Soạn bài Về chính chúng ta, ngữ văn 10 Kết nối tri thức

THE POET Magazine hướng dẫn soạn bài Về chính chúng ta ngắn nhưng chi tiết, giúp học sinh nắm bài tốt hơn. Các câu hỏi bám sát nội dung và cung cấp những vấn đề chính quan trọng nhất.

Table of Contents

Tóm tắt

Văn bản mở đầu bằng những câu hỏi được tác giả đặt ra, những câu hỏi ít người để ý đến, ít ai có thể trả lời mà không có sự băn khoăn, suy nghĩ. Con người có rất nhiều thứ chưa hiểu và thứ ít hiểu nhất là chính con người. Mối quan hệ giữa con người với thực tại, với thế giới và với tự nhiên được phản ánh qua văn bản. Con người là một phần của thế giới, là một phần tử nhỏ bé trong vũ trụ to lớn nhưng khả năng nhận thức thế giới của con người vẫn còn hạn hẹp và có nhiều sự sai lầm trong suy nghĩ. Con người cần củng cố thêm khả năng nhận thức thế giới của mình, nhận thức rõ hơn về mối quan hệ giữa chúng ta với thế giới. Mọi vật thế giới đều có sự tương tác và trao đổi thông tin về nhau, tất cả tri thức của con người đều phản ánh thế giới. Các giá trị đạo đức, cảm xúc của con người đều gắn với thực tại và những giọt nước mắt, nụ cười, lòng biết ơn hay sự trung thành,… đều là những thứ có thực, những hiện thực phức tạp của cuộc sống. Con người sống trong tự nhiên, gắn với tự nhiên và tự nhiên cũng chính là nhà của con người. Con người học hỏi, khám phá và cư trú trong tự nhiên, gia tăng kiến thức về thế giới, khám phá vẻ đẹp huyền bí của thế giới.

Soạn văn 10 Về chính chúng ta – Trước khi đọc

Câu hỏi: Bạn suy nghĩ như thế nào về quan niệm cho rằng con người là chúa tể của tự nhiên?

Trước hết, chúng ta hãy đi ngược trở lại thời tiền sử. Khi đó con người cảm thấy yếu đuối và sợ hãi trước thiên nhiên, từ những cơn bão tố sấm sét, những cuộc động đất, lụt lội, những kỳ núi lửa phun ra nham thạch v.v… những hiện tượng con người khi đó không thể giải thích vì chưa đủ trí tuệ để hiểu. Ngoài ra con người còn phải đối diện với trăm thứ bệnh tật, bất an trong cuộc đời. Cho nên, thật là dễ hiểu khi chúng ta thấy con người thời đó nghĩ rằng, chắc những thiên tai, bệnh tật kể trên phải có một nguyên nhân sâu xa nào đó nằm ngoài sự hiểu biết của họ, và họ đã qui mọi hiện tượng thiên nhiên về hoạt động của những bậc siêu nhiên mà họ gọi là Thần (Gods). Nguồn gốc cấu trúc của vũ trụ và tất cả những khám phá mới trong rất nhiều bộ môn khoa học.

Khi xưa, khi mà đầu óc con người còn ở trong tình trạng phôi thai, trong một số tôn giáo, sét được coi như là những lưỡi gươm của Thần của họ giáng xuống nhân loại, sấm được coi như là tiếng nói trong cơn thịnh nộ của Thân, những bệnh dịch tả, dịch hạch, vì có tính truyền nhiễm nên làm chết hại nhiều ngàn người vì chưa có thuốc phòng ngừa hay chữa chạy, cũng được coi như là họa của Thần không tuân theo những luật của Thần, những luật mà theo tiêu chuẩn đạo đức xã giáng xuống đầu con người để trừng phạt con người vì tội đã làm phật ý Thân hay hội ngày nay, khó ai mà có thể chấp nhận. Con người thời đó tin rằng Thần của họ có. Nhưng con người lại không chịu dậm chân tại chỗ, cho nên ngày nay, chúng ta có thể ban phúc giáng họa trên họ. Bởi vậy, tục lệ Tế Thần hầu như nơi đầu t đã hiểu, và hiểu rất rõ, bệnh tật từ đâu mà ra, tại sao có sấm, sét, và tiên đoán được khi nào có sấm, sét và có ở đâu v.v… Do đó, những quan niệm thuộc loại mê tín như Thần có thể ban phúc, giáng họa cho nhân loại là những quan niệm đã lỗi thời, không phù hợp với những thực tế ở ngoài đời. Nhưng buồn thay, niềm tin và căn cứ này vẫn còn đè nặng trên đầu óc của một số người, ngay cả những nước Âu Mỹ được coi là văn minh tiến bộ nhất thế giới.

Có thể nói, cách đây mấy ngàn năm, mỗi nền văn hóa đều có một cách giải thích khác nhau về nguồn gốc con người và vũ trụ. Điểm chung của các quan niệm thuộc đa số các nền văn hóa khác nhau này là: có một vị Thần, hoặc dưới dạng người, hoặc dưới dạng sinh vật, đã tạo nên vũ trụ và con người. Từ cảm nhận đó từ các nguồn sách vở, tôi tin con người có thể khám phá một phần nào về của thiên nhiên theo khát vọng của mình. Tuy nhiên, để con người trở thành “chúa tể thiên nhiên”, quả thật tôi không nghĩ đến, không dám nghĩ vì nó quá sức hiểu biết của mình.

Đọc văn bản

Khi soạn bài Về chính chúng ta kết nối tri thức (Ngữ văn lớp 10 tập 2) học sinh cần đọc kỹ nội dung để trả lời những câu hỏi đưa ra ở từng đoạn. Nếu không việc nắm bắt ý chính để giải đáp các vấn đề sẽ không được đầy đủ.

Câu 1. Suy đoán về dụng ý của tác giả khi đặt vấn đề bằng hàng loạt câu hỏi.

Đó là tạo sự hiếu kỳ, hứng thú của người đọc đối với vấn đề được nêu lên trong văn bản.

  • Những câu hỏi này có thể là chính là cách đặt ra vấn đề để phải giải quyết.
  • Những câu hỏi được đặt ra ngay từ mở đầu cũng như một định hướng.
soạn bài về chính chúng ta
Tác giả đưa ra vấn đề về mối quan hệ giữa tự nhiên và con người ngay từ đầu

Câu 2. Câu nào trong đoạn văn thể hiện quan điểm của tác giả?

Khi soạn Về chính chúng ta, em nhận thấy quan điểm tác giả trải dài xuyên suốt văn bản. Tuy nhiên, quan điểm trọng tâm thể hiện qua câu văn sau: “Trong bức tranh khoa học rộng lớn ngày nay, có nhiều thứ chúng ta không thể hiểu nổi, và một trong những thứ mà ta hiểu ít nhất là chính chúng ta.”

Câu 3: Xác định hai từ khóa nói lên mối quan hệ giữa con người và thế giới trong đoạn văn.

  • Hai từ khóa nói lên mối quan hệ giữa con người và thế giới trong đoạn văn là “chủ thể”. Con người với tư cách là một sinh vật có ý thức và ý chí, trong mối quan hệ đối lập với thế giới bên ngoài (gọi là khách thể).
  • Tuy nhiên, đáng quan tâm trong mối quan hệ giữa con người với thế giới, thì chúng ta là một bộ phận “hữu cơ”.

Câu 4: Chú ý phép điệp trong văn bản.

Phép điệp trong văn bản có thể thấy rõ từ việc soạn văn Về chính chúng ta là điệp từ “chúng ta”, nhằm nhấn mạnh đối tượng chính của văn bản là chúng ta – con người.

Câu 5: Chú ý các lí lẽ, bằng chứng chứng minh cho luận điểm: “Tri thức của chúng ta chung quy đều phản ánh thế giới.”

Các lí lẽ, chứng minh luận điểm “Tri thức của chúng ta chung quy đều phản ánh thế giới” là thông tin về nhau của tự nhiên như một giọt mưa chứa thông tin về sự xuất hiện của đám mây đen, báo hiệu trời mưa; đồng hồ chứa thông tin về thời gian trong giày giúp ta xác định giờ làm việc; gió mang thông tin về cơn bão sắp đến để ta phòng tránh;… và thông tin đó được tích lũy qua kinh nghiệm.

Câu 6: Xác định câu văn khái quát ý tưởng chính của đoạn văn.

“Chúng ta là một bộ phận hữu cơ của tự nhiên; chúng ta là tự nhiên, là một trong vô số các biểu hiện thiên vô cùng vô tận của nó.” là câu văn khái quát ý tưởng chính của đoạn em tìm thấy khi soạn bài Về chính chúng ta chi tiết.

soạn về chính chúng ta
Tác giả cho rằng con người không thể tách rời khỏi tự nhiên

Câu 7: Hình ảnh được sử dụng để nói về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là hình ảnh “nhà”, hình ảnh thể hiện mối liên kết, mối quan hệ mật thiết giữa con người và tự nhiên.

Đó là hình ảnh “nhà”. Bởi lẽ, nó thể hiện mối liên kết, mối quan hệ mật thiết giữa con người và tự nhiên.

Soạn Về chính chúng ta chi tiết – Sau khi đọc

Hướng dẫn trả lời tất cả các câu hỏi trong phần Sau khi đọc khi soạn Về chính chúng ta ngắn nhất nhưng chi tiết, đầy đủ. Mỗi đáp án đều được dựa trên nội dung của bài kết hợp mở rộng tư duy cho học sinh.

Câu 1: Trong văn bản, tác giả trình bày quan điểm về vấn đề gì? Quan điểm ấy đã được triển khai thành những luận điểm chính nào?

  • Trong văn bản, tác giả trình bày quan điểm về vấn đề con người, các mối quan hệ giữa con người với thực tại, con người với thế giới và con người với tự nhiên.
  • Những luận điểm chính được triển khai là:
    • Trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thì con người là “chủ thể”, quan sát thế giới với tư cách là người trong cuộc.
    • Tri thức của con người phản ánh thế giới. Mọi vật trong thế giới đều có sự tương tác, trao đổi thông tin về nhau.
    • Con người là một phần của tự nhiên, gắn với tự nhiên không thể tách rời và tự nhiên cũng chính là nhà của con người.

Câu 2: Để làm sáng tỏ các luận điểm chính, tác giả đã sử dụng những bằng chứng, lí lẽ nào? Những thông tin khoa học trong văn bản có ý nghĩa gì trong việc làm sáng tỏ những luận điểm chính?

Luận điểm chính mà em xác định được khi soạn bài Về chính chúng ta lớp 10: Con người là một phần của thế giới, nằm trong nó và quan sát nó. Niềm tin, tư tưởng, tín ngưỡng của con người đều được hình thành từ sự quan sát bên trong thế giới, gắn với thế giới. Vậy nên con người chỉ là một phần rất nhỏ bé của vũ trụ to lớn này.

  • Bằng chứng về sự thông tin về nhau của tự nhiên như một giọt mưa chứa thông tin về sự xuất hiện của đám mây đen, báo hiệu trời mưa; đồng hồ chứa thông báo tin về thời gian trong ngày giúp ta xác định giờ làm việc;… và cuối cùng não của con người chính là nơi chứa tất cả những thông tin được tích lũy qua kinh nghiệm.
  • Con người không thể tách khỏi tự nhiên; các giá trị đạo đức, tình yêu của con người đều mang tính hiện thực. Giá trị cảm xúc của con người làm nên xã hội và cũng là biểu hiện của tự nhiên.
  • Tự nhiên là nhà của con người, thế giới đa dạng, đầy màu sắc là nơi con người học hỏi, cư trú, nơi tìm hiểu và thỏa mãn sự hiếu kì bẩm sinh của con người.

=> Những thông tin khoa học trong văn bản giúp cho những luận điểm chính trong văn bản sáng rõ hơn, logic hơn và có thêm sức thuyết phục cho việc nêu ra các bằng chứng, lí lẽ chứng minh luận điểm.

soạn văn về chính chúng ta
Tác giả đưa ra nhiều bằng chứng để chứng minh con người là một phần của tự nhiên

Câu 4: Tác giả đã trình bày quan điểm về mối quan hệ giữa con người với thực tại từ góc nhìn nào, với một thái độ như thế nào?

Soạn văn bài Về chính chúng ta giúp em như mở rộng tầm nhìn, hiểu hơn về mối quan hệ của thực tại với con người. Với tác giả, mối quan hệ giữa con người với thực tại từ góc nhìn bên trong, góc nhìn của con người là một phần thế giới, gắn với thực tại. Tác giả nêu lên những thứ có thực, những thứ hiện hữu ở thực tại và nó liên quan đến con người. Thái độ của tác giả với quan điểm này là một thái độ đồng ý, chấp nhận quan điểm này và chứng minh sự đúng đắn của nó.

Câu 5: Tác giả nghĩ gì về khả năng nhận thức thế giới của con người?

Con người chưa thật sự nhận thức được hết về thế giới. Con người nghĩ rằng mình đã hiểu hết thế giới nhưng sự thật là chỉ hiểu một phần nhỏ của thế giới. Khả năng nhận thức thế giới của con người chưa đủ để con người coi mình là trung tâm, là chúa tể. Tác giả cho rằng con người cần nâng cao hơn khả năng hơn nữa về vấn đề đó.

Câu 6. “Tự nhiên là nhà của chúng ta, và sống trong tự nhiên nghĩa là chúng ta đang ở nhà của mình.” Bạn nghĩ gì về nhận định của tác giả?

Đọc hiểu Về chính chúng ta, em thấy rằng “Tự nhiên là nhà của chúng ta, và sống trong tự nhiên nghĩa là chúng ta đang ở nhà của mình” của tác giả là nhận định hợp lý. Tự nhiên và con người có mối quan hệ gắn bó với nhau không thể tách rời, hai đối tượng có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Đó là quan hệ hữu cơ.

soạn bài về chính chúng ta kết nối tri thức
Con người phải bảo vệ “nhà” của mình

KẾT NỐI ĐỌC – VIẾT

Câu hỏi: Nhận thức nào từ văn bản trên mà bạn muốn mang theo trong hành trang cuộc sống của mình? Hãy viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) để chia sẻ về điều này.

Môi trường tự nhiên đóng vai trò đặc biệt quan trọng và không thể thay thế đối với sự tồn tại, phát triển của con người cũng như của xã hội loài người. Điều này thể hiện trước hết ở chỗ, về mặt nguồn gốc, như các tài liệu khoa học đã chỉ ra, con người được sinh thành do sự tiến hoá lâu dài của tự nhiên chứ không phải là kết quả từ sự “nhào nặn” của một lực lượng siêu nhiên nào đó theo quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Con người với bộ óc biết tư duy sáng tạo của mình là sản phẩm cao nhất của sự tiến hoá trong nhiều triệu năm của vật chất, là một cơ thể phức tạp nhất mà giới tự nhiên sản sinh ra được. Mặt khác, lịch sử xã hội loài người đã, đang và sẽ tiếp tục chứng minh rằng, tự nhiên là môi trường sống không thể thiếu của con người. Chính vì thế, con người cần chung sống hài hoà với tự nhiên, hay nói cách khác, đồng tiến hoá giữa con người và tự nhiên là một trong những nền tảng cơ bản của phát triển bền vững.

Kết luận

Nội dung soạn bài Về chính chúng ta chính xác, chi tiết giúp học sinh đạt kết quả cao khi đến lớp. Hãy đọc kỹ tác phẩm kết hợp với giải đáp từ THE POET Magazine để rút ra được thông điệp cho chính mình.

XEM THÊM:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *