Phân tích Vợ nhặt – Ý nghĩa của tác phẩm

Tham khảo các bài văn mẫu phân tích Vợ nhặt của Kim Lân để nắm được các ý quan trọng khi làm bài. Học sinh theo dõi dàn bài và những đoạn văn mẫu hay nhất tại trang ThePOETMagazine đầy đủ.

Table of Contents

Dàn ý Vợ nhặt

Dàn ý phân tích Vợ nhặt của tác giả Kim Lân đầy đủ nhất.

dàn ý Vợ nhặt
Dàn ý chi tiết bài Vợ nhặt

Mở bài văn mẫu Vợ nhặt: Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

Thân bài phân tích Vợ nhặt:

Thuyết minh về tác phẩm Vợ nhặt và các chi tiết trong đoạn trích:

Ý nghĩa nhan đề: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.

Tình huống truyện: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không => Tình huống độc đáo bất ngờ, éo le.

Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt

  • Hoàn cảnh: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …,
  • Ngoại hình:  xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …
  • Tính cách: hiền lành, tốt bụng, khát khao hạnh phúc, là đứa con biết lễ nghĩa.

Chi tiết:

  • Khi bị cô gái mắng => Cười toét miệng => hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
  • Khi người đàn bà quyết định theo mình về => nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ” => quyết định dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
  • Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ=> nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

Trên đường về

  •  “có cái gì hớn hở khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, … => tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
  • Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

Khi về đến nhà

  • Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
  • Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
  • Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
  • Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

Sáng hôm sau khi tỉnh dậy

  • Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
  • Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.

Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt

  • Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
  • Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.
  • Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.

Chi tiết:

  • Khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
  • Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
  • Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.

=> Nhận xét: Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.

Phẩm chất

Có khát vọng sống mãnh liệt:

  • Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
  • Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.

Thị là người ý tứ và nết na:

  • Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
  • Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
  • Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
  • Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
  • Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.

Nhận xét: Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.

=> Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

=> Nêu cảm nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.

Phân tích văn học lớp 11 về nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt

  • Dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
  • Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
  • Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhòa đi”: thương cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
  • Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, …

=> bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.

Kết bài phân tích bài Vợ nhặt: Khẳng định giá trị nghệ thuật và nội dung.

Phân tích tác phẩm Vợ nhặt

Tổng hợp những bài văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức đề phân tích tình huống truyện Vợ nhặt hay nhất cho các bạn học sinh tham khảo.

Đề 1: Cảm nhận Vợ nhặt của tác giả Kim Lân

Câu chuyện Vợ nhặt được kể thật nhẹ nhàng, thấm thía, theo một trình tự thời gian ngắn gọn từ chiều tà, vào đêm tối, đến sáng sớm hôm sau và cũng theo một trình tự của phép biện chứng tâm hồn, ánh sáng của niềm vui, hơi ấm của hạnh phúc gia đình, ngọn lửa tình người được nhen nhóm rồi thắp lên, để cuối cùng “sáng lóa” trong ánh sáng một rạng đông mùa hè. Ba kiếp người đói rách ngồi bên nhau chuyện trò, nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật cứu đói, hướng tới Việt Minh, tới những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi, đằng trước lá cờ đỏ to lắm, lá cờ đỏ bay phấp phới,…

Có thể nói cuộc gặp gỡ của đôi trai gái – anh cu Tràng và cô vợ – những giây phút đầu đúng là một câu chuyện tầm phào theo cách nghĩ của Tràng. Song, khi cả anh chị cùng cất lời, đưa mắt thì… dường như lửa và rơm đã bắt đầu bén. Chỉ vừa nghe anh cất tiếng: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!”, chị đã “nhà tôi ơi” rồi “liếc mắt,cười tít”. Câu chuyện ái tình của họ được Kim Lân miêu tả bằng một giọng văn tưng tửng, như bỡn cợt, đùa vui, song hoàn toàn không phải bọt bèo, trăng gió vu vơ, Nó nghiêm túc, càng về sau càng nghiêm túc. Giữa thời thóc cao, gạo kém, mỗi người chưa chắc nuôi nổi thân mình, họ nhặt được nhau, rồi đưa nhau về, sau cái chậc lưỡi liều lĩnh, song táo bạo như một lời thách đố đã diễn ra. Hai anh chị đi bên nhau đàng hoàng cứ hệt như chú rể đưa cô dâu về nhà chồng. “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng”. Đó là tình yêu? là hạnh phúc tuổi trẻ? Là ánh sáng đổi đời? Có lẽ là tất cả, đối với hai kiếp người tăm tối, vời vật, chắp nối lại cùng nhau để thành vợ, thành chồng. Cái giây phút quan trọng nhất của lời thách đố là lúc Tràng đi sát bên người con gái, ngẫm nghĩ một lúc, rồi giơ cao cái chai con lên khoe: “Dầu thắp tối đây này… Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã rúc ngay vào, hì hì…”. Tràng đã nói ra được ý nghĩ thô mộc mà thiêng liêng nhất: “ Vợ mới, vợ miếc”. Cô gái cũng đáp lại bằng một lời nói suồng sã nhất “Khỉ gió”, và một cử chỉ cởi mở nhất “phát đánh đét vào lưng hắn”, khiến cho “hắn thích chỉ ngửa cổ cười khanh khách”.

Khi hai vợ chồng về tới nhà, giới thiệu vợ với mẹ, anh cu Tràng: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả…”. Giọng tuy ngập ngừng, song lời lẽ thật chững chạc. Mỗi chữ mỗi câu vừa ấm tình người vừa sâu nghĩa lí. “Nhà tôi… làm bạn… duyên kiếp… cái số cả…”, ấy là những ngọn lửa Tràng thắp lên vừa để sưởi ấm, vừa để soi sáng cái đầu óc chậm chạp già nua của bà cụ Tứ. Với chính Tràng, ngọn lửa ấy cũng thắp sáng lên trong lòng một quyết tâm. Nói tới “duyên kiếp” là chạm vào vùng thiêng liêng nhất trong mảnh đất của đôi lứa gái trai. “Duyện” là sự hấp dẫn, lôi cuốn gọi mời, là tình yêu giữa hai người. “Kiếp” là đời sống cơ cực cùng cảnh ngộ, cùng thuyền cùng hội mà tạo hóa xô đẩy, trôi đến gần nhau,cảm thông với nhau, rồi chia sẻ và thương nhau. Từ câu chuyện “tầm phào” ở bên đường bữa nọ, rồi tới lúc đưa cô ả đi qua ngõ xóm nói lời bỡn cợt “vợ mới, vợ miếc”, giờ đây giữa mái ấm của căn nhà, trước mặt mẹ, Tràng đã thực sự coi mối quan hệ giữa mình với cô gái như có tiền định, có lương duyên do trời sắp xếp, do đời run rủi, ràng buộc.

Bà cụ Tứ đã hiểu, hiểu việc con làm, hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự khác nữa. Bà mẹ nghèo khổ ấy vừa ai oán vừa xót thương cho đời mình, đời con, Bà thấm thía, tủi hờn về hoàn cảnh, về trách nhiệm mẹ cha trước việc trăm năm hạnh phúc của con cái. Rồi bà cảm động đăm đăm nhìn cô gái, như chấp nhận, như hàm ơn: “ Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà nhắc lại ý con trai để nói với “nàng dâu mới”: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Đọng lại ở câu chuyện giữa hai kiếp người tuy khác nhau về tuổi tác mà thật giống nhau trong cảnh ngộ làm người ở chữ “thương”. Ấy là tình người. lòng bao dung nhân hậu của những người mẹ, người phụ nữ Việt Nam. Nói được những lời gan ruột ấy, hẳn bà cụ Tứ vợi đi biết bao đau khổ, giải tỏa biết bao lo lắng, tủi nhục. Trái tim người mẹ như nghẹn lại “nước mắt cứ chảy ròng ròng”. Phải chăng đó là nước mắt của niềm vui, của hạnh phúc nhỏ nhoi, hạnh phúc được chia sẻ, giãi bày?

Khi thấy con trai đánh diêm đốt đèn, bà cụ vội vàng lau nước mắt, ngẩng lên nói như reo: “có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa…”. Một câu nói của nhân vật, một chi tiết thật đơn giản mà chứa đựng bao nhiêu ý nghĩa. Có thể nói, nhà văn Kim Lâm vào giữa căn nhà bà cụ Tứ một ngọn lửa – dù chỉ là ngọn đèn dầu, thứ của cải đắt đỏ bấy giờ – đồng thời thắp trong lòng mình, lòng người đọc một niềm vui, niềm tin yêu, trân trọng trước bản lĩnh sống của con người – những con người trong tăm tối vẫn nhen nhóm và cố thắp sáng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống cho ra con người, nên người.

Một buổi sớm mai đẹp đẽ xiết bao! Nắng mùa hè sáng lóa. Nhà cửa, sân vườn được quét tước thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa được đem ra hong nắng. Hai cái ang nước vẫn để khô cong, nước đầy ăm ắp. Đống rác ngay lối đi đã được hót sạch… Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ Tràng đang quét sân, tiếng chổi kêu sàn sạt trên mặt đất… Tất cả như đang đổi thay, mới mẻ. Một nguồn sống mới, vui sướng, ngọt ngào của hạnh phúc gia đình trỗi dậy, tràn ngập trong lòng. Anh cảm thấy mình đã “nên người”, thấy thương yêu, gắn bó với căn nhà, với những người thân. Ý thức về sự “nên người” khiến cho Tràng trưởng thành, đổi thay cả về tâm tình lẫn hành động. Anh thấy mình phải có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này.

Đề 2: Phân tích nhan đề Vợ nhặt Kim Lân.

Vợ nhặt là một cụm từ nhiều ý đau thương mà ý nghĩa. Nào phải đó là cái tên, nhưng nó vẫn chỉ cô gái ấy. Chỉ có chút bất thường và kì lạ. Vợ theo nghe đã buồn,vì theo không, chả cưới xin và cũng chả ai chấp nhận. Đây là vợ nhặt, chẳng khác gì một món đồ vật đánh rơi hoặc vứt đi nay nhặt được. Chỉ là cô ả. rồi người đàn bà. nó cộc lốc. Kể ra cái đói, bỏ xứ tha phương cầu thực, biết đâu ngày mai không còng queo cái xác bên đường, thì tên tuổi làm gì. Nhưng cái vô danh ấy đâu phải là vô nghĩa. Để chỉ sức sống, sự sống thì cần gì tên với họ? Chỉ cần biết đó là một người đàn bà, một phụ nữ. Không ngờ ẩn trong cái chữ thảm thê vợ nhặt được vợ thì vinh dự. Cho nên cái danh xưng ấy không phải dễ dàng hiện ra ngay: úp mở bằng cách nói lái của trẻ con, ước đoán của hàng xóm, rồi năm rè bảy rụt, mượn chai dầu hôi làm cớ, Tràng mới dám nói ra: “vợ mới vợ miếc”.

Chính từ cái cách người vợ ấy thể hiện, ta thấy cô gái đã dần lột xác. Giữa đám đông chị em cùng lứa, cô ngang ngửa, thoải mái, cong cớn rồi sầm sầm, sưng sỉa, kể cả ăn xong một hơi bốn bát bánh đúc chẳng chút e dè, cô cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, quê và thô rất chi tự nhiên. Vậy mà sau khi nghe Tràng lửng lơ nói về với tớ thì cùng về, cô về thật, thì từ cái ngang ngửa, hồn nhiên như thế cô đã biến đổi theo từng bước đi trên đường về nhà Tràng.

Cô gái đi theo Tràng về, chưa rõ sẽ làm gì nhưng là nghiêm trang rồi, nghiêm trọng nữa. Cô gái đi sau ba bốn bước, đầu hơi cúi, nón che khuất nửa mặt. Không phải vì có người dòm ngó. Chỉ là đối diện với lòng mình: chuyện số phận chứ chẳng phải chơi. Không nước mắt nhưng cứ rón rén, e thẹn như cô dâu khi bước khỏi nhà mẹ, ngoan ngoãn, dễ thương, rất nữ tính. Đôi ba quãng đường nữa đã thấy cô đàng hoàng thể hiện cái chức năng an bài người vợ. Cô chế giễu (bé lắm đấy), mắng (hoang nó vừa vừa chứ), rồi dẹp hết e thẹn lẫn ngại ngùng, cô văng ngay “khỉ gió” , phát đánh đét vào lưng Tràng,… ấy là cô đã đặt chân vào con đường làm vợ. Thế nhưng bước vào nhà, cô cứ ngồi mớm ở mép giường, tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần. Thì ra đến phút này cô mới nghĩ kĩ về tình cảnh mình. Tới đây là tới chỗ quyết định cuối cùng cho thân phận cô. Đành là đói nên cô phải tìm nơi nương tựa, nhưng liệu đây có phải là chỗ cô mong đợi? Bà cụ chưa về, biết ý bà ra sao. Cái thế ngồi rụt rè, chông chênh như chính cái thế phân vân của lòng cô. Chuyện bỗng dưng thành vợ của cô đã bắt đầu nhưng sao cứ như không thực. Làm vợ, làm dâu là như thế này sao? Lấy chồng, hạnh phúc lớn nhất trong đời người con gái mà lủi thủi, trơ trọi như thế này? Thảm thương, buồn tủi cho mình biết bao! Thật là ngổn ngang trăm mối, cô bần thần chưa biết tính sao. May bà mẹ Tràng tỏ ra thương cảm, an ủi, khuyên lơn nên cô cảm thấy yên lòng. Và sau một đêm làm vợ, sáng ra cô đã trở thành một người con hoàn toàn khác hẳn, cô đã là một người vợ đảm đang, siêng năng, quán xuyến mọi việc, đem lại một sinh khí mới cho gia đình.

phân tích bài Vợ nhặt
Phân tích nhan đề Vợ nhặt Kim Lân

Đề 3:  Phân tích Vợ nhặt chi tiết – Sự sống đối mặt với cái chết trong Vợ nhặt của Kim Lân.

Cái họa chết đói năm 1945 quá là khủng khiếp. Không chỉ đói xóm làng mà đói nửa nước. Từ Bắc Trung Bộ trở ra, từ thu đông năm 1944 đến xuân hè 1945 hơn hai triệu người nằm xuống. Kim Lân chọn bối cảnh ấy cho truyện Vợ nhặt. Không nhiều dòng miêu tả trực tiếp nhưng là những dòng rất hiếm trong văn chương từ đó đến nay. Cái nghèo ở Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao, ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở Kim Lân khiến ta khiếp sợ, rụng rời.

Nó hiện lên thành màu: xanh xám của da người sắp chết, đen kịt đầy trời của các đàn quạ. Thành mùi: gây gây của xác người, khét lẹt của những gì đốt lên ở nhà có người chết. Thành tiếng: thế thiết của quạ trên những cây gạo, hờ khóc gió đưa tận vào nhà, văng vắng như từ dưới âm ty. Cuộc sống khắp nơi, cuộc sống ở xóm ngụ cư đều bị bao vây trong những màu, những mùi, những tiếng thê lương ấy. Chưa chết thì ủ rũ, hốc hác, thở than tuyệt vọng. Đến như Tràng to lớn, lưng rộng như lưng gấu cũng chỉ đi từng bước một, đầu chúi về đằng trước như bị những lo lắng đè hẳn người xuống. Cô con gái nhanh nhẩu, táo tợn, mới mấy hôm đã tả tơi, gầy sọp, xám xịt. Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, lại là hiện thân đầy đủ nhất của cái đói, cái chết truyền kiếp của nông thôn. Không gian toàn điêu tàn, rữa nát, cái chết lan tràn nơi nơi. Cái sống chỉ còn thoi thóp, leo lét.

