến cả những chuyện vụn vặt như con Vàng bữa ăn như thế nào, chuyện con Vàng thông minh ra sao. Ông vừa thấu hiểu hoàn cảnh của Lão Hạc và cũng đồng cảm vì lão mất vợ sớm, con lại không có tiền phải đi đồn điền kiếm sống cưới vợ. Khi hay tin lão bán cậu Vàng, ông Giáo cũng đủ tinh tế để nhận ra sự vui tươi của lão Hạc chỉ là giả vờ. Ông xót xa khi  nhìn lão Hạc khóc hu hu và ở đó còn có sự thương cảm giữa người với người. Ông Giáo cũng băn khoăn khi lão Hạc gửi gắm mảnh đất cho con đứng tên mình, tiền bạc cũng giao ông giữ, sự nhạy cảm của ông khiến ông lo lắng nhưng chỉ đành đứng bên quan sát. Ông hiểu sự khó khăn của Lão Hạc nhưng cũng không thể giúp gì thêm vì hoàn cảnh của mình cũng khó khăn bội phần.

Dù chính ông Giáo phải bảo lão Hạc thật gàn giở, nhưng ông cũng một lòng trân trọng tấm lòng cao quý của người hàng xóm thân thiết. Ông Giáo nhận ra đức hi sinh cao cả của người cha thương con, cũng nhìn được lòng tự trọng đáng quý của con người lão. Dù có khoảng cách về tuổi tác và địa vị nhưng 2 người vẫn luôn thân thiết, tin tưởng và thấu hiểu lẫn nhau. Chính vì vậy, khi nghe Binh Tư rằng lão Hạc xin bả chó, ông Giáo đã sốc và thất vọng rất nhiều vì cho rằng lão đã đánh mất đi bản chất tốt đẹp vốn có của mình. Đến khi chứng kiến cái chết đau đớn tột cùng của người bạn, ông giáo lại đổi lại xót thương, để rồi cảm thấy “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”.

Nhân vật ông Giáo tuy không phải nhân vật trung tâm nhưng gắn liền với nhân vật chính. Ông là người bạn, chứng kiến, kể lại câu chuyện và là đại diện cho nhà văn Nam Cao để bày tỏ thái độ, tình cảm với số phận của người nông dân bất hạnh.

Phân tích nhân vật ông Giáo trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao

Trong tác phẩm của Nam Cao luôn có hai hình ảnh quen thuộc là người nông dân và nhân vật đại diện cho tầng lớp tri thức. Lão Hạc cũng không ngoại lệ. Ở trong tác phẩm, nhân vật ông Giáo là đại diện cho tầng lớp tri thức nhưng chính họ cũng phải sống trong hoàn cảnh nghiệt ngã, bị cơm áo gạo tiền ghì chặt. Bản thân ông Giáo thấu hiểu cho lão Hạc cũng là hiểu cho nỗi khổ đau của mình và hoàn cảnh trước cuộc đời. Chính ông có sự đồng cảm nhưng không thể làm gì nhiều hơn khi bản thân cũng chẳng khá hơn là bao.

Thời trẻ, ông Giáo đã từng đi nhiều nơi (vào tận Sài Gòn) với nỗi khát khao to lớn và niềm tin cao đẹp. Nhưng một người như vậy lại bị cuộc sống vùi dập và trả về với cuộc sống nông thôn khốn khổ, mọi lí tưởng bị diệt trừ và hi vọng mãi mãi không thành. Ông có nhiều quyển sách mà mình nâng niu, trân trọng “mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp đọc dòng nào, tôi đã thấy bừng lên trong lòng tôi như một rạng đông trong trẻo, biết yêu, biết ghét,…”. Dù rất yêu thích và trân trọng nhưng khi con ốm, ông Giáo cũng phải bán đi để có tiền sinh nhai. Những trang văn của Nam Cao không miêu tả hết đời sống sinh hoạt của ông Giáo nhưng vẫn cho người đọc một cảm giác buồn da diết và bao trùm.

Ông Giáo giàu tình thương, trong cách suy nghĩ về lão Hạc, cách ông hành sử trong đời sống hằng ngày giúp ta dễ dàng nhận ra điểm ấy. Đó có thể là lý do giúp ông và lão Hạc gần gũi và thân thiết với nhau hơn dù có thể xem hai người như hai tầng lớp khác nhau trong xã hội. Ông Giáo thương xót, thấu hiểu và cảm thông cho số phận của lão Hạc – một người láng giềng tốt bụng, ông luôn tìm cách giúp đỡ và an ủi lão. Kể từ khi đứa con duy nhất của lão Hạc đi đồn điền cao su, dường như ông Giáo đã trở thành chỗ dựa, để lão Hạc có chốn bộc bạch tâm sự và cõi lòng mình. Bằng chứng là khi lão Hạc bán cậu Vàng, người đầu tiên mà lão tâm sự cũng là ông Giáo. Ông cũng ở bên an ủi, động viên với tấm lòng cảm thông và chân thành. Ông cũng là người lão Hạc tin tưởng sang gửi gắm đất đai, ruộng vườn và số tài sản mà lão phải bòn mót để tích cóp, dành cho con trai.

Như bao người đại diện cho tầng lớp tri thức của Nam Cao, ông Giáo là một nhân vật đáng thương. Nếu là nông dân, cái đói cái nghèo có thể là nỗi đau duy nhất mà họ phải đối diện. Đối với người tri thức, họ phải gánh trên vai nỗi khổ tâm. Những con người ấy bị dày vò về trăn trở suy nghĩ, bản thân ông Giáo cũng thấu hiểu đồng cảm cho lão Hạc: “Tôi giấu giếm vợ, thỉnh thoảng giúp ngấm ngầm Lão Hạc”. Nhưng khi bị vợ mắng vì mình cũng chẳng có gì, ông cũng đành im lặng vì đúng là như vậy. Dọc theo câu chuyện, bản thân ông Giáo luôn là kẻ chứng kiến nỗi đau mà người khác chịu đựng, cuộc sống xung quanh ông dường như không có nổi một tia sáng, niềm vui hay sự sống. Gia đình lão Hạc bất hạnh và bi thương, cách nghĩ của chính vợ ông cũng khiến ông thực lòng xót xa: “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”, nhưng ông cũng có sự thông cảm với người vợ của mình “bởi thị quá khổ rồi, có bao giờ thì nhìn thấy nỗi khổ của người khác đâu”.  Là người giàu lòng thương người nhưng chính ông cũng phải bất lực trước sự khó khăn và nỗi đau của người khác, ông chỉ có thể là chỗ dựa tinh thần cho lão Hạc, để lão bên ông, chia sẻ tâm sự và suy ngẫm về cuộc đời. Nhưng ông Giáo cũng có thể giữ lại người bạn tâm giao này đâu khi đến cuối cùng, lão Hạc vãn chọn cái chết theo cách bi thảm nhất.

Nhân vật ông Giáo được Nam Cao xây dựng vừa để đại diện cho góc nhìn của mình với Lão Hạc vừa để nhân vật lão Hạc có thêm người bạn đồng hành, là sự an ủi cho nhân vật này. Thông qua ông Giáo, nhà văn có sự bày tỏ, suy ngẫm về cuộc đời, tin rằng dù cuộc đời nghiệt ngã đến đâu thì ai cũng có những nét nhân cách đáng trân trọng.

Xem thêm:

Kết luận

Phân tích tác phẩm Lão Hạc với dàn bài chi tiết được tổng hợp giúp bạn tham khảo dễ dàng. Từ đó có thể áp dụng cách viết và câu từ vào bài văn của chính mình.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *