Phân tích văn bản Vẻ đẹp của Sông Đà lớp 9 ngắn gọn
Phân tích Vẻ đẹp của Sông Đà (Nguyễn Tuân) là đề bài thường gặp trong chương trình ngữ văn 9 Chân trời sáng tạo. Để có thêm ý tưởng làm bài, bạn hãy tham khảo dàn ý cùng một số bài mẫu phân tích.
Dàn ý phân tích Vẻ đẹp của Sông Đà
Dàn ý bài phân tích Vẻ đẹp của Sông Đà như sau:
Phần | Nội dung |
Mở bài |
|
Thân bài | Phân tích sông đã trữ tình khi nhìn từ tàu bay, khi đi rừng lâu ngay và khi đi thuyền trên sông:
Nhìn từ tàu bay
Đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại
Đi thuyền trên sông phía hạ lưu
=> Sông trữ tình như một tình nhân, cố nhân. => Nhà văn trải lòng với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống, thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước. => Thể hiện tình cảm của tác giả với thiên nhiên Tây Bắc. |
Kết bài |
|
Bạn có thể vận dụng những thông tin trong bài soạn văn Vẻ đẹp của Sông Đà để phân tích, nêu cảm nhận đầy đủ, chính xác hơn về tác phẩm này.
5 mẫu phân tích Vẻ đẹp của Sông Đà lớp 9
Dưới đây là tuyển tập những bài phân tích, cảm nhận Vẻ đẹp của Sông Đà mẫu được điểm cao giúp bạn có thêm ý tưởng làm bài:
Cảm nhận Vẻ đẹp của Sông Đà mẫu 1
Nguyễn Tuân được biết đến như nhà văn suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp. Các tác phẩm của ông không chỉ kể về con người và thiên nhiên mà còn được truyền cảm hứng ca ngợi. Trong đó, “Người lái đò sông Đà” là một ví dụ điển hình cho phong cách sáng tạo của ông. Dưới bút pháp của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên với sự dữ dội, như “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ”, nhưng cũng mang đến vẻ đẹp dịu dàng, quyến rũ như một người phụ nữ tây bắc kiều diễm. Đoạn văn sắp tôi phân tích là minh chứng cho sự trữ tình, thơ mộng đó của sông Đà.
Đoạn “Người lái đò sông Đà” được trích từ tùy bút “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Tác phẩm này là kết quả của hành trình kéo dài 8 tháng của ông đến với vùng Tây Bắc. Sự hùng vĩ, thơ mộng của Tây Bắc đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhà văn, đặc biệt là con sông Đà. Ngay sau khi trở về Hà Nội, Nguyễn Tuân đã lập tức bắt tay vào việc sáng tác tùy bút “Sông Đà”. Tác phẩm này nhanh chóng được công chúng đón nhận và yêu thích với ngôn từ phong phú, đa dạng. Nhà văn đã khéo léo khai thác các tài liệu văn học, văn hóa để tái hiện một sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình, cùng với một người lái đò mang đậm tinh thần nghệ sĩ.
Trong phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu tập trung vào việc miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ và nguy hiểm của dòng sông với những thác nước dữ dội, những cánh đá hiểm trở. Những hình ảnh như cảnh đá dựng bờ sông, ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, thác đá gào thét, dòng sông với những cửa tử cửa sinh, tất cả đều tạo nên một bức tranh sông Đà với sự dữ dội, bất trị và lôi cuốn.
Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà từ nhiều góc độ khác nhau. Góc độ đầu tiên là từ trên cao nhìn xuống. Ở góc nhìn này, ông mô tả sông Đà như một người phụ nữ kiều diễm với mái tóc trữ tình dài ngút trời: “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.” Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra một không gian vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà giống như một sợi tơ dài vô hạn, khép lại giữa rừng núi xanh ngắt. So sánh “như một áng tóc trữ tình” mang đến cho người đọc một sự kinh ngạc trước vẻ đẹp tuyệt vời của sông Đà. Sông Đà như một tác phẩm nghệ thuật của trời đất. Từ “áng” thường liên kết với văn chương, thơ ca, và tại đây, Nguyễn Tuân đã ghép nó với “tóc” để tạo thành “áng tóc trữ tình”. Toàn bộ cụm từ này vừa phản ánh sự thơ mộng, thanh cao và tuyệt đẹp của sông Đà. Từ “ẩn hiện” càng tăng thêm sự huyền bí, trữ tình của dòng sông. Vẻ đẹp tuyệt vời của sông Đà, như của một người phụ nữ kiều diễm, được tác giả làm nổi bật thông qua những từ “bung nở” và “cuồn cuộn”, cùng với hoa ban trắng nở rải rác, hoa gạo đỏ nhuốm hai bên bờ, khiến người đọc như được ngắm nhìn một sắc đẹp tinh khôi được trang điểm bởi mây trời, như một tác phẩm sơn thủy hữu tình. Sự nhân cách hóa này khiến sông Đà trở nên sống động đến bất ngờ!
Nguyễn Tuân tả lại vẻ đẹp trữ tình của sông Đà qua việc miêu tả sắc nước. Ông đã bày tỏ sự mê đắm và say sưa của mình với dòng sông Tây Bắc một cách bay bổng và lãng mạn: “Tôi đã mê mẩn nhìn những đám mây mùa xuân lượn qua trên sông Đà, và tôi đã xuyên qua những đám mây mùa thu để nhìn xuống dòng nước sông Đà.” Điều đặc biệt về vẻ đẹp của sông Đà là sự duy nhất và không lẫn vào đâu được. Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường thấy sông Hương trong màu xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do ánh sáng phản chiếu của mây trời và rực rỡ như một bông hoa phù dung, thì Nguyễn Tuân lại nhận thấy sự thay đổi của màu sắc nước sông Đà theo từng mùa. Mùa xuân, nước sông Đà mang màu xanh ngọc bích “không giống màu xanh canh hến của sông Gâm hay sông Lô. Đó là màu xanh ngọc bích, trong sáng và tinh khiết, gợi cảm như sắc nước, núi non và bầu trời. Mùa thu, dòng nước sông Đà lại chuyển sang màu “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm dập vì rượu, màu đỏ giận dữ của người phản đối sự bất mãn và hối tiếc”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm dập vì rượu” giúp người đọc hình dung rõ hơn về sự đa dạng của sắc nước sông Đà. Qua từng câu văn, Nguyễn Tuân đã vinh danh vẻ đẹp trữ tình và thơ mộng của dòng sông, đồng thời cũng làm nổi bật sự dữ dội vĩnh cửu của sông Tây Bắc.
Nhìn từ gần, bằng những câu văn đầy hơi thở thơ, Nguyễn Tuân đã mô tả sông Đà như một người bạn thân quen. Ông ví dòng sông Đà như một người bạn cũ, khi gặp lại, niềm vui của ông vô cùng khôn xiết. Khi ánh nắng chiếu sáng, trong sự chăm chú, ông đã phát hiện ra vẻ đẹp của nắng sông Đà, rực rỡ như “màu nắng tháng ba trong thơ Đường – ‘Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu’.” Dùng câu thơ từ bài thơ nổi tiếng của Đường để ví sông Đà, Nguyễn Tuân như ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ điển của sông Tây Bắc. Việc liên tưởng đến thơ Đường giúp ông tạo ra một bức tranh sông Đà với sự bình yên, trong sáng và tinh khiết, như một khúc ca thanh bình của quá khứ.
Đối với Nguyễn Tuân, gặp lại sông Đà như thấy một người bạn vui vẻ sau cơn mưa dầm, vui vẻ như lúc tái ngộ người thân yêu. Phép so sánh độc đáo, việc nhân cách hóa sông Đà, giúp dòng sông hiện lên như một người bạn thân thiết: thân thiện, dễ mến và mang một chút ấm áp của tình người. Điều này khiến nó trở thành một người bạn chân thành, điềm tĩnh, luôn sẵn sàng chào đón những ai đi xa và trở về.
Nguyễn Tuân cũng miêu tả cảnh quan hai bờ sông rất ấn tượng. Đọc giả cảm thấy như bị cuốn vào một thế giới cổ tích, thế giới của lịch sử. Câu “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” tạo cảm giác yên bình, tĩnh lặng.
Bờ sông ở đây là nơi nổi bật với vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Trong cảnh tĩnh lặng của thiên nhiên, với sương đêm vẫn còn lơ lửng, Nguyễn Tuân đã nhìn thấy một vẻ đẹp đầy sức sống: “Như nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi mọc ra những nõn búp.” Cảnh tượng đó càng làm ấn tượng với hình ảnh “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh, đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp này thực sự mang đậm chất thơ và họa. Thiên nhiên như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy, khiến ta liên tưởng đến cảnh trong truyện ngụ ngôn Trung Hoa, khi một ngư dân một hôm chèo thuyền ngược dòng sông và lạc vào một chốn thần tiên, một chốn Đào Nguyên. Chất thơ trong đoạn văn về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng phần nào bắt nguồn từ khung cảnh đẹp này, khiến người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc – nguồn gốc của tình yêu đất nước.
Đoạn văn kết thúc bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và liên tưởng đến những dòng thơ của Tản Đà “bọt nước lênh đênh… bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết”, khiến hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, mang trong đó một linh hồn, và sức hút sâu lắng.
Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, kỹ thuật nhân cách hóa miêu tả, và các liên tưởng bất ngờ thú vị. Ngôn từ được lựa chọn một cách tinh tế, độc đáo, và mang tính lãng mạn. Sử dụng kiến thức về hội hoạ và thơ để miêu tả, Nguyễn Tuân đã thành công trong việc tái hiện sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà – một hình ảnh thơ mộng và trữ tình.
Sông Đà là dòng sông quan trọng của Tây Bắc, với nguồn nước phục vụ cho các nhà máy thủy điện lớn nhất cả nước. Đồng thời, đó cũng là một dòng sông nguy hiểm, với “trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”. Tuy nhiên, trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, sông Đà vẫn là một nét đẹp thanh thoát, nổi bật với khía cạnh thẩm mỹ. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một tác phẩm nghệ thuật, một bức tranh mà tạo hoá ban tặng để làm đẹp cho đất nước. Ông khám phá sự thẩm mỹ của dòng sông, và thể hiện phong cách nghệ thuật tài hoa của mình. Quyển sách kết thúc nhưng trong tâm hồn đọc giả vẫn cảm nhận được những dòng sông “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Phân tích Vẻ đẹp của Sông Đà Chân trời sáng tạo mẫu 2
Nguyễn Tuân nổi tiếng là cây bút tài hoa, ông có những suy nghĩ độc đáo về cái đẹp và hoàn toàn khác biệt so với các cây bút cùng thời. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là minh chứng làm sáng tỏ phong cách này. Cảm hứng từ dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa một hình ảnh độc đáo về thiên nhiên Tây Bắc, với hai mặt tính cách hung bạo và trữ tình trôi dạt trong các dòng văn của ông, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Ban đầu, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà được tái hiện qua hình ảnh của dòng sông. Sông không chỉ mang đến vẻ đẹp mạnh mẽ, hung bạo với “những dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông”, mà còn toát lên sự thơ mộng, trữ tình. Từ mặt cao nhìn xuống, sông Đà như một người đàn bà kiều diễm: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.”
Bằng sự quan sát tinh tế, Nguyễn Tuân còn khám phá sắc màu đa dạng, tươi đẹp của nước sông Đà: “Mùa xuân, dòng nước xanh ngọc bích, khác biệt với màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu, sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm vì rượu bữa, cái đỏ giận dữ của người bất mãn bực bội mỗi khi thu về.” Sự thay đổi về sắc màu theo mùa, từ ánh nắng mùa xuân đến mây mùa thu,… đã tái hiện một dòng sông hiền hòa, trong sáng, quyến rũ và tình cảm. Cảnh đẹp hai bên bờ sông Đà cũng được miêu tả trong không gian thơ mộng, trữ tình: đôi bờ sông mang vẻ đẹp “hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa…,” lặng tờ “như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê.” Sự huyền ảo, lung linh được tả qua những nét vẽ về cảnh sắc: những cánh đồng lúa non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương.” Trên mặt nước sông Đà, những đàn cá quẫy vọt lên như đàn thoi đang rơi. Tất cả những hình ảnh, chi tiết đều thấm đượm vẻ đẹp nhẹ nhàng để làm nổi bật sự thơ mộng, trữ tình của sông Đà. Qua đó, chúng ta có thể thấy được những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của tác giả Nguyễn Tuân đối với cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc.
Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông được thể hiện sâu sắc qua tâm hồn. Tác giả Nguyễn Tuân đã khắc họa sông Đà như một người bạn thân thiết từ thuở xa xưa, với cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen, như thấm sâu vào cảnh sắc thiên nhiên và trở nên gần gũi: “…trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.”
Thông qua vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà, chúng ta có thể nhìn thấy lòng say mê với vẻ đẹp thiên nhiên của tác giả. Nguyễn Tuân đã bị mê hoặc bởi cảnh đẹp của quê hương, đất nước. Lòng ngưỡng mộ, sự trân trọng, niềm tự hào về một dòng sông đã thúc đẩy ông sáng tác những tác phẩm tùy bút hiếm có. Đồng thời, qua đó, chúng ta có thể thấy được phong cách nghệ thuật và quan điểm sáng tạo của nhà văn Nguyễn Tuân – một nghệ sĩ luôn tìm kiếm cái đẹp toàn bích, tuyệt mĩ. Ông khám phá thế giới từ góc độ văn hóa và thẩm mỹ, mang đến sự sáng tạo và tôn vinh cái đẹp.
Bằng những cảm nhận tinh tế và sự sắc bén của giác quan nghệ sĩ, cùng với sử dụng ngôn từ độc đáo và lối văn mực tài hoa, Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh sông Đà. Đây không chỉ là biểu tượng niềm yêu mến và tự hào về quê hương, mà còn là biểu tượng cho sự khát khao đi tìm và sáng tạo cái đẹp của tác giả.
Phân tích Vẻ đẹp của Sông Đà của Nguyễn Tuân mẫu 3
Nguyễn Tuân là một nhà văn tiêu biểu theo trường phái xê dịch trong văn học Việt Nam. Qua từng giai đoạn sáng tác, ông đã thể hiện sự biến đổi rõ rệt trong phong cách văn chương, đặc biệt là trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm này không chỉ khắc họa vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của sông Đà mà còn lồng ghép vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của nó.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà từ nhiều góc độ khác nhau. Đầu tiên là từ trên cao, sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban và hoa gạo. Sử dụng phép so sánh giàu chất thơ, chất hoạ, Nguyễn Tuân đã phác họa vẻ diễm dàng, duyên dáng kiêu sa của sông Đà và bộ lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Sông Đà mang hình ảnh của một thiếu nữ, một người phụ nữ xuân sắc đang buông lơi mái tóc làm duyên giữa rừng hoa ban, hoa gạo và vẻ bồng bềnh của mây khoáng.
Tiếp theo, tác giả tinh tế chỉ ra sự khác biệt của sông Đà với những dòng sông khác thông qua màu nước. Vào mùa xuân, sông Đà mang màu xanh ngọc bích, khác với màu xanh canh hến của sông Lô và sông Gâm. Mùa thu, nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Nguyễn Tuân đã nhìn nhận sông Đà như một người bạn thân thiết với những cảnh quan hai bên bờ vô cùng gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”. Sông Đà mang lại những nỗi niềm sâu thẳm về lịch sử Việt Nam: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích từ xưa.
Nguyễn Tuân đam mê miêu tả sông Đà với sự tinh tế của cảm xúc và tình yêu thương sâu sắc. Ông trân trọng và tự hào với dòng sông đã thúc đẩy ông viết nên những tác phẩm văn xuôi đẹp hiếm có. Bằng nghệ thuật ngòi bút lãng mạn và tài hoa, Nguyễn Tuân đã vẽ lên hình ảnh sông Đà như một biểu tượng của sự yêu mến quê hương và khát khao tìm kiếm cái đẹp, hướng tới sáng tạo.
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm văn xuôi điển hình. Qua nghệ thuật của ông, dòng sông Đà hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình đầy cuốn hút, dịu dàng và tuyệt vời. Tác phẩm này đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam và để lại nhiều giá trị, bài học sâu sắc cho thế hệ sau.
Mẫu 4
Nguyễn Tuân, một nhà văn với chủ nghĩa tìm kiếm cái đẹp suốt đời, đã sáng tác những tác phẩm sống động về con người và thiên nhiên, ngập tràn cảm hứng ngợi ca. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là minh chứng rõ nét cho khuynh hướng thẩm mỹ đặc trưng của ông. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà không chỉ là một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ”, mà còn là một biểu tượng dịu dàng và quyến rũ như một mỹ nhân Tây Bắc.
Tác phẩm này được sáng tác khi Nguyễn Tuân thực tế hóa chuyến đi của mình đến vùng núi Tây Bắc, trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đặc biệt, trong chuyến đi năm 1958, ông sống đắm chìm trong thiên nhiên và con người Tây Bắc, điều này đã trở thành nguồn cảm hứng to lớn để ông viết nên tác phẩm này.
Đoạn văn mô tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của sông Đà, từ cảnh đá dựng bờ sông, những ghềnh Hát Loóng với “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cho đến những hút nước rùng rợn và thác đá gào thét. Tuy nhiên, cuối đoạn, tác giả chuyển sang mô tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà từ nhiều góc độ khác nhau. Một trong những góc độ là từ trên cao nhìn xuống, với một cái nhìn bao quát. Ông miêu tả sông Đà như một “áng tóc trữ tình đằm thắm, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Phép so sánh “sông Đà như một áng tóc” kết hợp với từ ngữ như “bung nở” và “cuồn cuộn” tạo nên hình ảnh sâu sắc về độ dài và sự tươi đẹp của sông Đà, như một biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên vô cùng quyến rũ và dịu dàng.
Tác giả cũng miêu tả sắc nước của sông Đà, từ màu xanh ngọc bích trong mùa xuân, khác biệt hoàn toàn với màu xanh canh hến của sông Gâm và sông Lô. Mùa thu, nước sông Đà lại mang một màu “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”, nhấn mạnh sự đa dạng và sự phong phú của cảnh vật thiên nhiên.
Tác giả cũng chú ý miêu tả những cảnh vật hai bên bờ sông, như “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, hay “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”, tạo nên những hình ảnh sâu sắc, đầy chất thơ.
Tóm lại, qua những phép so sánh tinh tế và sự lựa chọn từ ngữ uyển chuyển, Nguyễn Tuân đã biến sông Đà thành một tác phẩm nghệ thuật, một cái nhìn thẩm mỹ sâu sắc vào vẻ đẹp thiên nhiên. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của ông không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là một minh chứng cho sự yêu thích và khám phá vẻ đẹp của đất nước, góp phần làm phong phú thêm văn học Việt Nam.
Mẫu 5
Sông Đà không chỉ có tính hung bạo mà còn mang trong mình vẻ đẹp thơ mộng tuyệt vời. Đặc biệt, từ Thác Bờ trở xuống, Đà giang hiển hiện một vẻ dịu dàng, không khác gì bất kỳ dòng sông nào ở vùng đồng bằng. Vì vậy, Nguyễn Tuân không chỉ tập trung mô tả tính hung dữ mà còn tôn vinh sự trữ tình của dòng sông này. Với vốn từ phong phú và sự tưởng tượng bay bổng, nhà văn đã sáng tạo ra những đoạn văn mượt mà như những dòng thơ.
Để khắc họa tính trữ tình, dịu dàng của sông Đà, Nguyễn Tuân bắt đầu bằng một câu văn toàn cảnh, tràn ngập hình ảnh và nhịp điệu: “Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đây có thể xem như một bức tranh tổng thể về Sông Đà, ban đầu chảy lóe loẹt giữa núi đá và rừng nguyên Tây Bắc nhưng khi về phía trung du, Đà biến hóa thành dòng chảy êm ả, mềm mại như bất kỳ dòng sông nào khác trong vùng.
Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà vào nhiều thời điểm và không gian khác nhau. Với tình cảm sâu sắc và trìu mến, ông đã nhạy bén nhận thấy sự biến đổi màu sắc của dòng sông theo từng mùa. Vào mùa xuân, Đà hiện lên với màu xanh ngọc bích, tức là màu xanh rất tươi đẹp, sáng láng, không phải màu xanh nhạt của nước sông Gâm hay sông Lô. Và khi mùa thu đến, dòng sông Đà lại mang một vẻ đẹp khác biệt.
Tác giả đã dành những đoạn văn tinh tế nhất để tả cảnh vật ven sông Đà, nhằm tăng thêm vẻ trữ tình của dòng sông này. Nguyễn Tuân sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng, gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu của câu văn thay đổi linh hoạt, thỉnh thoảng nhanh nhẹn, vội vã như khi ông mô tả: “Bờ Đông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà”, để biểu đạt sự phấn khởi trong lòng tác giả, và đôi khi chậm rãi, dài ra nhằm diễn tả sự lặng yên đặc trưng của dòng sông: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Những hình ảnh như một nàng tiên, một câu chuyện cổ tích cổ xưa, khơi gợi sâu xa, mô tả được vẻ đẹp hoang sơ, vĩnh cửu của thiên nhiên. Với sự liên tưởng và so sánh đó, Sông Đà dường như còn mang vẻ đẹp của một con sông bền bỉ chảy qua bao thế kỷ lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc.
Như vậy, qua những lời diễn tả trên, Nguyễn Tuân đã vẽ nên hình ảnh Sông Đà với những đặc tính thơ mộng, khác biệt hoàn toàn so với phần đầu lúc sông đang chảy ở vùng đầu nguồn với sự hung bạo.
Lời kết
Những mẫu phân tích Vẻ đẹp của Sông Đà hay, ngắn gọn nhất theo chương trình văn 9 Chân trời sáng tạo đã được tổng hợp. Để có thêm tài liệu về các tác phẩm văn học Việt Nam, thế giới khác bạn đừng quên theo dõi Thepoetmagazine mỗi ngày.
Xem thêm:
- Phân tích bài Bếp lửa 9 chân trời sáng tạo.