Vậy mà một chuyện trái đời đã xảy ra: chuyện lấy vợ lấy chồng. Chẳng theo lễ nghi nào cả. Cô gái đói lâu ngày, Tràng mời cô ăn mấy bát bánh đúc, Tràng bảo có về thì về cùng về và cô theo. Hoàn cảnh là ngược đời: lấy vợ lấy chồng ít ra là lúc đời sống đang bình thường, lúc ăn nên làm nổi như như mẹ Tràng nói, chứ đâu trong cơn đói chết này, bản thân mình cũng chưa chắc qua khỏi. Việc trọng đại cho đời người ấy lại xảy ra nhanh chóng ngoài sự tưởng tượng.

Cái đói cái chết bám theo quyết liệt với tất cả sức hủy diệt của nó. Tưởng như thế, đôi vợ chồng này chỉ đưa nhau đến chỗ chết. Nhưng không, họ vẫn trụ được, hơn thế, lại vượt lên chiến thắng với một sức sống mãnh liệt phi thường và sức sống ấy đã tạo ra sự biến đổi kì diệu. Tất cả đều khác. Trẻ con khác, người lớn khác, Tràng khác, bà cụ cũng khác. Còn cô gái? Chính tác giả đã gửi sức sống vào cô gái. Nó tỏa ra từ cô, cô làm mọi thứ thay đổi đột ngột, lạ lùng, làm nổi bật lên trên cái phòng âm u rùng rợn của cái đói, cái chết kia, cái sáng tươi, cái ước mơ đổi thay số phận cho mọi người, cho mình. Cô là vợ nhặt nhưng lại là một hào quang, một luồng khí ấm tiêu biểu cho sự sống trường cửu, mãnh liệt và mầu nhiệm.

Cô vợ ấy, nàng dâu ấy không chỉ biến đổi mình mà quan trọng hơn và sâu sắc hơn là đã thổi luồng gió lành đánh thức sức nóng cho mọi người, mọi nơi, đem lại sự sống ngay trong cái đói cái chết.

Cô vừa xuất hiện bên cạnh Tràng ở đầu xóm, cả xóm như sống dậy. Nhà cửa lúp xúp, tối om bỗng rộn ràng lên. Trẻ con ủ rũ không buồn nhúc nhích đã thoắt chạy theo Tràng và tình ranh như thế nào lại reo lên thích thứ “chông vợ hài”, người lớn kéo nhau ra cửa, mặt mày đang u tối bồng rạng rỡ hẳn lên, kẻ dò đoán, kẻ than thở và tỏ lòng thương cảm, xôn xao trước cảnh người đàn bà thẹn thẹn hay đáo để.

Nói gì Tràng! Bắt đầu là đùa vui lối nông dân trẻ trung. Đến khi thấy cô gái sau mấy hôm đã xám xịt, bay hết màu sống, anh mời, cô ăn liền liền, không kịp thở như đã đói lâu, anh nửa đùa nửa thật lửng lơ có về thì cùng về, cô theo thật. Anh hơi chợn nhưng chặc lưỡi: Kệ. Mọi sự tình bắt đầu từ cái kệ này. Trước hết là một suy nghĩ nghiêm túc rất nhân tình từ đáy sâu lòng anh. Người đàn bà ấy đã cuốn anh từ đùa vui chuyển qua tình thật, Tiếp một sức sống mới cho lòng anh.

Bà mẹ anh cũng như có nước cam lồ rưới vào, hóa khác hẳn. Bà như trẻ lại, vỗ về con dâu, ngọt ngào một u hai u, một con hai con, rồi tíu tít nhưng dự định,nào ngăn riêng buồng cho đội vợ chồng, nào mua gà nuôi, nào lúi húi giẫy cỏ sân, nào đon đả tươi cười với nồi cám khuấy mà bà gợi là chè đem ra đã vợ chồng mới và cuối bữa cơm tân hoen chỉ cháo loãng và muối hột này trên cáu mẹ rách, một bữa con không gì thê thảm hơn. Ôi, tấm lòng của những bà mẹ! Sao nó bao la thế. Chỉ có mấy lời phải chăng, thực tế từng trải cả một đời với giọng nói đẫm tình thương đem bày tỏ với cô gái là thay thế tất cả mọi nghi lễ, giải tỏa hết mọi bần thần mặc cảm của cô, đã là mẹ con, nàng dâu mẹ chồng hòa hợp, đằm thắm nghĩa tình. Bữa cháo đã thành bữa tiệc. Chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng.

Sự sống đã thách thức, đối mặt với cái chết, cái đói và đã đàng hoàng chứng tỏ là bất diệt, lực lưỡng và mầu nhiệm. Chỗ sâu của dụng ý người viết là đó. Mời đầu là tối sầm, kết thúc là bừng bừng thắm đỏ, nén sâu sức mạnh một đằng, tí tách hóm hỉnh đằng khác trong giọng điệu, đảo trước ra sau cho lạ lùng thêm câu chuyện ở kết cấu, lặng lẽ gài cô gái vào vai kì diệu… kĩ cho cùng đều là nhằm tô đậm dụng ý tư tưởng nghệ thuật ấy.

Đề 4: Phân tích tình huống truyện trong Vợ nhặt của Kim Lân.

Trong Vợ nhặt của Kim Lân, tình huống truyện đã giúp nhà văn xây dựng, bộc lộ sâu sắc tính cách và tâm lí nhân vật. Đồng thời giúp ông bộc lộ tư tưởng và những điều mà bản thân ông muốn gửi gắm cho bạn đọc. Truyện cũng nhờ thế mà hấp dẫn hơn.

Tình huống của Vợ nhặt được thể hiện ngay ở tên truyện. Một anh nông dân “nhặt” được vợ.  Mà nào anh ta có bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân ngụ cư. Vậy mà chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về.

Sự hấp dẫn của tình huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây ngạc nhiên cho mọi trường trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ – mẹ Tràng, và cho chocar bản thân Tràng – kẻ đã “ nhặt” được vợ: “Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán.”. Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “cười lên rung rúc”. Người lại lo giùm Tràng: “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau qua được cái thì này không?”.

Bà cụ Tứ hiểu tình cảm con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy có người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?… Sao lại chào mình bằng u?… Ai thế nhỉ?”. Bà cụ làm sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy mà có vợ được. Và lại trời làm đói khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì nuôi vợ con?

Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn có vợ rồi đấy ư?”.

Đúng là một tình huống lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc nhiên đâu. Cái lí do dễ hiểu biết bao. nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp biết bao! Điều này, bà cụ Tứ gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới thật sự thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc tròng nà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm cái bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.”.

Lòng bà cụ thật là ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. MỪng vui vì dù sao con mình đã có vợ, điều mà bổn phận làm mẹ như bà đã không lo nổi cho con: “Ừ, thôi thì cái con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Nhưng lo buồn, tủi nhục vì : “Người ta có gặp bước khó khăn, đối khổ này, người ta mới lấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”.

Như thế là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu sắc tâm trạng, tính cách các nhân vật. Bà cụ Tứ do từng trải nên tâm lí diễn biến phức tạp hơn. Còn Tràng thì lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chợn”, nhưng liền sau đó chậc lưỡi “mặc kệ!”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “ hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh vênh lên tự đắc với mình”. Niềm vui ắt hẳn nỗi lo, đến nỗi anh ta không hiểu được tại sao vợ mình lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc!”.

Bỗng nhiên “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và đột ngột. Mãi đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lơ lửng như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm đối với cái tổ ấm của mình cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi người, với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”.

Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng, là sự phó thác cả cuộc đời mình cho người đàn ông mà mình yêu quý. Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ là một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc là theo ngay về. Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể “nhặt” được nơi đầu đường, xó chợ…

Có thể khẳng định, truyện ngắn Vợ nhặt là một thành công của Kim Lân. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông cũng là đỉnh cao của truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Người đọc nhớ mãi một Vợ nhặt với tình huống truyện độc đáo và chất nhân văn cao cả của tác phẩm.

Đề 5: Phận tích đoạn cuối Vợ nhặt – Ý nghĩa hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở cuối truyện

Tình huống truyện Vợ nhặt đã đặt nhân vật bên nanh vuốt của cái chết. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm với mùi khói, khét kẹt của những đống rấm nhà có người chết lan tới và tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to nhỏ… Nhưng qua tâm trạng các nhân vật, nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống, vẫn hi vọng ở tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng chia sẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có trách nhiệm với đời…

Đó là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ rõ rệt “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Vẫn tồn tại dai dẳng ở những con người luôn sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đấu tranh để sinh tồn. Niềm tin tưởng lạc quan ấy cuối cùng cũng gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh bay phấp phới báo hiệu cuộc đời vĩ đại của dân tộc đang tới.

Bà cụ Tứ càng để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ trong hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi bùi ngùi, thương xót: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, nhưng mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Nhưng, bà thực sự rất vui mừng khi con trai bà đã yên bề gia thất: “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tình khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên.”. Rồi trong bữa cơm, cả ba mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để hướng đến một tương lai tươi đẹp hơn: “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tình rằng cái chỗ đều bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”.

Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên món chè cám đã nhắc họ về thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám mới cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa, bắt họ phải sống cuộc sống loài vật, nhưng nào có dập tắt được phần “Người” đáng quý trong mỗi con người. Cái phần “Người” sẽ giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn này.

Sẽ thật thiếu sót nếu bỏ qua hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng nhau đi phá kho thóc, khi nói đến những kẻ hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống. Đó là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chuẩn bị từ trước. Nó là dấu hiệu của “bước đường cùng”, không còn cách nào giành sự sống nào khác, phải vùng dậy đấu tranh, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy “ân huệ, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu” bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc lúc này, sự sống trở thành mục đích chung của mọi người; họ đấu tranh, đoạn tuyệt dứt khoát với cái chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ tiếp nối dòng người kia, giành sự sống của mình.

Đề 6: Tâm trạng của Tràng khi “nhặt” được vợ trong truyện ngắn Vợ nhặt.

Ở bước đường cùng, người ta sinh ra liều lĩnh, điều đó thực đúng lắm thay! Hành động nhân đùa làm thật của cô gái theo chân Tràng về nhà, xét đến cùng, là một hành động liều lĩnh. Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào dịp chở thóc lên tỉnh. Với Tràng, chị ta chẳng để lại trong anh một ấn tượng gì. Bởi thế, lần thứ hai gặp lại, Tràng phải mất một thời gian mới nhận ra và cũng như nhiều nhân vật khác trong các sáng tác của Nam Cao, cái dạ dày đã chiến thắng khối óc và con tim: được Tràng đãi, chị ăn liền một chập bốn bát bánh đúc.

Cái đói đã đầy lùi ý thức nhân cách, sĩ diện. Quên cả thẹn thùng, người đàn bà không tên ấy cắm đầu ăn “không chuyện trò gì”. Khi thấy Tràng ngỏ lời, không cần suy nghĩ, chị cũng đi theo một cách dễ dàng, “vô tư lự”. Thế mới hay, cái đói ghê gớm biết chừng nào. Và hai cái “liều” gặp nhau đã tạo nên một gia đình thời tao loạn. Điều đáng chú ý là ở đây, khi cùng người “vợ nhặt” về nhà, Tràng đã bỏ ra hai hào để mua một chai dầu, điều này có ý nghĩa là anh đã thắp lên một ngọn lửa trong cuộc sống tăm tối của mình, đem lại chút ánh sáng cho gia đình cũng như dân làng. Điều này chi phối toàn bộ văn phẩm. Cũng như cuộc “hôn nhân” của Tràng, những người đổi mới thực sự không nghĩ đến cái chết, mà chỉ nghĩ đến cái sống.

Khi Tràng cùng vợ về nhà, cuộc sống trước mắt của họ không kém phần thảm hại: căn phòng vắng teo, rúm ró; niêu bát, áo xống bừa bộn,… Ôi, lấy vợ cưới chồng, yên bề gia thất! Việc lớn một đời, hạnh phúc trăm năm! Vậy mà, họ bị bủa vây bởi sự nghèo đó chết chóc. Nhưng, sự sống là bất diệt, chăng bao giờ chán nản. Trong cái chết, sự sống vẫn còn tồn tại, tìm chỗ sinh sôi nảy nở. Tất cả thật dữ dội, mà ý nghĩa thì lớn lao: sự sống luôn tồn tại, bất chấp cái chết…

Việc hai người xa lạ bỗng gắn bó với nhau trong cơn đói kém, chứng tỏ quyết tâm nghĩ đến sự sống của hai người, đem lại cho họ – trước hết là cho Tràng một niềm vui lớn lao. Trong truyện ngắn, hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng, khi đã có vợ. Tình yêu của hai người, có sức cải biến thật lớn: “Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát đe dọa… Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy…”. Đúng vậy. Niềm vui lớn nhất đời anh đã thành sự thực: có vợ. Cái “mới mẻ”, “lạ lẫm” ấy là tinh thần trách nhiệm của một người chủ gia đình sẽ phải léo lái con thuyền nhà – gia đình qua thời điểm khó khăn, vươn lên hoàn cảnh khắc nghiệt để xây dựng cuộc sống. Tràng bỏ sau lưng tất cả những tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu…

Chỉ sau một đêm “nên vợ, nên chồng”, Tràng thấy mình có sự đổi khác: “Trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.”. Chuyện “nhặt được vợ” của Tràng ngỡ như đùa nhưng lại là sự thật; bao nhiêu sự sống, sinh khí trở lại với Tràng, với gia đình sau khi anh có vợ. Và cũng từ buổi “sáng hôm sau đó”, dường như tất cả sự chết chóc không còn tồn tại nữa, Tràng chỉ nghĩ đến việc gây dựng cuộc sống, hừng về sự sống mà tạo lập hạnh phúc: “Bỗng nhiên hắn lại thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa, che nắng”

Giá trị nhân đạo sâu sắc chính là ở đấy!

Đề 7: Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt.

Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta mà tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút nhân đạo của Kim Lân thể hiện ở sự phát hiện. Khẳng định vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu cái bề ngoài xác xơ vì đói khổ của nhân vật. Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ và vợ Tràng, Tràng), bà cụ Tứ – mẹ Tràng – là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng đã thể hiện nổi bật nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động trong bao tác phẩm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã diễn tả rất thành công trạng thái tâm lí đó.

Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình đã lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong, Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm miệng ăn. Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình bà ngạc nhiên , càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn bà chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào bằng u.”, “Nhà tôi mới về làm bạn với tôi đấy u ạ!”. Bà ngạc nhiên đến mức không tin được vào mắt và tai mình nữa: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhòe vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhòe ra thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay nhìn con tỏ ý không hiểu.”.

