Soạn bài Chữ bầu lên nhà thơ, Kết nối tri thức 10
Soạn bài Chữ bầu lên nhà thơ được The POET chia sẻ dựa chương trình Kết nối tri thức Ngữ văn 10. Trả lời các câu hỏi được đặt ra giúp học sinh có thể tìm hiểu, nắm rõ được thông điệp được truyền tải qua tác phẩm.
Trước khi đọc văn bản Chữ bầu lên nhà thơ
Chữ bầu lên nhà thơ bày tỏ quan niệm về nhà thơ, về quá trình làm thơ của tác giả Lê Đạt. Theo tác giả, nhà thơ là một nghề nghiệp không dễ làm, để tạo ra một bài thơ thì nhà thơ cần phải thông qua một cuộc bầu cử chữ. Chữ trong thơ cũng không giống chữ trong văn chương, không thể chỉ hiểu theo nghĩa từ điển mà phải hiểu theo “ý tại ngôn ngoại”.
Trong quá trình sáng tạo chữ, nhà thơ sẽ có những phút bất chợt, những cảm hứng thăng hoa, hoặc phải làm việc chăm chỉ trên những trang giấy để tạo ra những câu thơ hay và ý nghĩa. Một nhà thơ có thành công tạo ra một bài thơ xuất sắc hay không chỉ nhờ vào ngôn ngữ, ý nghĩa thơ, mà còn lắng đọng trong đó những cảm xúc chân thực cá nhân và những gửi gắm ý nghĩa nhân sinh.
Câu 1: Trong hình dung của em, nhà thơ phải là người như thế nào? Em có cho rằng việc làm thơ gắn liền với những phút cao hứng, “bất đồng”.
Nhà thơ trước tiên là con người như bao con người khác. Điều khác biệt với chúng ta là họ có niềm say mê sáng tạo nghệ thuật mãnh liệt và tâm hồn nhạy cảm khác thường trước sự vật, sự việc và hoạt động nội tâm khó lí giải. Có những việc làm chỉ cần kĩ năng, những phút “cao hứng” trong sáng tạo nghệ thuật nhất định phải cần. Thông thường thì đó là sự sảng khoái tột độ, một khoảnh khắc thăng hoa của thế giới tâm hồn. Có khi là sự “bốc đồng” nhưng chân chính, giàu tính người và vượt lên trên cái bình thường. Từ đó, có những tác phẩm giá trị làm say lòng người và khiến độc giả nhận ra điều mình muốn nói mà không diễn đạt được và nhà thơ đã như nói thay cho độc giả. Ví dụ khi Xuân Diệu viết: “Yêu là chết trong lòng một ít”, thì nó mang đến cho độc giả sự đồng tình thú vị. Đó chính là phút cao hứng “bốc đồng” cần có ở thi sĩ.
Câu 2: Tìm hiểu hoặc nhớ lại một số định nghĩa về thơ, nhà thơ và công việc làm thơ.
Báo điện tử Trung Quốc “Bách khoa – Trăm độ” định nghĩa về nhà thơ như sau: Nhà thơ (Thi nhân) thông thường để chỉ những người sáng tác những tác phẩm thơ (thi ca). Nhưng với ý nghĩa nghiêm cách, thì nhà thơ là những người có khả năng sáng tác tác phẩm thi ca, có sức ảnh hưởng khá lớn đối với xã hội, văn hoá, thông qua hình thức nghệ thuật văn tự thi ca. Nhà thơ thuộc về phạm trù Nhà văn học, Nhà nghệ thuật.
“Thơ” là “một hình thức nghệ thuật” dùng từ dùng chữ trong ngôn ngữ làm chất liệu, và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới một hình thức lôgic nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mĩ cho người đọc, người nghe.
(Mở rộng: Nhà thơ nổi tiếng bậc nhất của thế kỉ XX là Xuân Diệu từng nói về thơ như sau: “Quy luật của thơ là quy luật của cảm xúc, như đã là nước thì có thể trọng, có thể đọc, có thể đầy, có thể vơi, nhưng không thể KHÔ”)
Soạn Chữ bầu lên nhà thơ phần đọc văn bản
Trong phần đọc văn bản in trong SGK Ngữ văn 10, các câu hỏi được đưa ra để học sinh có cơ hội đi sâu tìm hiểu và phân tích. Trong phần này, bạn biết được các nghệ thuật tu từ do tác giả đã sử dụng, các ý nghĩa sâu bên trong cách dùng từ.
Câu 1: Phải chăng tác giả đã nhầm khi viết “ý tại ngôn tại”?
Như chú thích cuối sách “Ý tại ngôn tại” là gọn trong lời đã nói hoặc viết ra (lời đã nói hết được ý cần nói). Tác giả phát biểu không nhầm, nhưng chưa chính xác. Bởi vì, văn xuôi cũng có nhiều cấp độ. Có những thể loại văn đọc lên là hiểu ngay, cũng có thể loại văn phải tư duy, suy ngẫm mới có thể hiểu được. Vì vậy, nó phải là “Ý tại ngôn tại” vừa phải là “Ý tại ngôn ngoại”. Ví dụ: đọc “Ngư ông và biển cả” của Ernest Hemingway, không phải đọc xong rồi ai cũng hiểu được, vì yếu tố “Ý tại ngôn ngoại” khá cao. Hoặc đọc “Trăm năm cô đơn” của Marquez không phải ai cũng hiểu được trên mặt chữ, mà phía sau từng con chữ, hình tượng nghệ thuật là cả một nội hàm sâu xa.
Câu 2: “Nghĩa tiêu dùng” và “Nghĩa tư vị” – hai cụm này có diễn đạt cùng một ý không?
“Nghĩa tiêu dùng” là nghĩa hay dùng hằng ngày khi giải nghĩa các từ; “nghĩa tự vị” là nghĩa trong từ điển. Hai cụm từ này đều cùng diễn đạt một nghĩa.
Câu 3: Tác giả “rất nghét” hay “không mê” những gì? Ngược lại, ông “ưa” đối tượng nào? Em có nghĩ mình đã hiểu đúng điều tác giả muốn nói?
Tác giả “rất ghét” cái quan niệm: các nhà thơ Việt Nam thường chín sớm nên cũng lại tàn và “không mê” các nhà thơ thần đồng, những người sống bằng vốn trời cho.
– Tác giả “ưa” những nhà thơ chăm chỉ làm việc trên cánh đồng giấy, tích góp từng câu chữ, hạt chữ.
Câu 4: “Không có chức nhà thơ suốt đời”, vậy lúc nào một “nhà thơ” không còn là nhà thơ nữa?
Một “nhà thơ” không còn là nhà thơ nữa khi họ không còn chăm chỉ làm việc trên những trang giấy nữa, hay khi họ thất bại trong “cuộc bầu cử chữ” khắc nghiệt. Đồng thời, tâm hồn họ không còn những ngân rung chân thành thẫm đẫm chất nghệ sĩ và tình yêu cuộc sống. Ngay trong khoảnh khắc ấy họ không còn xứng đáng là nhà thơ nữa.
Trả lời câu hỏi sau văn bản Chữ bầu lên nhà thơ
Sau khi đọc văn bản, trả lời các câu hỏi được đề ra, học sinh phân tích kỹ hơn ở phần suy ngẫm. Qua đó, bạn xác định được vấn đề chính, ý cốt lõi quan điểm của nhà thơ và nhận định về luận điểm liên quan.
Câu 1: Vấn đề chính được bàn luận trong văn bản là gì?
Vấn đề chính được bàn luận trong văn bản này là vai trò của ngôn ngữ, của chữ, làm nổi bật quan niệm về làm thơ của tác giả.
Câu 2: Hãy tìm trong văn bản một câu có thể nêu bật được ý cốt lõi trong quan niệm về thơ của tác giả.
Đó là câu: “Dẫu có thể theo con đường nào, một nhà thơ cũng phải cúc cung tận tụy đem hết tâm trí dùi mài và lao động chữ, biến ngôn ngữ công cộng thành ngôn ngữ đặc sản độc nhất làm phong phú cho tiếng mẹ như một lão bộ trung thành của ngôn ngữ”.
Câu 3: Ở phần 2 của văn bản, tác giả tranh luận với hai quan niệm khá phổ biến:
– Thơ gắn liền với những cảm xúc bột phát, “bốc đồng”, làm thơ không cần cố gắng.
– Thơ là vấn đề của những năng khiếu đặc biệt, xa lạ với lao động lầm lũi và nỗi lực trau dồi học vấn.
– Những lí lẽ và bằng chứng mà tác giả nêu lên đã thực sự thuyết phục chưa? Hãy nói rõ ý kiến của em.
– Lí lẽ, bằng chứng mà tác giả đưa ra mạch lạ, thuyết phục được người đọc nhưng chưa thực sự làm nổi bật hai quan niệm trên.
– Tác giả có thể đưa ra những bằng chứng về một số nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, so sánh với các nhà thơ nước ngoài để làm rõ hơn về hai quan niệm trên, tạo thêm sức thuyết phục với người đọc.
Câu 4: Tác giả không trực tiếp định nghĩa khái niệm chữ. Dựa vào “Ý tại ngôn ngoại” của văn bản, bạn hãy thử thực hiện công việc này.
Chữ không đơn giản chỉ là vô âm thanh, mà còn là công cụ biểu đạt quan niệm của người viết. Chữ trong bài thơ cần có sự tương quan, liên kết với các câu thơ, phải có độ vang, sức gợi cảm, gợi sự hứng thú với người đọc và truyền tải được tâm tư của tác giả.
Câu 5: Bạn có ý kiến gì về luận điểm: “Nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải ở “nghĩa tiêu dùng”, nghĩa tư vị của nó, mà ở diện mạo, âm lượng, động vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan hữu cơ với câu, bài thơ”? Nếu tán đồng với tác giả Lê Đạt, hãy đưa ra một ví dụ minh họa.
– Đúng như vậy!
– Ví dụ: Những câu chữ trong một số bài thơ như Vội vàng của Xuân Diệu, Xuân của Chế Lan Viên, Tràng giang của Huy Cận, Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử, bài Thu hứng của Đỗ Phủ,… đều không chỉ được hiểu ở “nghĩa tiêu dùng” mà còn có âm vang và nhịp điệu truyền tải tiếng lòng của văn thơ.
Câu 6: Bài viết của Lê Đạt đã giúp bạn hiểu thêm gì về hoạt động sáng tạo thơ ca?
Bài viết của Lê Đạt, cho ta những suy nghĩ: Hoạt động thơ ca với mỗi cá nhân nếu chỉ dùng kĩ năng máy móc thì sẽ cho ra những câu thơ vô nghĩa, vô hồn. Vì vậy, thơ ra đời không chỉ có kĩ năng ngôn từ, am hiểu thể loại, sắp xếp bố cục mà còn phải có năng khiếu, xúc cảm chân thành và thăng hoa của những tâm hồn nhạy cảm trước cuộc sống.
Đồng thời, có thể mở rộng ra về một bài thơ hay dĩ nhiên phải là bài thơ tràn đầy cảm xúc, dồn nén, truyền cảm, ám ảnh… Chúng ta không thể phản bác được các thi sĩ duy cảm này, bởi vì họ nói rất đúng. Một bài thơ mà chỉ toàn lí sự, bằng ngôn ngữ khái niệm… thì không có chỗ ở đây. Và bao năm trời, ta từng run rẩy với những kiệt tác “thơ duy cảm” của các nhà thơ Thơ mới và nhiều nhà thơ sau này nữa… Những bài thơ như Tiếng thu, Tràng giang, Ngậm ngùi, Đây mùa thu tới, Tương tư chiều, Mùa xuân chín, Chân quê… mãi còn khiến ta xúc động, buồn vui theo chúng… Và với khả năng vượt thời gian như vậy – chúng chính là những bài thơ hay.
Soạn văn Chữ bầu lên nhà thơ phần kết nối đọc viết
Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) nêu suy nghĩ về một nhận định mà bạn thấy tâm đắc trong văn bản Chữ bầu lên nhà thơ của Lê Đạt.
Đoạn (1)
Văn bản Chữ bầu lên nhà thơ khiến chúng ta tâm đắc nhất là quan niệm của tác già “Tôi không mê những nhà thơ thần đồng. Tôi ưa những nhà thơ một nắng hai sương, lầm lũi, lực điền trên cánh đồng giấy, đổi bát mồ hôi lấy từng hạt chữ Luận điểm ở đây rõ ràng ngợi ca công sức lao động miệt mài. Cha ông chúng ta từng dạy: “Muốn ăn lăn vào bếp. Muốn chết lết ra gò” là vậy. Lao động bao gồm lao động chân tay, lao động trí óc. Nếu người nông dân chây lười thì cánh đồng không thể ngát xanh, xanh cảnh trĩu quả. Cũng vậy, trên “cánh đồng giấy” của người nghệ sĩ, không có chuyện chây lười mà có những tác phẩm tử tế và đẹp đẽ cho đời. Mọi tác phẩm nghệ thuật không chỉ xuất hiện từ một tâm hồn nhạy cảm, mà còn là sự tìm tòi, trăn trở suy tư, cần mẫn làm việc mới có. Đó là quan niệm đúng đắn đầy thuyết phục của tác giả vì nó phù hợp với cuộc sống.
Đoạn (2)
Tác giả Lê Quang Đạt đã đưa ra nhận định hay và thú vị là Chữ bầu lên nhà thơ, để làm nổi bật tầm quan trọng của chữ đối với các nhà thơ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Chữ không chỉ hiểu đơn giản là vỏ âm thanh mà quan trọng đó chính là ngôn ngữ được sử dụng, tổ chức một cách nghệ thuật. Chữ bầu lên nhà thơ là khẳng định vai trò của ngôn ngữ đối với nhà thơ; ngôn ngữ là yếu tố không thể thiếu trong văn học; nó khẳng định tài năng, phong cách của người nghệ sĩ. Ngôn ngữ thơ là tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, là kiến trúc ngôn từ đặc biệt; tạo lập và tôn vinh vị thế nhà thơ. Khi nhà thơ cần mẫn với chữ thì sẽ có sự lựa chọn phù hợp nhất để diễn đạt ý cần nói, để tiếng lòng của mình được vang lên, được hữu hình hoá thành câu chữ, âm thanh, nhịp điệu. Nhà thơ Đỗ Phủ hay còn được người đời gọi là “thi thánh” với bài thơ Thu hứng đã sử dụng những câu chữ mang tính ước lệ, lời thơ buồn với những âm vang và nhịp điệu đã đưa người đọc đến với thế giới cảm xúc tâm hồn của nhà thơ. Quá trình sáng tạo nghệ thuật đẩy sự khó khăn, vất vả, nhà thơ phải thổi hồn vào tác phẩm thông qua ngôn ngữ thơ ca, phải dựa vào chữ để tạo ra những tác phẩm đặc sắc. Điều đó cũng cho ta thấy Chữ bầu lên nhà thơ là một nhận định đúng.
Kết luận
Soạn bài Chữ bầu lên nhà thơ là sự khẳng định vai trò ngôn từ đối với nhà thơ. Thông qua yếu tố này, các tác phẩm có thể nói lên được tâm hồn thi sĩ, nói lên tài năng và phong cách của họ, tôn vinh vị thế của nhà thơ.
XEM THÊM:
- Soạn Héc-to từ biệt Ăng-đro-mác SGK Ngữ văn 10
- Soạn văn 10 Đăm Săn đi bắt Nữ thần mặt trời NXB Kết nối tri thức
- Soạn bài Xúy Vân giả dại (trích chèo Kim Nham)