Khi vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà liên tưởng đến bao cơ sự “oái ăm”, “ai oán”, “xót thương” cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa. Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi cho vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói “như ngả rạ” lại có người theo con trai mình về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó khăn này. “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”, “Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…”, “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”, “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân .”. Bao nhiêu tình thương chân thành tha thiết của người mẹ thể hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy. Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: “ Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng ngổn ngang trong lòng.

Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo lắng cho cái gia đình nghèo túng của bà giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao… Bà chấp nhận cái “hạnh phúc”  éo le của gia đình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà chỉ khuyên con, khuyên con dâu thương yêu nhau, ăn ở hòa thuận với nhau để cùng vượt qua cơn khốn khó. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời, có tấm lòng sâu thẳm đối với con mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin.

Niềm tin trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của bà cụ. Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắn làm cho con vui. Vui trong Ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá,… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”, “Bà lão toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này.”. Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch vườn, “cái mặt beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa.”. Vui trong bữa ăn cơm sáng, bữa con đầu tiên có con dâu đó là một bữa “tiệc” với món cháo loãng và món “chè khoán” đắng chát – một bữa ăn ngày đói rất thảm hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu. Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo đã đầy đọa mẹ con bà. Bà vẫn cố tạo ra không khí hòa thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà… tươi cười đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.

Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp – dưới ngòi bút nhân đạo của Kim Lân – nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của Vợ nhặt đã chạm đến nơi sâu thẳm nhất của lòng người, bắt đọc giả phải khóc, phải cười, phải sống cùng nhân vật của mình.

Đề 8: Cảm nhận về nạn đói và cảm nhận về nhân vật Tràng khi nhặt được vợ

Như nhiều tác phẩm trước đó viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận lương thiên cùng khổ. Ông không dành ra nhiều trang viết mô tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ – người chết đói như ngả rạ – mà chú tâm thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bè ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Cốt truyện “Vợ nhặt” thật đơn giản: một anh chàng nghèo khó – tên Tràng – độc thân, chỉ với mấy câu “hò chơi cho đỡ nhọc”, đã có được cô vợ “vợ nhặt” – đang sống dở chết dở vì đói. Họ thành vợ chồng giữa cảnh “tối sầm lại vì đói khát”. Đêm tân hôn của họ âm thầm trong bóng tối, giữa tiếng hờ khóc tỉ tê của những người nhà có người chết đói theo gió đưa lại. Bữa cơm cưới của đôi vợ chồng trẻ và người mẹ già chỉ có cháo loãng, muối hột, nhưng ăn uống lại rất ngon lành, trong hồi trống thuế. Ba mẹ con vừa ăn cơm, vừa bàn chuyện Việt Minh phá kho thóc chia cho dân nghèo. “Trong óc Tràng, vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.

Ngay từ đầu, câu chuyện đã hiện lên đượm màu sắc tang thương tử khí: “ Cái đói tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiến lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và năm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Khổng buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không có gì ảm đạm hơn bức tranh quê ấy. Trong khi trước đó không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về “cái xóm ngụ cư tồi tàn ấu lại xôn xao lên được một lúc” còn bây giờ, cái đó đã đè nặng lên vai mỗi người; ngay cả bọn trẻ – những đứa bé hồn nhiên, vô tư nhất cũng mất đi sự tự nhiên, ngây thơ của mình, chúng ủ rũ, không buồn nhúc nhích…

“Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều, người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa”. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, xây dựng gia dựng gia đình, sinh con đẻ cái để tiếp nối sự sống. Giọng văn lúc này thật dồn nén và gây cảm xúc mạnh, mộc mạc lôi cuốn: “Mặt hắn có vẻ gì phởn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lấp lánh”. Đọc đến đây, chúng ta không thể không nghĩ đến những trang bi kịch của Secxpia hay Stăngđan. Tuy nhiên, bi kịch ở đây đã vượt lên sự thông thường vẫn có: nó cũng không phải là “hiện thân của sự ngu dốt” như Mác nói, mà trở nên cao cả “đẹp lạ thường”. Đó là biểu hiện cao nhất của sự chiến thắng, vượt lên trên thực tại chết chóc, đen tối để hướng tới sự sống, niềm tin, ánh sáng. Với chi tiết Tràng cùng vợ đi về nhà, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học nước nhà cũng có thêm một tiếng nói mới, có sức mạnh.

Chuyện lấy vợ của Tràng, trước hết là một chuyện lạ mà thú vị. Điều ấy khiến người dân ở xóm ngụ cư hết sức tò mò. Từ trong sâu thẳm tâm hồn những dân làng, le lói lên một chút niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Có thể nói, trong phút chốc, khi Tràng cùng với cô “vợ nhặt” đi về làng, cái chết, sự ảm đạm thâm u nơi xóm ngụ cư được đẩy sang một bên. Xóm ngụ cư đang ở trên vực thẳm của cái chết, bỗng hé lên hi vọng của sự sống.

Ở bước đường cùng, người ta sinh ra liều lĩnh – điều đó thực đúng lắm thay! Hành động nhân đùa làm thật của cô gái theo chân Tràng về nhà, xét đến cùng, là một hành động liều lĩnh. Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào cái dịp chở thóc lên tỉnh. Với Tràng, chị ta chẳng để lại trong anh một ấn tượng gì. Bởi thế, lần thứ hai gặp gặp lại, Tràng phải mất một thời gian mới nhận ra. Cái đói khát đã chiến thắng khối óc và con tim: được Tràng đãi, thị ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Cái đói đã đẩy lùi ý thức nhân cách, sĩ diện. Quên cả thẹn thùng, người đàn bà không tên ấy cắm đầu ăn “không chuyện trò gì”. Khi Tràng ngỏ lời, không cần suy nghĩ, chị đã đi theo một cách dễ dàng, “vô tư lự”. Thế mới hay, cái đói ghê gớm biết chừng nào. Và hai cái “liều” gặp nhau đã tạo nên một gia đình thời tao loạn. Điều đáng chú ý ở đây là ở điều này có nghĩ là anh đắp lên một ngọn lửa trong cuộc sống tăm tối của mình, đem lại chút ánh sáng cho gia đình cũng như dân làng. Điều này chỉ phối toàn bộ văn phẩm. Cũng từ cuộc “hôn nhân” của Tràng, những người đời mới thực sự không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.

Khi Tràng cùng vợ về nhà, cuộc sống trước mắt không kém phần thảm hại, căn nhà vắng teo, rúm ró; niêu bát, áo xống bừa bộn,… Ôi, lấy vợ cưới chồng, yên bề gia thất! Việc lớn một đời hạnh phúc trăm năm! Vậy mà họ bị bủa vây bởi cái nghèo đói chết chóc. Nhưng, sự sống bất diệt, chẳng bao giờ chán nản. Trong cái chết, sự sống vẫn tồn tại, tìm chỗ sinh sôi nảy nở. Tất cả thật dữ dội, mà ý nghĩa thì lớn lao; sự sống luôn tồn tại, bất chấp cái chết,…

Việc hai người xa lạ bỗng gắn bó với nhau trong cơn đói kém, chứng tỏ quyết tâm nghĩ đến cái sống của cả hai, đem lại cho họ – trước hết là Tràng một niềm vui lớn lao. Trong truyện ngắn, hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng, khi đã có vợ. Cuộc hôn nhân của hai người, có sức cảm biến thật lớn.

“Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát đang đe dọa… Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tính nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì đó mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy…”. Đúng vậy, niềm vui lớn đời anh đã thành sự thực: có vợ. Cái “mới mẻ”, “lạ lẫm” ấy là tinh thần trách nhiệm của một người chủ gia đình sẽ phải lèo lái con thuyền nhà – gia đình qua thời điểm khó khăn, vươn lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt để xây dựng cuộc sống. Tràng bỏ sau lưng tất cả những tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu…

Chỉ sau một đêm “nên vợ, nên chồng”, Tràng thấy mình có sự đổi khác: “Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải…”. Chuyện được “vợ nhặt” của Tràng ngỡ như đùa nhưng lại là sự thật; bao nhiêu sự sống, sinh khí trở lại với Tràng, với gia đình sau khi anh có vợ. Và cũng từ buổi “sáng hôm sau đó”, dường như tất cả sự thực chết chóc không còn tồn tại nữa, Tràng chỉ nghĩ đến sự gây dựng cuộc sống, hướng về sự sống ,mà tạo lập hạnh phúc: “Tràng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bấy giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này”…

Có thể nói, đó là biểu hiện cao nhất của tinh thần hướng về sự sống, quên đi cái chết đang bủa vây.

Đề 9: Phân tích giá trị nhân đạo của truyện Vợ nhặt của Kim Lân.

Vợ nhặt là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đó đang diễn ra kinh khủng, người chết đói đầy đường.

Truyện ngắn đã phản ảnh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện Vợ nhặt là giá trị nhân đạo.

Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận đói năm Ất Dậu – 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện.

Truyện Vợ nhặt đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người nghèo trong trận đói năm Ất Dậu. Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên “xanh xám như những bóng ma” nằm ngổn ngang khắp các lều chợ. Quạ đen đậu trên những ngọn cây bay vù lên “như những đám mây đen” trên nền trời. Mùi gây của xác người vẫn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào cũng ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường!

Đói và chết đó đâu chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà “vắng teo đứng rúm ró” trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Cửa nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng “nén một tiếng thở dài”. Bà cụ Tứ “mặt bủng beo u ám”. Anh cu Tràng “bước mệt mỏi”, cái đầu “trọc nhẵn chúi về đằng trước” với bao lo lắng chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng nó “ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích”. Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái “ngồi yêu ra”. Đặc biệt là nhân vật “thị”, cái đói đã cướp đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần “tả tơi như tổ đỉa”. Thị “gầy sọp hẳn đi”, khuôn mặt lưỡi cày “xám xịt”, chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chỉ nghe Tràng nói “muốn ăn gì thì ăn”, thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe “rích bố cu”, hai con mắt “trũng hoáy” của thị tức thì “sáng lên”. Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.

Cái xóm ngụ cư càng về chiều “càng xơ xác, heo hút”, nhà cửa “úp súp, tối om”, những khuôn mặt “hốc hác u tối”. Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể “nhặt” được. Thị lấy chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có “quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau”. Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới “khép nép”, “cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Tối tân hôn “tiếng khóc tỉ tê” của những gia đình có người mới chết đói vọng đến thế thiết não nùng. Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi “dồn dập, vội vã”. Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp bắt trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Truyện ngắn Vợ nhặt đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt được vợ và những tình tiết xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu “tầm phơ tầm phào”, Tràng đãi thị 4 bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được vợi Nhặt được vợ nhưng hắn cũng phải liều: “Chậc, kệ!”. Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn “đèo bòng”. Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng “phởn phở khác thường”. Hắn “tủm tỉm cười nụ”. Hai mắt “sáng lên lấp lánh”. Có lúc cái mặt hắn “cứ vênh lên tự đắc với mình”.

Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông “hay đáo để”. Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì, bị thị “phát đánh đét” vào lưng với câu mắng yêu: “Khỉ gió”. Tràng nghểnh cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Những tình tiết ấy rất hay, nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.

Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới: “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là “con”. Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…”. Qua đó, chúng ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai họa, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…”. Người đọc cảm thấy ngọn đèn “vàng đục” chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh phúc ấm no.

Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong truyện Vợ nhặt. Bà cụ Tứ gọi là “chè khoán… ngon đáo để”. Bà tự hào nói với hai con là “xóm ta khối nhà còn chả có cảm mà ăn đấy”. Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vô cùng “đầm ấm hoà hợp” hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm nhiều thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ không bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo cám “đắng chát” mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người dân quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình cảm của họ. Ông đã làm cho những thế hệ mai sau biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ,… mà không một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh được?

Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người dân cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên: “chông vợ hài”. Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy “có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”. Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh “rạng rỡ hẳn lên”. Vợ Tràng trở thành người đàn bà “hiền hậu đúng mực”. Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy “êm ái lừng lớ”. Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn “vẫn ngỡ ngàng như không phải”.

Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạn. Hai cái ang nước được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. TRàng cảm thấy hắn đã “nên người”, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con say này!

Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình “lá cờ đỏ bay phấp phới”. Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện Vợ nhặt không chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.

Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn màng nhưng đáng quý và đáng trân trọng biết bao! Cổ kim đông tâu đã có ai nhặt được được vợ? Cái đói do bọn Nhật, Pháp gây ra đã cướp đi tất cả, tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thật được khẳng định: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết. Cái vị đời ngọt ngào và tình người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện Vợ nhặt mà chúng ta trân trọng.

Đề 10: Phân tích Vợ nhặt bữa cơm ngày đói và hình ảnh người mẹ nghèo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

Không phải là nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng bà cụ Tứ – mẹ anh cu Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm sâu sắc hơn. Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói deo dắt, Kim Lân muốn khắc họa số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám, thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy. Sau tình huống nhặt được vợ, anh cu Tràng, chị vợ và người mẹ dường như trở thành người khác. Và bà cụ Tứ – người mẹ nghèo đã bộc lộ tấm lòng sâu sắc của một người mẹ suốt đời bị những buồn đau, lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời. Bởi thế nhân vật phụ này đã tạo nên một phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.

Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong tình chi tiết. Bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào”, “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Ta gặp lại dáng hình gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người đàn bà quen thuộc. khi thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên. Hàng loạt câu hỏi được đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào đứng ngay đầu giường con trai mình thế kia?”, “Sao lại chào mình bằng u?”, “Ai thế nhỉ?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về một người vợ! Băn khoăn mãi, khi hiểu ra “bà lão cúi đầu nín lặng”, “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.” Nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lai: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ ai khó ba đời?”. Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là đám cưới đã xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón. tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Bà khóc “nước mắt cứ chảy ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của bà. Bà dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau – “toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”, Bà say sưa với các con những dự định cho tương lai…

Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng, vui vẻ khi bà lão “lễ mễ” bưng nồi chè cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con mà bảo: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái tim người mẹ nông dân nghèo…

Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra biết bao cơ sự”, “từ giọt nước mắt tủi phận nghèo, thương con dâu đến nỗi lo lắng “không biết chúng có nuôi nhau sống nổi qua thì đói không” đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai…, tất cả đan xen, hiển hiện dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, thể hiện một cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói. Lối lo xa cho tương lai, lối nhìn người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay duy tâm của người già: “… chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được”, tưởng đọc lên ta không thể không chắc chắn đó là lời của bà cụ Tứ. Quả là không thể lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẩn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn. Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lí vừa khách quan ghi lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cực khổ dằng dặc của mình “để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “liệu chúng nó hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”. Nghệ thuật “biện chứng pháp tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lí người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống phong phú đến mức độ nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài tình đến vậy. Vợ nhặt không còn là những trang văn, đó là những trang đời – những trang đời thấm đẫm những giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho tương lai và rạng rỡ trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà còn rung cảm sâu sắc trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ.

Qua Vợ nhặt, Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo trong trận đói khủng khiếp 1945. Người mẹ nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng yêu thương và hết mình vì con – người mẹ Việt Nam truyền thống. Đằng sau bà cụ Tứ, ta thấy thấp thoáng những Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần,… những người sống tận lòng cho những người thân yêu của họ.

thuyết minh về tác phẩm Vợ nhặt
Phân tích Vợ nhặt bữa cơm ngày đói và hình ảnh người mẹ nghèo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Đề 11: Nét đặc sắc về nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt Kim Lân.

Trước hết, tác giả đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: anh Tràng làm nghề kéo xe, xấu xí, thô kệch chăng ai thèm lấy, bỗng dưng “nhặt” được vợ một cách thật dễ dàng, nhanh

Trong bối cảnh đói khát lúc bấy giờ, Tràng có vợ quả thật là một tình huống éo le: vui, buồn lẫn lộn. Lúc này. Tràng nuôi thân mình và mẹ già còn rất khó khăn, huống hồ tự nhiên lại thêm một miệng ăn nữa, biết lấy gì nuôi nổi nhau? Nhưng Tràng xấu xí, ế vợ lại lấy được vợ dễ dàng thì không xem như là điều may mắn. Tình huống oái oăm này khiến cho những người trong xóm ngụ cư, thậm chí Tràng và cả mẹ Tràng nữa cũng phải ngạc nhiên. Mọi người lo lắng cho tương lai chồng Tràng: “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.

Hạnh phúc của cặp vợ chồng mới lấy nhau của gia đình bà cụ Tứ cứ phải diễn ra trong âm hưởng thể thảm của sự chết chóc. Sự khốn khó còn được nhà văn đặc tả qua bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới thật tội nghiệp: Ba mẹ con ăn món cháo cảm chát xít, họ ngồi ăn mà không nỡ nhìn nhau.

Tóm lại, Kim Lân đã tạo được một tình huống giàu ý nghĩa, có tác dụng làm nổi bật giá trị từ tưởng của tác phẩm. Dường như mọi chi tiết đều xoay quanh tình huống ấy, trong một kết cấu chặt chẽ.

Ngoài ra, Kim Lân còn chứng tỏ khả năng phát hiện và diễn tả tâm lí nhân vật khá sắc sảo. Điều đó thể hiện qua việc nhà văn xây dựng nhân vật bà cụ Tứ và nhân vật Tràng. Lúc thì ông diễn tả tâm lí qua những biểu hiện bề ngoài (qua cử chỉ, lời nói, nét mặt… của nhân vật), lúc thì tác giả miêu tả trực tiếp những ý nghĩ sâu kín trong nội tâm nhân vật. Chẳng hạn, nhân vật Tràng ở đoạn đầu tác phẩm, khi anh ta đưa vợ về nhà vào một buổi chiều ảm đạm. Tâm lí ngỡ ngàng, phấn chấn của một anh nông dân quê kệch, nay bỗng “nhặt” được vợ được tác giả miêu tả qua cử chỉ và nét mặt: “Hãn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Vợ chồng Tràng đi bên nhau ngượng ngùng trước bao cặp mắt tò mò của dân xóm ngụ cư, Tràng muốn nói gì cho có vẻ thân mật tình tứ, nhưng vụng về lúng túng “chẳng biết nói như thế nào”. Vì e thẹn, ngượng nghịu nên cuộc đối thoại giữa Tràng và cô vợ mới thật rời rạc, toàn nhát gừng cộc lốc, không có chuyện nào đến đầu, đến đũa… Bên cạnh đó, nhà văn trực tiếp lột tả diễn biến nội tâm nhân vật: “Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những ngày tháng trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi theo bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt tựa hồ như có bàn tay vuốt ve trên sống lưng.”.

Việc nhà văn phát hiện và miêu tả sắc sảo tâm li khiến cho một số nhân vật trong truyện sống động, hấp dẫn người đọc.

Bên cạnh đó, không thể không nói đến giọng văn mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ trong truyện được chọn lọc kĩ lưỡng, rất gần với khẩu ngữ và có giá trị tạo hình. Điều ấy khiến cho thiên truyện có được sức gợi đáng kể (vẻ mặt phởn phơ, dãy phố úp súp, bước chân ngật ngưỡng, người cong tớn, chạy ton ton, cười hềnh hệch,…).

Hơn nữa, tên truyện là Vợ nhặt cũng bao hàm nhiều ý nghĩa. “Nhặt” được vợ chứng tỏ sự rẻ rúng của thân phận con người. Thì ra nạn đói năm 1945 khủng khiếp đã biến con người thành như cái rơm cái rác có thể “nhặt” được ở bên đường. Tựa đề này được chọn (Cũng giống như tựa đề Đôi mắt trong truyện ngắn của Nam Cao) phù hợp với chủ đề câu chuyện, người đọc thật khó tìm thấy một tựa đề khác thay thế.

Với nội dung tư tưởng sâu sắc có giá trị nhân bản, với nghệ thuật truyện đặc sắc, tác phẩm Vợ nhặt xứng đáng là một trong những truyện ngắn hay nhất viết về đề tài nông thôn.

Đề 12: Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống truyện trong Vợ nhặt

Từ đầu năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nhân dân Việt Nam lâm vào tình thế một cổ hai tròng, Pháp tăng cường vơ vét, bóc lột, tích trữ lương thực tiếp tục thực hiện chiến tranh. Nhật bắt nhân dân miền Bắc nhổ lúa trồng đay. Nạn vỡ đê mất mùa liên tiếp xảy ra. Đến mùa xuân năm Ất Dậu (1945), nhân dân ra lâm vào nạn đói khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử, riêng ở đồng bằng Bắc Bộ đã có tới hơn hai triệu người bị chết đói. Họ chết trên đường tha phương cầu thực, chết thê thảm bên gốc cây, hè đường, quán chợ,… Trong hoàn cảnh đó, Mặt trận Việt Minh đã kêu gọi phá kho thóc của nhật cứu đói cho dân nghèo và pháp động nhân dân vùng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám 1945.

Bằng tài năng đích thực và một trái tim gắn bỏ, xót thương đối với những kiếp người nông dân khốn khổ lam lũ, Kim Lân đã đóng góp một truyện ngắn có chiều sâu tư tưởng và giá trị nghệ thuật đặc sắc: Vợ nhặt.

Nội dung truyện Vợ nhặt hết sức đơn giản. Tác phẩm được xây dựng theo diễn biến tâm lí nhân vật. Đầu tiên Kim Lân miêu tả cảnh Tràng, một nông dân thô kệch đưa vợ về nhà, tiếp theo, nhà văn để cho Tràng nhỏ lại việc mình “nhặt” được vợ, và cuối cùng là tâm trạng của mọi người trong gia đình, đặc biệt là tâm trạng của Tràng và bà cụ Tứ nhân việc gia đình có thêm một thành viên mới Cốt truyện đơn giản, nhưng Vợ nhặt có nội dung tư tưởng sâu sắc.

Trước hết, qua truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn phản ánh sinh động tình cảnh khốn khổ của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, dưới chế độ thực dân phong kiến và tình cảm hướng về cách mạng của họ.

Ngay từ trang đầu tiên, nhà văn đã dựng lên một bức tranh ảm đạm: Cái đói làm thay đổi cuộc sống vốn bình lặng của xóm ngụ cư. Cái đói làm cho bọn trẻ con “ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích”. Rộng hơn, cái đói khiến cho nhiều người “xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Bao trùm lên cái xóm ngụ cư này là một không khí chết chóc: “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường. Không khí vẫn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Lại thêm mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. Người ta nghe thấy tiếng ai “hờ khóc, tỉ tê lúc to lúc nhỏ” và tiếng quạ gào lên “từng hồi thê thiết”.

Ngoài ra, từ câu chuyện anh Tràng tự nhiên “nhặt” được vợ (người đàn bà dễ dàng theo anh về làm vợ trước hết vì đói quá; bốn bát bánh đúc thay cả cho cheo cưới); đến chuyện nồi cám của bà cụ Tử nấu đãi nàng dâu… tất cả đều nói lên sự khủng khiếp của nạn đói này. Mọi người trong cái xóm ngụ cư khốn khó đều bị nạn đói đe doạ, sống trong không khí thấp thỏm lo âu.

Cuộc sống đã bị cái đói đẩy đến đường cùng tưởng chừng như không còn lối thoát. Nhưng “cùng tắc biến”. Kết thúc câu chuyện, nhà văn để cho người “vợ nhặt” thông báo với mẹ chồng và chồng một tin quan trọng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy”. Nhân đó, Tràng nghĩ đến Việt Minh và trong óc Tràng “vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”.

Trong hoàn cảnh đen tối này, Tràng, nói rộng ra là quần chúng khốn khổ, luôn hướng về cách mạng, vì chỉ có cách mạng (mà biểu tượng là lá cờ đỏ) mới có thể cứu họ thoát khỏi cái chết.

Ở truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã thể hiện một quan điểm nhân đạo sâu sắc và cảm động, phát hiện phẩm chất của con người lao động: dù rơi vào hoàn cảnh hết sức bị đát vẫn hướng tới cuộc sống gia đình, vẫn muốn cưu mang lẫn nhau, và vẫn hi vọng ở tương lai.

Đề 13: Phân tích Vợ nhặt ngắn gọn – Giá trị hiện thực của tác phẩm

Kim Lân là một nhà văn của nông thôn, rất hiểu người nông dân, lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, nên ông đã dựng lên trong Vợ nhặt một bức tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét:

Bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói “bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”, và sau đó là “người chết như ngả rạ”, “thây nằm còng queo bên đường”, “không khí vẩn lên mùi gây của xác người”, rồi “mùi đốt rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt” và “tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya”… Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai.

Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: Ở xóm ngụ cư là “những khuôn mặt hốc khác u tối” trong “cuộc sống đói khát”, “không nhà nào ánh lên ánh đèn, lửa”, đến cả trẻ con cũng “ngồi ủ rũ dưới những xó được không buồn nhúc nhích”. Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu “áo quần rách như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên”… Số phận của họ có khác gì “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”…

Có một hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý nghĩ của Tràng: “cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có là cờ đỏ to lăm”. Đoàn người khi phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ của Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người như Tràng.

Nạn đói khủng khiếp, số phận bi thảm của những người đói và lá cờ cách mạng là những mặt chủ yếu nhất của hiện thực lúc bấy giờ được kim Lân phản ánh bằng những nét bản chất đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm, như chững tích văn học về một sự kiện lịch sử không thể nào quên.

phân tích tác phẩm Vợ nhặt
Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống truyện trong Vợ nhặt

Đề 14: Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân khi sáng tác là đã xây dựng được một tình huống truyện Vợ nhặt độc đáo và hấp dẫn. Hãy phân tích truyện Vợ nhặt để chứng minh cho ý kiến trên.

Đối với nghệ thuật truyện ngắn, tạo ra được một tình huống độc đáo mới lạ làm nổi bật vấn đề, nổi bật tâm trạng, tư tưởng, tính cách của các nhân vật và chủ đề của tác phẩm là một một điều có ý nghĩa then chốt. Một truyện ngắn đặc sắc là nhờ được tổ chức chung quanh một tình huống như thế, và Vợ nhặt của Kim Lân là một trường hợp tiêu biểu.

Vợ nhặt đã tạo ra được một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Đó là tình huống nhân vật Tràng, một anh nhà nghèo xấu xí, dân ngụ cư (bị người làng coi thường), giữa lúc đói khát lại lấy được vợ. Đó là một điều lạ, vì hai lí do: Người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo! Thời biểu đói khát này, người như Tràng, nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ. Nhưng điều tưởng không thể nào có được, lại đã xảy ra, đã trở thành hiện thực. Bởi vì, nếu không phải năm đói, người ta không đói quá, thì ai thèm lấy Tràng. Và đây là “vợ nhặt”, có cheo cưới gì đâu. Năm đói thế nào nào cũng xong, có thế người người như Tràng mới lấy được vợ. Tình huống này dẫn đến sự ngạc nhiên của cả xóm cư ngụ, của bà cụ Tứ và của chính Tràng nữa. Như vậy, tình huống này đã làm cho câu chuyện có thể triển khai, phát triển dễ dàng bằng các các cảnh với chi tiết rất hấp dẫn. Cảnh xóm ngụ cư xì xào bàn tán khi Tràng dẫn vợ về nhà. Cảnh buổi tối bà cụ Tứ gặp người con dâu được anh con trai “nhặt về” trong sự sững sờ này đến sự ngạc nhiên khác… Chuyện có vợ bất ngờ với cả chính Tràng nữa, khiến anh ta không thể nào tin nổi – trong buổi tối dẫn vợ về báo cho mẹ biết và ngay cả sáng hôm sau khi đã vợ chồng.

Tình huống trên, đồng thời hết sức éo le. Đó là chuyện nên vui hay nên buông, nên mừng hay nên lo? Chính điều này lại thúc đẩy cho câu chuyện tiếp tục phát triển để nhà văn có thể khắc họa tâm trạng nhân vật phong phú và tính cách nhân vật rõ nét hơn. Trong cái tính huống hết sức éo le ấy, ta thấy một sự xáo trộn buồn tủi, vui mừng, lo sợ ở trong tâm trạng của mọi người. Người trong xóm ngụ cư mừng cho anh ta và cùng lo cho anh ta, bà cụ Tứ mừng cho con nhưng vừa thương vừa tủi, vừa lo cho con. Chính Tràng cũng vừa vui vừa “chợn”: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại  còn đèo bòng “. Tình huống dẫn đến cái hạnh phúc thật mong manh, tội nghiệp của đôi vợ chồng và bà mẹ nghèo khổ. Hạnh phúc của đôi vợ chồng Tràng và niềm vui của bà cụ Tứ cứ phải diễn ra trong một không khí ảm đạm chết chóc, với những tiếng hờ khóc người chết đói vẳng đưa tới. Hạnh phúc của họ phải diễn ra trong tiếng quạ kêu thê thiết, trong tiếng khóc thảm ấy. Và tiếp đó là bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới thật tội nghiệp: ăn cháo cám. Ăn mà không dám nhìn nhau… Tình huống đó đã tạo cảm hứng, tạo cảnh, tạo tạo chi tiết để nhà văn có thể viết nên những trang thật cảm động về câu chuyện “Vợ nhặt” rất hiện thực và cũng rất nhân đạo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

Tình huống “vợ nhặt” độc đáo và hấp dẫn là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Tình huống ấy không chỉ tạo điều kiện cho câu chuyện triển và phát triển dễ dàng, tốt đẹp, mà còn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề truyện: niềm khát khao tổ ấm gia đình và tình thương giữa con người nghèo khổ ngay trong trận đói khủng khiếp nhất.

Xem thêm:

Kết luận

Dàn ý chí tiết và các bài văn mẫu phân tích Vợ nhặt đa dạng đã được đăng tải đầy đủ tại trang web. Học sinh tham khảo và chuẩn bị bài kỹ lưỡng để có thể phân tích tác phẩm chính xác nhất,

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *