Trọn bộ các tác phẩm Hữu Thỉnh hay, tiêu biểu nhất
Tác phẩm Hữu Thỉnh bao trùm nhiều thể loại văn học, từ thơ ca đến tiểu thuyết. Dù là thể loại nào, các tác phẩm của ông cũng ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc nhờ trí tuệ và cảm xúc. Ông là một trong các nhà thơ nổi bật nhất trong giai đoạn sau 1975.
Các tác phẩm Hữu Thỉnh trong suốt sự nghiệp
Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh (1942), ông là nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ đổi mới văn học. Trong suốt sự nghiệp sáng tác, Hữu Thỉnh đã đóng góp rất nhiều tác phẩm hay, từ đó gặt hái được những giải thưởng, bằng khen và huy chương danh giá.
Nếu bạn thắc mắc Hữu Thỉnh là tác giả của bài thơ nào thì dưới đây là tuyển tập những tác phẩm tiêu biểu của ông:
Thơ
- Sang thu (1977)
- Đường tới thành phố (1979)
- Âm vang chiến hào (1976)
- Từ chiến hào đến thành phố (1985)
- Tiếng hát trong rừng (1985)
- Sức bền của đất (2004)
- Thương lượng với thời gian (2005)
- Thơ Hữu Thỉnh (1998)
- Thư mùa đông (1994)
- Trường ca biển (1994)
- Khi bé Hoa ra đời (1994)
- Trăng tân trào (2016)
- Hoang dại dưới trời (2010)
- Ghi chú sau mây (2020)
Văn xuôi
- Đường lửa mùa xuân (1987).
- Mưa xuân trên tháp pháo (2009).
- Lý do của hi vọng (2010).
- Bến văn và những vòng sóng (2020).
Những bài thơ Hữu Thỉnh hay nhất
Không để bạn chờ lâu, sau đây là những bài thơ hay của Hữu Thỉnh:
Sang thu
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Lời bình:
Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh là một tác phẩm nổi bật, khắc họa sự chuyển mình tinh tế của thiên nhiên từ hạ sang thu. Thông qua hình ảnh như hương ổi, sương và gió, nhà thơ đã thể hiện sự cảm nhận nhạy bén về mùa thu đến một cách chậm rãi và nhẹ nhàng.
Sang thu không chỉ là cảm nhận về thời gian chuyển mùa mà còn mang đến những suy ngẫm về cuộc đời, với sự bình yên và tĩnh lặng.
Chợ chim
Bồ quân bên suối chín vàng
Biến thành chợ của họ hàng nhà chim
Đầu têu tu hú chạy lên
Sẻ con giục mẹ bỏ quên cả giày
Chào mào chưa nếm đã say
Chim sâu bận mọn nửa ngày mới sang
Anh vũ mua bán đàng hoàng
Ăn xong múa lượn cả làng cùng xem
Bồ nông ở cữ ăn khem
Cà siêng có khách vội đem quà về
Con sáo mua bán màu mè
Quạ đen đánh quịt còn khoe đủ điều
Chú vẹt ăn bốc nói leo
Chèo bẻo đanh đá nói điều chanh chua
Chùm chim chùm quả đung đưa
Người bán thì một kẻ mua thì mười
Bồ quân được nết được người
Bán thì bán đấy chẳng đòi công đâu
Chỉ xin cái hạt về sau
Nhân ra ngàn quả làm giàu cho chim.
Lời bình:
Bài thơ Chợ chim gợi lên một không gian sống động, nơi âm thanh của những con chim trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống đời thường. Tuy nhiên, dưới ngòi bút của Hữu Thỉnh, hình ảnh chợ chim không chỉ đơn thuần là buôn bán mà còn chứa đựng thông điệp sâu sắc về sự tự do, khát vọng bay bổng và cả nỗi buồn khi phải xa rời thiên nhiên.
Ông
Ông vác cây tre dài
Lưng của ông vẫn thẳng
Ông đẩy chiếc cối xay
Cối quay như chong chóng
Đường dài và sông rộng
Ông vẫn luôn đi về
Tay của ông khỏe ghê
Làm được bao nhiêu việc
Thế mà khi ông vật
Thua cháu liền ba keo.
Lời bình:
Ông là bài thơ mang đậm nét hoài cổ, bày tỏ tình yêu thương, kính trọng đối với người ông trong gia đình. Hữu Thỉnh tái hiện hình ảnh người ông với những đức tính cao đẹp, sự hy sinh thầm lặng và tình cảm gắn bó bền chặt giữa các thế hệ. Qua đó, ông cũng thể hiện sự trân trọng những giá trị gia đình và truyền thống quý báu.
Qua sông
Sông xanh màu vai áo
Sóng xao nghìn bước chân
Bước sang bờ tiền phương
Giọt mồ hôi tạnh hết
Sóng từ đâu tới đâu
Lính mình chưa kịp biết
Chỉ biết sông như mình
Đi suốt đời không mệt.
Lời bình:
Bài thơ khắc họa hình ảnh người lính trên hành trình chiến đấu, với con sông biểu tượng cho những khó khăn, thử thách phải vượt qua. Hữu Thỉnh sử dụng hình ảnh dòng nước, bến đò để nói lên khát vọng hòa bình, cũng như sự kiên cường và lòng dũng cảm của những người lính trong cuộc kháng chiến gian khổ.
Sau trận đánh
Khi bản Đông thành một nấm mồ
Những hãng phương Tây đưa tin nhớn nhác:
– Chưa bao giờ những binh đoàn thiết giáp
Của đối phương lại áp đảo như đây
Sau bản Đông giải phóng vài ngày
Tôi với chiến sĩ xe tăng cầu Chaki tắm mát
Một số anh thì đuổi nhau trên cát
Một số anh thì đổ dế, hái hoa
Các anh không nói nhiều về chiến thắng những ngày qua
Chỉ mong mưa cho đồng bào gieo lúa.
Lời bình:
Sau trận đánh mang đến không khí tĩnh lặng sau những cuộc chiến đấu khốc liệt. Hữu Thỉnh không chỉ miêu tả khung cảnh chiến trường đổ nát mà còn gửi gắm những suy tư sâu sắc về sự mất mát, hy sinh và nỗi đau của những người còn sống. Bài thơ thể hiện tình cảm bi tráng nhưng cũng rất đỗi nhân văn.
Tắm mưa
Mưa rào rào bong bóng nở đầy sân
Trời như bông đen nước tràn qua mặt
Sấm làm nhịp cho đôi chân nhảy nhót
Kỳ lưng nhau rúc rích đùa vui
Mưa râm ran như bản nhạc không lời
Mưa mát lịm thấm sâu vào da thịt
Mảnh bom vãi mưa cuốn phăng đi hết
Nòng pháo vút cao như một thân măng
Nghiêng mũ sắt đầy đổ nước vào hương
Dành riêng pháo trận sau nhân lưới lửa
Bõ khi gánh thùng nước lên ba lần đứng thở
Góp suất nước chia dấp cho pháo mát nòng
Ơi cơn mưa thành một nỗi chờ mong
Hơn cả trang thu mấy mùa chưa trở lại
Mưa tạnh hẳn còn tần ngần đứng mãi
Mưa như người nhà một lát đến thăm.
Quay nhìn nhau trẻ lại bất ngờ
Vương trên mi hạt mưa tròn óng ánh
Chẳng ai biết đã qua trăm trận đánh
Chỉ thấy như úp cá ở đâu về.
Lời bình:
Tắm mưa là bài thơ gợi lại kỷ niệm tuổi thơ đầy vui tươi và hồn nhiên. Hữu Thỉnh sử dụng hình ảnh tắm mưa để tượng trưng cho sự tự do, trong sáng và niềm vui đơn giản trong cuộc sống. Tuy nhiên, đằng sau niềm vui ấy cũng ẩn chứa sự tiếc nuối cho những khoảnh khắc tuổi trẻ đã qua.
Trở lại mùa xuân
Con chim xanh mê trái lựu trước vườn
Mùa hạ trôi qua từ ngày chim trốn tiếng
Em ở đâu? Cây thưa và bến rộng
Rượu nào cho người nhớ, áo nào cho người xa
Bóc hạt sen bùi gặp một tâm sen
Tâm sen đắng mình ơi ta vẫn đợi
Nếu em về đường sông gió sẽ thôi than thở bến đò
Nếu em về đường mây con chim xanh sẽ cùng em trở lại
Cả khu vườn cũng vừa trở lại
Kịp làm nên tháng giêng
Những mầm cây ríu rít nói về em
Em đỏ thắm một mình đi giữa lá
Anh lại đến tìm em qua chiếc dây rất mảnh
Sương sớm lo âu gió muộn bồn chồn
Sau vết bỏng chiếc hôn đầu ngày ấy
Ở cuối vườn có một nụ tầm xuân.
Lời bình:
Trong Trở lại mùa xuân, Hữu Thỉnh miêu tả sự trở lại của mùa xuân với hình ảnh đầy sức sống của thiên nhiên, đồng thời cũng nói lên khát vọng tái sinh, sự đổi mới trong tâm hồn con người. Mùa xuân trong thơ ông không chỉ là mùa của đất trời, mà còn là mùa của hy vọng, của sự bắt đầu lại sau những khó khăn.
Một lần lỡ hẹn
Anh giở bức hình chụp những năm còn trẻ
Anh ngó ngơ như một kẻ lạ xa
Ai trong đó? Sao mà cười hỉ hả
Sao vô tư, sao mập ú vậy à?
Hắn khao khát những gì?
Ai đang chờ đợi hắn?
Chỉ tình yêu là đáng kể thôi chăng?
Hai mươi năm anh khó nhận ra mình
Người trong ảnh bây giờ là Tư lệnh
Khoảng cách giữa anh và bức ảnh
Có bao quãng đường những bà mẹ tiễn con
Có lầy lội quãng đường sau rút Huế
Có băn khoăn trước hứa hẹn chưa thành
Đơn vị sa lầy trong chiến khu A Lưới
Bao éo le theo nước lũ xô về
Những chiếc xe tăng đòi anh nguyên vẹn
Những vết thương đòi anh lành lặn
Và anh
ý nghĩ lăn qua viên đạn cuối cùng
Giặc đổ quân sau rừng
ủi và đốt
Cây thở dài trên đất
Tàn bay tung
“Cán gáo” thõng đôi càng
Man rợ xoáy
Đóng đinh vào chân tóc
Bới rừng lên
Thả xuống lời ngon ngọt
– “Hỡi cán binh cộng sản, hãy ra hàng
Tổng thống sẽ
Tổng thống sẽ
Tổng thống sẽ…”
Thơm tho và ngọt xớt
Đảo nửa vòng lại ngọt xớt thơm tho
Rừng quay mặt nghe gió bò trên đá
Bò trên rêu
ẩm ướt
Trên lưng
Lời dụ hàng tuôn đầy xuống hố bom
Núi dựng ngược ném trả vào mặt giặc
Chiếc “cán gáo” đứng im
Lại buông lời trơ trẽn
– “Đây, xin mời để các anh lựa chọn”
Nó dòng xuống xác một người đồng chí
Bị chặt đầu
Chân còn dép, chân không
Máu anh bỏng xuống núi ngàn
Đời anh treo một dấu than giữa trời
Kẻ thù cách một gang thôi
Phải dằn súng lại. Cắn môi tìm đường
Thắt trắng một mảnh dù
Tư lệnh đạp rừng cho lái xe nhận hướng
Hai vết thương vì rừng, ba vết thương vì pháo
Trong cái đêm mở đường máu phá kìm
Đôi quân hàm nỉ đỏ mới nguyên
Vẫn tính vào duyệt binh ở Huế
Anh giấu đi không hề nói với ai
Nhưng với vợ làm sao giấu được
Không phải hai mà mười bốn năm rồi
Anh đanh lại, anh nấu nung như thế
Lõi lim già mưa nắng lẩn vào trong.
Lời bình:
Một lần lỡ hẹn là bài thơ chứa đựng nỗi buồn man mác về sự lỡ làng trong tình cảm. Hữu Thỉnh khắc họa tâm trạng tiếc nuối, sự đau đáu khi không thể giữ trọn lời hứa, qua đó bộc lộ tình cảm sâu sắc và sự trân trọng đối với những khoảnh khắc đã qua.
Khúc dạo
Tôi là chỗ thất thường của gió
Khi người yêu cởi áo trao khăn
Tôi là chỗ bước chân đi chậm lại
Người thương nhau dù thương chỉ một lần
Tôi là chỗ những ngang tàng chịu khuất
Nơi con người thuần hóa các dòng sông
Tôi là kẻ thù của những gì chia cắt
Tôi đứng đây vì yêu quá con đường
Nhìn thấy bom nhưng không thể xuống hầm
Tôi không chạy vì tôi là mặt đất
Tôi yêu gió tôi thành người đứng hát
Tôi hát rong qua thanh sắt của mình
Bài ca ấy nhiều người đã thuộc
Vẫn điệu chèo, điệu lý quê hương
Lắm khúc vui nhưng không hóa véo von
Có khúc buồn nhưng cuộc đời vốn khỏe
Tôi gọi về những tuổi những tên
Như mùa thu gọi heo may rải rác
Với thời gian tôi xin làm đá tạc
Hỡi mây trời hãy xuống hát cùng tôi.
Lời bình:
Khúc dạo như một bản nhạc mở đầu, khơi gợi những cảm xúc ban sơ và tươi mới. Hữu Thỉnh sử dụng hình ảnh âm nhạc để diễn tả sự khởi đầu của một chặng đường mới trong cuộc đời, với sự tươi trẻ và niềm tin vào tương lai.
Tờ lịch cuối cùng
Thành phố đã hiện ra trước mắt các quân đoàn
Treo rộn rực bao điều trong ánh điện
Nghe sột soạt chút gì như kỷ niệm
Qua khu vườn vừa giáp mặt đầu tiên
Xe đang qua những cây số cuối cùng
Nối thành phố và con đường mang tên Bác
Những nhịp cầu, bùng binh xoáy lốc
Cùng trận đánh hiện ra
– Ngã tư, đường Tự do, rẽ trái
Chiến sĩ nhẩm trong đêm
Có lẽ sao rất dày và sáng
Có lẽ gió rất lộng và thơm
ừ có thể
Và còn nhiều thứ nữa
Tất cả dễ thương và đáng quan tâm
Nhưng chúng tôi không hề có thời gian
Từng chuẩn bị chúng tôi biết thành phố mình lớn đẹp
Từng hy vọng chúng tôi biết thành phố mình chua xót
Và chúng tôi chào thành phố của mình
“Ngã tư
Đường Tự Do
Rẽ trái”
Chúng tôi nhận và chúng tôi chuyền lại
Xúc tích một đề thi
Câu trả lời buổi sáng
Câu trả lời chúng tôi mang sẵn
Qua rừng sâu ruộng nước trở về đây
Có thể đọc qua màu da bộc phá
Qua mùa đông men mét cổ tay gầy
Cũng có thể một tiếng Kinh đang vỡ
Tư đôi môi của đồng chí Tà Ôi
Anh tìm chữ khó khăn như người tiêu tiền mới
Bàn tay cầm rìu mộc mạc mở ra
Câu trả lời có thể là: thưa má
Cho con mượn nhà làm trạm cứu thương
Cho con lên tầng thượng đặt trung liên
Chỉ cho con ra ngã năm Phú Nhuận
Cũng có thể chỉ là im lặng
Im lặng không cùng, im lặng của mồ hôi
Câu trả lời có thể là cái chết
Ngay cả khi đang gõ cửa nhà mình
Gió cứ thổi phập phồng bao tâm sự
Đưa chúng tôi tới đích của mùa xuân
Nghe hơi nước những dòng sông gần gặn
Cứ mơn man trong suốt ríu ran hoài
Xin cám ơn nhạc sĩ
Nói giùm cho chúng tôi
Cái thao thức trước một tờ lịch cuối
Sài Gòn ơi, ta đã về đây!
***
Tôi đã nghe bài hát xốn xang lòng
Các cô gái làm đường đi đào củ chụp
Hố thì sâu mà tay em gầy guộc
Mưa miền Đông ướt áo các em rồi
Bữa ăn trông lên cây
Cây xác xơ thuốc độc
Bữa ăn đào từ đất
Đất lại bỏ hoang
Củ chụp thôi đâu phải là trầm
Đâu phải ngọc trai mà hiếm hoi lặn lội
Rừng cồn gió bụng người mang đói
Em vừa đào vừa hát Sài Gòn ơi!
Tôi muốn nhắc em còn xa lắm Sài Gòn
Còn xa lắm Củ Chi, Bà Điểm
Những miệt vườn ở tận cuối dòng sông
Nhưng tôi sẽ là người độc ác
Nếu nhắc em thì tiếng hát sẽ ngừng
Mưa to quá mà niềm vui dễ vỡ
Nếu em bồn rừng còn có gì che
Thôi cứ để cho em gái hát
Đỡ mủi lòng củ chụp nát trên tay
Sài Gòn ơi, ta đã về đây
Nghe người hát mà thương người quá thể
Mưa đã tạnh mấy năm rồi, nhanh nhỉ
Vẫn nghe hoài tiếng hát ấm rừng lên
Mưa tí tách ở trong tôi từ ấy
Cho hôm nay dào dạt với sông Tiền
***
Bởi nơi ta về có mười tám thôn vườn trầu, mỗi vườn trầu có bao nhiêu mùa hạ
Chị đợi cờ quay mặt vào đêm
Hai mươi năm mong trời chóng tối
Hai mươi năm cơm phần để nguội
Thôi tết đừng về nữa chị tôi buồn
Thôi đừng ai mừng tuổi chị tôi
Chị tôi không trẻ nữa, xóm làng thương ý tứ vẫn kêu cô
Xóm làng thương không khoe con trước mặt
Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy
Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc
Vẫn được tiếng là người đứng vậy
Nhưng anh tôi vẫn còn
Anh tôi che cho ngọn đèn khỏi tắt
Hai mươi năm áo gấm đi đêm
Chị màu mỡ mà anh tôi chẳng biết
Nhưng chị tôi không thể làm như con rắn que cời
Lột cái xác già nua dưới gốc cây cậm quẫy
Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra
Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại
Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cui một mình
Những đêm trở trời trái gió
Tay nọ ấp tay kia
Súng thon thót ngoài đồn dân vệ
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền
Chị vẫn nhớ anh và mong anh như thế
Và chị buồn như bông điệp xé đôi
Bằng tuổi trẻ không bao giờ trở lại
Anh đã nghe và cây cỏ cũng nghe
Cây thương anh làm vành lá ngụy trang
Dù vẫn biết không mát bằng bóng chị
Dù vẫn biết không ấm bằng tóc chị
Cỏ mùa khô một buổi vẫn tưng bừng
Chị thổi ù dằng dặc suốt đời anh
Chiếc khăn tay muốn làm buồm náo nức
Chiếc khăn tay của một thời nước mắt
Sẽ tung cờ hạnh phúc trước hàng hiên
Nhưng đêm nay chị vẫn còn buồn
Nhẫn vẫn lỏng ngón tay khô héo
Chị ơi
Bằng khắc khoải hai mươi năm đời chị
Chị hình dung những bước của anh về
Đêm dày thế chắc tiếng gà phải khỏe
Anh lẽ nào vẫn chiếc gậy tầm vông?
Em lẽ nào chỉ là một dòng sông
Phải cay đắng quay dòng trước chiếc cầu Bình Lợi?
Không thể rút về rừng đại đội một hàng ngang
Đứng lọt thỏm giữa bao nhiêu thương xót
Không thể nhìn đống súng thừa như nhìn thừa đũa bát
Thừa đến nỗi những người còn lại
Không dám nhận mình là may
Hồi Mậu Thân toan tính biết bao điều
Chị vẫn tin chữ hợp cuối trang Kiều
Hoa mai nở hai lần hoa có hậu
Chị vẫn tin có mùa thu xanh đền cho cuốc kêu tháng sáu
Vẫn tin có ngày hái quả cho anh
Bao giờ lúa trổ đòng đòng
Lúa đang trổ
Anh đang về đấy chị
Vuông vải đêm nay là tiếng chim khách đỏ
Anh sẽ nhận ra sao sáng của riêng mình
Anh ở đâu đêm chờ đợi cuối cùng?
Đêm quả thị
Và sáng mai cô Tấm
***
Chiến dịch này ăn cơm không phải độn
Mừng thì mừng mà thương mẹ bao nhiêu
Ngày mai chúng ta đánh trận cuối cùng
Đêm còn lạnhở ngoài ta đấy bạn
Ngoài ta độ này đang giáp hạt
Cây rơm gầy xay giã cũng thưa đi.
Ngày mai chúng ta đánh trận cuối cùng
Một nửa nhân dân ngày mai ta nhận mặt
Nhân dân trở về từ bên kia mặt trăng
Lại vằng vặc những bến bờ thương nhớ
Ngài mai chúng mình tiến vào thành phố
Đêm nay mẹ lại nhắc chúng mình đây
Mẹ cả nghĩ và bố thường ít nói
Lúa đồng mình mỏi mắt vẫn chưa hoe
Ngày mai bố dậy sớm ra tàu
Tàu vẫn chậm và đông người chạy bữa
Bóng bố khất sau nhà ga Chí Chủ
Sắn độ này lên giá quẩy tòng teo
Năm thì ngắn mà tháng ba dài thế
Nhìn trong nhà rộng rãi đến là lo
Ngày mai chúng mình tiến vào thành phố
Chẳng có cách chi báo tin cho mẹ
Mẹ đỡ lo, thấp thỏm đôi bề
Ba đứa con có mặt trong này
Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc
Chiến tranh bao giờ chấm dứt
Nếu một đứa con của mẹ không về
Mẹ ít ngủ mẹ thường thức khuya
Đêm nào cũng dài
Căn nhà có mười mấy mét vuông
Làm lụng đến già còn bao nhiêu tất bật
Sáng úp mặt ngoài đồng
Chiều còng lưng cuốc đất
Qua tết lại bắt đầu cơm sắn cơm khoai
Từ chịu đựng và neo đơn của mẹ
Bao việc làng việc nước lớn dần ra
Nếu mẹ biết chỉ còn đêm nay
Đêm nay nữa là con vào thành phố
Mẹ sẽ khóc
Rồi mẹ đi nhóm lửa
Tưởng sáng ra là con đã có nhà
Và em nữa, em chưa đi ngủ
Đom đóm bay ngoài ngõ vơi đầy
Tháng ba đi trong vườn quả dông dài
Bước thật chậm theo màu chỉ nắn nót
Em tô đỏ dần các tỉnh miền Nam
Những mắt na đang chín
Đường số Một chạy thi với biển
Biển mệt nhoài nằm thở ở Nha Trang
Núi chồn chân trên đỉnh Chứa Chan
Núi nhường bước cho đường vào thành phố
Anh đang ở bên này thành phố
Cách một mệnh lệnh
Cách một trận đánh
Cách một cây cầu, cách một đêm nay
Đèn thành phố hắt lên áo anh
Soi rất rõ từng chiếc khuy sứt mẻ
Thành phố càng gần
Càng không dám nghĩ nhiều đến mẹ
Phải cố quên mẹ ngồi đứng không yên
Dù chỉ có anh và ngọn cỏ lúc này.
***
Có run rẩy một lá buồn nhỏ xíu
Không chở che
Gió đẩy đến gần anh
Sau trận bom
Lại bắt gặp cái nhìn
Ngây dại thế
Và trong sạch thế
Của bình yên
Có thể quá đơn sơ
Như là cỏ
Cuối cùng không bị nát
ấy là chỗ mà đất còn giữ được
Cho mọi tiếng ồn trận đánh khỏi bay đi
ấy là điều mà anh cố nói ra
Không nói được
Bỗng nhìn lên thấy cỏ
Cỏ thật gần
Chiến tranh đang chấm dứt
Qua đêm nay
Cỏ thành chiếc kèn môi
Những ô cửa đầu tiên của thành phố kia rồi
Nếu sáng ra mà anh nhìn thấy cỏ
Tức là anh được thấy em với người yêu
Anh chỉ thở mà không cần phải nói
***
Em cứ tô đậm nữa đi em
Tô thật đậm để hiện ra đất nước
Sớm mai em bổ con lợn đất
Bao niềm vui sẽ tóa dưới chân
Em sẽ hiểu đất nước mình dành dụm
Hiểu vì sao ta bớt giấy in thơ
Để in phiếu đường, phiếu thịt
Hiểu vì sao những thợ cày giỏi nhất
Đang khoét chiến hào bằng một chiếc xẻng con
Chiếc xẻng đã mòn
Vẫn đắp cao đôi bờ công sự
Đắp hối hả trong đêm châu thổ
Đó là con đường đất nước đi qua
Để trở về cây lúa
Sớm mai đất nước vào thành phố
Đêm nay xe pháo vẫn sang phà
Với đôi dép tân binh
Đất nước sẵn sàng giẫm lên nhiều thử thách
Các chiến sĩ lái xe dốc bi-đông chè đặc
Đất nước sẵn sàng thức trắng nhiều đêm
Dù kẻ thù từng đàn đang tháo chạy
Chúng gọi nhau táo tác trên trời
13 nóc nhà cao 13 bến tát
Nước Mỹ tát hoài ô nhục vẫn không vơi
Em cứ tô đậm nữa đi em
Tô thật đậm để hiện ra đất nước
Hiện ra ngày chúng ta hằng mong
Đất nước theo em ra ngõ một mình
Cau vườn rụng một tầu đã cũ
Đất nước đêm nay
50 triệu người không ngủ
Đang bóc đi tờ lịch cuối cùng.
Lời bình:
Tờ lịch cuối cùng là một bài thơ chứa đựng những suy tư sâu sắc về thời gian và cuộc đời. Tờ lịch cuối cùng rơi xuống không chỉ là biểu tượng cho sự kết thúc của một năm, mà còn là lời nhắc nhở về sự hữu hạn của đời người. Qua đó, Hữu Thỉnh thể hiện triết lý về sự trân trọng từng khoảnh khắc trong cuộc sống.
Tự do
Có cách chi giữ nguyên được ngày này
Khi chúng ta chẳng còn trong đội ngũ
Con ngựa già trí nhớ
Đánh rơi bao kỷ niệm dọc đường
Nắng chẳng giữ cho ta, mây chẳng giữ cho ta
Như bây giờ đang mây đang nắng
Đi tìm những người lính
Nhưng họ đã già rồi
Và chính ta, ta cũng già đi
Ngày 30 tháng 4 thành tên gọi con đường
Lũ con cháu đi lại hồi hộp bên nhau
Cùng với chúng ngày hôm nay trẻ mãi
***
Năm cánh quân từ năm hướng trở về
Thành phố đầy áo trận
ở cuối đường một vành lá vút qua
Chỉ chờ thế là người xô như sóng
Người ta bỏ các máy điều hòa
Xuống đường
Chen với nắng
Những mặt người như cờ đỏ mới may
Cả thành phố biến thành trẻ nhỏ
Bóng bay lên làm thấp những hàng cây
Cứ lơ lửng cứ vẩn vơ thật lạ
Vừa là mình vừa là ai
Không kịp nghĩ điều gì rành mạch
Bước chân đan chộn rộn với người
Quàng thương nhớ của phố phường lên tháp pháo
Tháp pháo để trần lăm chăm vết đạn
Dằng dặc đường về
Mòn xích sắt vẫn quay nồng mùi đất
Mặt đường hăng mùi cỏ ngoại ô
Đồng chí trưởng xe
Mình quấn đầy băng trắng
Anh giơ tay cả thành phố động lòng
Những bó củi công kềnh
Những bao gạo vàng khè bụi bám
Các anh đã tới nơi
Vẫn sẵn sàng đi tới
Tên giặc nào cựa quậy phía sau lưng?
Kính ôtô giập vỡ vết chân chim
Mui xe bạc những hiểm nghèo chồng chất
Xạ thủ trung liên
Quần áo màu rừng ngả sang màu đất
Đôi dép râu dẫn trước đội hình
Hoa nhiều quá nhưng anh không kịp nhận
Ngõ ngách nào súng vẫn nổ vào anh
Các anh về
Làm một cơn giông lớn
Sáng lên gương mặt phố phường
Theo các anh rừng núi trở về
Các anh về như núi
Những người yêu của những người yêu
Niềm trông đợi của những niềm trông đợi
Những nụ cười dưới vành mũ sáng trưng
Thành phố hả hê đung đưa bồng bột
Những con đường ôm chầm lấy các anh
Cùng một lúc ôm bao miền đất nước
Ôi nước mắt! Tự bao giờ, nước mắt
Kể bao điều mừng tủi với đoàn quân.
Những góc phố đã trơ mòn, nhạt thếch
Đã lên rêu đã lẵp lại mình
Thoi thóp
Bấp bênh
Lạnh lùng
Méo mó
Đồng tiền rách trên tay người hành khất
Giày dép kiêu kỳ con cậu con cô
Chúng nó đi qua phập phì nước bọt
Thành phố căng ra
Gào thét
Bác đàn cò lọ mọ lên đây
Làm đêm về uống nước suông đi ngủ
Người ta sợ ban đêm như sợ đồng tiền giả
Và hoàng hôn là ban mai của cô gái bán mình
Những mái tôn the le hoán hết mặt sông
Đời vật vờ trôi nổi
Những nén nhang, những mâm bông mâm trái
Những bàn tay khấn vái
Nước lã đổ đi, nước lã lại đem thờ
Ngày mai vẫn xa lơ xa lắc
Mòn tay lần tràng hạt
Tràng hạt vẫn không cùng
Đô – la đỏ và đô – la xanh
Tờ nhật trình và những tên chửi đổng
Hai con hổ nhồi rơm và chiếc ngai tổng thống
Và chính tên tổng – thống – cổ – phần
Rơi xuống
Cùng những thằng buôn nạng gỗ phế binh
Những thằng đặt máy nghe trộm
Quan và lính
Thét lác và dạ vâng
Tụt tất cả dưới đôi càng máy bay lên thẳng
Lá cờ 50 ngôi sao
Cuộn thành một tổ sâu
Nước Mỹ ra đi với một khuôn mặt héo
Các anh về
Những lá cờ cháy sém
Chúng tôi nhận ra khói đạn dọc đường
50 triệu đứa con
Thương mẹ vừa sinh hạ
Sao hôm nay dễ khóc dễ cười
Không phải mặt trời
Chính lá cờ cho thành phố chói chang
Trong veo và thở phập phồng soi khắp
Những cuộc đời ở bên kia mặt lá
Rưng rưng bước lên cầu thang
Cửa sổ mở ra bốn bề hy vọng
Lại hiện về bước chân em Đuốc sống
Chạy như bay để kịp sáng hết mình
Những linh hồn từ ngọn lửa tự thiêu
Âm ỉ từng hàng gạch lát
Những dòng người tìm về dân tộc
Câu ca dao và gạch đá cùng đi
Lịch sử chép trong đề lao cấm cố
Máu sinh viên bầm tím từng dòng
Các chiến sĩ biệt động thành
Các cô chiêu đãi viên
Kéo cái chết đến đầu giường của giặc
Ma-giét-tích, Prê-di-dăng
Nghe tiếng nổ má châm đèn với bánh
Tiếng thì thầm sau cửa liếp
Và em
Em bị bắt sau tiếng giày thúc cửa
Tất cả đã trở về
Từ cầu chữ Y
Trường đua Phú Thọ
Tổng kho Nhà Bè
Cho chúng tôi hình ráng ra Đất nước
Cờ bay lộng trên nóc dinh Độc Lập
Những cánh quân sum họp những chân trời
Tháng Tư nay cây cỏ cũng ra tù
Mùa hạ đón bằng cơn mưa nồng nhiệt
Mưa vỡ ra trên vòm cây thảng thốt
Mưa ngọt ngào nhà cao thấp rưng rưng
Hơn nước mờ bay không để dấu trên đường
Tôi bị lắc giữa hai chiều hư và thực
Trời ngây ngất tôi của trời một ít
Phố chật người tôi bước với người đây.
Tôi ngẩn ngơ cuối gió những hàng cây
Tôi xô cửa cùng sức đè xích sắt
Có ánh mắt không làm sao đi dứt
Người ơi người như cốc rượu đầu tiên
Nếu anh còn
Giờ này anh ở đâu
Anh Trỗi?
Đeo quanh anh không phải những vòng hoa
Không nguyệt quế, không cầu vồng huyền hoặc
Đeo quanh anh là những vòng người
Có người trẻ, có người già
Họ tự do hoan hỉ cùng anh
Cứ hồn nhiên giật áo kiềng chân
Đường đã sạch những vòi rồng xối nước
Họ hỏi anh mà không đợi trả lời
Anh cứ thế mà miên man
Họ kéo đến đông thêm
Anh cứ thế mà đầy ắp
Hình như chị xếp thùng chiều nào quanh vòi nước
Hình như anh lưng gò xuống máy khâj
Anh tìm họ nhưng anh không lên bục
Cứ cảm thông chia sẻ giữa nền đường
Nếu anh con
Việc đầu tiên
Anh lồng đi phá cửa các nhà tù
Vai anh đỡ những người ốm lả
Họ không còn sức để cười để khóc
Toàn thân họ đã biến thành nước mắt
Trên vai anh nóng bỏng Tự Do
Con đã từng khóc Bác ở trong rừng
Phải dựa vào cây trong đêm truy điệu
Chiếc Orionton giàn giụa nước mưa
Bài điếu văn nghe khi rành khi mất
Trong buồng lái xe tăng nhỏ hẹp
Chúng con nâng niu tấm ảnh của Người
Giấc ngủ bữa ăn hành quân đuổi giặc
Không lúc nào chúng con vắng Bác
Con đã về nơi Bác ra đi
Đường lắm dốc hôm nay con mới tới
Chúng con về như Bác vẫn từng mong
Đất nước liền một dải
Đã trở về từng hạt muối ngoài khơi
Từng đọt măng trên rừng, từng đám mây lưu lạc
Tất cả dưới bàn tay của Bác
Hóa thiêng liêng máu thịt tự hào
Chúng con thèm nghe Bác nói một câu
Giữa bến Nhà Rồng mênh mông trời nước
Thèm nghe thơ, thèm đôi tay bắt nhịp
Để vui hết những gì ta có được hôm nay
Hạnh phúc nhân dân – mơ ước tột cùng
Người cao cả tận ngọn nguồn thương nước
Sông trôi mãi nhưng bờ còn giữ được
ánh mắt Người sâu vợi suốt thời gian
Đang tỏa khắp đang ân cần căn dặn
“Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta
Thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”
Tên giặc cũ chuồn rồi, lại những tên giặc mới
Chúng con nghe nóng bỏng lời Người.
Lời bình:
Trong Tự do, Hữu Thỉnh khắc họa khát vọng lớn lao của con người về sự tự do, không chỉ trong không gian vật lý mà còn là sự tự do trong tâm hồn. Ông sử dụng hình ảnh cánh chim bay, gió lộng để tượng trưng cho khát vọng vươn tới những chân trời mới, thoát khỏi những ràng buộc, gò bó của cuộc sống.
Hồi âm
Tôi muốn tan vào cơm mưa Sài Gòn đường đột
Làm giọt nước đầu mùa
Tôi cùng mùa hạ dắt nhau đi
Mang thơm nức những triền sông cây quả
Đến những đảo xa
Những quả trứng giập giờn giữa sóng
Những nhớ thương không ở ngoài tầm
Đất nước
Chính ở đây tôi nghe rõ tiếng gọi đời mình
Giữa bao nhiêu ồn ào của biển
Tôi thấy rõ nhân dân xanh lẫn vào cây chàm cây đước
Nhân dân tự do
Triệu bàn tay dằng dịt ôm bờ
Ghì lấy từng con tôm con tép
Ghì lấy dấu chân ai khỏa thượng nguồn
Cũng tìm về cuối đất
Nhịp triều thịnh vượng mũi Cà Mau
Nhân dân chia mình ra các đảo
Làm vệ tinh
Yên dạ những con tàu
Nhân dân có tên là Bình, là Nghĩa, là Tỏ, là Thu
Là xạ thủ trung liên
Là báo vụ viên
Là Phấn khí tài, là quỳnh quản lý
Đã tới đảo bằng mũi tàu truy quét
Dựng lên đảo pháo đài mắt thức
Yêu đảo bằng cánh tay dài rộng đất liền
Tôi đang đi trên đảo chẳng bình yên
Nghe rõ lắm lời tuyên ngôn của cát
Ném tơi bời trên da thịt nóng rang
Biển lại hát bài hát cũ
Biển luôn luôn muốn chứng tỏ mình
Khao khát
Sóng nồng nã không có gì ngăn được
Sóng mênh mông thử sức con người
Ngày ở đảo dài
Mặt trời lên từ sóng và chìm dần vào sóng
Trời bao giờ cũng muốn đỡ biển lên
Mặt trời tôi vào biển
Tình yêu cường tráng và dai dẳng
Hôm nay và hôm qua
ở đây và nơi khác
Chẳng sợ nhàm
Mặt trời cháy với một niềm mong mỏi
Mỗi hạt cát hành tinh cũng phát sáng như mình
Em ơi em, em là biển của đời anh
Là vụng kín
Là bến bờ nương tựa
Em làm anh bận rộn ngày ngày
Em làm anh nóng nực ngày ngày
Anh chìa ca nhận phần nước hiếm hoi
Để em thấm vào anh khúc ngọt ngào chia sẻ
Em làm anh tơ non
Em làm anh mạnh mẽ
Cứ vẫy vũng như đảo của ta
Biển nguội dần vỗ tím vào đêm
Những cánh chim
Khép chiếc ô râm mát
Những chiếc ô biến thành lời ru
Nựng nhau quanh nhà bạt
Đó là lúc đảo cất lên tiếng hát
Những bàn chân sánh ướt lân tinh
Đảo độc thoại dưới trời sao rộng rãi
Sóng mang đi âu yếu đất liền
Và anh
Anh biến thành một tấm áo choàng
Che đồng đội những cơn mưa xích đạo.
Lời bình:
Bài thơ Hồi âm là một lời nhắn gửi, một lời hồi đáp đối với những ký ức, những tình cảm đã qua. Hữu Thỉnh sử dụng lời thơ nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, để diễn tả cảm giác mong chờ và hy vọng được hồi đáp từ quá khứ, từ những người đã từng gắn bó.
Ấm lạnh
Đêm nay là cái đêm gì nhỉ
Rét biến thành dây để trói tôi
Em kề bên hoa trước mặt
Ngày mai thương nhớ đã qua trời.
Lời bình:
Ấm lạnh thể hiện sự thay đổi của cuộc sống qua những biến thiên của thiên nhiên và con người. Hữu Thỉnh khéo léo lồng ghép hình ảnh của mùa đông và mùa hè, để nói lên sự đa dạng và phức tạp của cảm xúc con người, từ sự lạnh lùng đến sự ấm áp, từ cô đơn đến niềm hạnh phúc.
Lời sóng
Những người lính ra đảo
Có dòng sông đồng hành
Năm dài và đất rộng
Vui buồn sau chiến tranh
Có người lính xây thành
Lẫn vào lau biên ải
Có bao người con gái
Đến thăm nàng Vọng Phu…
Lời bình:
Bài thơ Lời sóng thể hiện sự giao tiếp của con người với thiên nhiên, thông qua hình ảnh của sóng biển. Hữu Thỉnh mượn lời sóng để diễn tả những nỗi niềm, những khát khao trong lòng người, khi đối diện với cuộc sống bao la, đầy biến động.
Bình yên
Ngõ ôm chèo theo sông
Lại ngược lên với suối
Bắt đầu là bóng núi
Vô cùng như mắt em
Gió níu gió lặng im
Thế là trời để ngỏ
Cho ta đến với mình
Trong thầm thì tiếng cỏ
Anh muốn bế cả chiều
Hôn lên ngày gặp mặt
Tình đầy trăng vẫn khuyết
Em xanh ngày đang xanh
Những chùm quả bình yên
Rời xuống triền núi vắng
Trời muốn nói câu gì
Ngó ta
Rồi im lặng!….
Lời bình:
Bình yên là bài thơ mang đậm chất triết lý, khắc họa niềm khao khát của con người về sự tĩnh lặng và an nhiên. Hữu Thỉnh sử dụng hình ảnh thiên nhiên để miêu tả trạng thái bình yên, nơi con người có thể tìm về sau những ồn ào, xô bồ của cuộc sống.
Thơ viết ở biển
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em…
Lời bình:
Thơ viết ở biển chứa đựng những cảm xúc mãnh liệt khi đối diện với thiên nhiên bao la của biển cả. Hữu Thỉnh sử dụng hình ảnh biển để thể hiện sự dạt dào của cảm xúc, những suy tư sâu sắc về cuộc đời, cũng như sự trăn trở về những mối quan hệ giữa con người với nhau.
Em còn nhớ chăng
Ai đưa đò tình
Dạt vào bến lở
Còn lại mình anh
Gom từng mảnh vỡ
Tháo cả mái trời
Che không đủ ấm
Đội nghìn cơn mưa
Không nhòe kỷ niệm
Như cây tìm lá
Như cá tìm vây
Anh gọi khản lời
Chiều dang dở gió
Mở trăng ra tìm
Trăng còn in bóng
Mở cỏ ra xem
Cỏ còn hơi ấm
Hoa vẫn ngày nào
Không an ủi được
Tình bao nhiêu bậc
Em còn nhớ chăng.
Lời bình:
Em còn nhớ chăng là bài thơ chứa đầy nỗi nhớ và sự tiếc nuối về một mối tình đã qua. Hữu Thỉnh sử dụng câu hỏi để khơi gợi cảm xúc, nhắc lại những kỷ niệm đẹp giữa hai người, nhưng cũng không giấu được sự đau đáu về thời gian trôi qua và những gì đã mất.
Sức bền của đất
Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ
Mẹ ở nhà đã cất áo bông
Mẹ có ra bờ sông
Qua bến đò tiễn con dạo trước
Đường xuống bến có mười sáu bậc
Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu…
Trận địa của con nối tới bến sông
Có cái khát của nhiều trận đánh
Có niềm vui trước mỗi cơn mưa
Khum bàn tay vốc đom đóm bay ra
Kỷ niệm lập loè những đêm bám chốt
Kẻ thù trước mặt
A.R.15 xả đạn liên hồi
Cối cá nhân kêu dóng một
Pháo tầm xa cố tình thay quy luật
B.52 hay nhè trước mỗi bữa ăn
Cây cối thưa dần
Màu nguỵ trang cuối cùng là màu của đất.
Và mẹ là người chúng con thương nhớ nhất
Đất nước ngày có giặc
Mẹ vẫn đỏ miếng trầu
Ấm một vùng tin cậy phía sau.
Sóng đánh cao trên mặt nước Sa Thầy
Pháo giặc hầm hầm Đắc Siêng, Đắc Mót
Đường Mười Tám như dây bị đứt
Rơi rụng hai bên những ung nhọt quân thù
Chúng con ở đây hai mươi tám ngày qua
Vừa im lặng vừa ồn ào trên chốt
Phơi chiếc khăn sương sớm mai rửa mặt
Ngủ nhát gừng giữa hai đợt tấn công
Tay thêm chai mỗi bận moi hầm
Ném cho nhau những khẩu phần khô khốc
Mười sáu bận quân thù bắn truyền đơn xin nhặt xác
Mặt chúng nó rung lên những chữ nghĩa đen xì…
Mây trôi trước mặt Đắc- Bờ- Si
Ai đốt rẫy cỏ thơm như mía nướng
Đất chiến hào như một người hay chuyện
Ta chưa một lần được thư thả đất ơi
Ta chưa một lần nói được nên lời
Lòng của ta với mẹ!
Xanh xao nước trời mùa khô rất trẻ
Hầm hập quanh người đất đổ mồ hôi
Đưa mắt cho nhau trò chuyện không lời
Đồng đội của ta
Người giữ A.K, người ghìm B.41
Đồng đội hay cười qua hàm răng cắn chặt
Nụ cười mát lành như mấy trắng bay qua
Ta đi từ đầu sông Lô đến cuối sông Thương
Từ thung lũng Sa Thầy ra sông Trường trắng cát
Đất vẫn đất của dân ca và mía mật
Gió thổi rừng lồ ô xao xuyến biết bao nhiêu
Vẫn chiếc cối xay cười ra hạt trắng tinh
Vẫn cây chuối cuối vườn hay ngẫm nghĩ
Con dao băm bèo, cái xa cuốn chỉ
Phấp phới buồm nâu chiều mỏng tang
Đất bận quanh năm điệp khúc mùa màng
Chị búi tóc cao hơn, chịu thương chịu khó
Mẹ vẫn đong bữa ăn bằng chiếc lon nho nhỏ
Quá nữa những cánh đồng dành cho đứa con xa
Sức lực nào từ mạch đất ông cha
Chuyền đến tận chiến hào hăm hở thế
Ánh sáng nào từ mênh mông lòng mẹ
Soi cho ta qua khe ngắm đầu ruồi
Ta lớn lên kịp đến chiến trường này
Để đối địch với quân thù đang quẫy cựa
Này đồng đội, này nhân dân, bè bạn nữa
Mẹ ở nhà cứ yên tâm về con
Kẻ thù lẩn nhanh hơn, thụt đầu trong vỏ cứng
Lấy pháo và bom để xua cơn hốt hoảng
Tung truyền đơn trắng dã âm mưu
Dây thép gai cuốn dài bao nhiêu
Đối với chúng ta lại còn quá trống
Kẻ thù hô hào gia tăng quần áo mỏng
Lại rất thích dày vỏ thép chiến xa
Phòng thủ bê tông, bao cát, mìn chờ
Chưa yên dạ, tiêm thêm liều kích thích…
Kẻ thù không ưng ta gọi anh em
Đừng chú bác ông bà gì ráo
Muốn phá vỡ những giọt quê hương lặn sâu trong máu
Chúng nhổ làng đi, dồn vô “ấp dân sinh”
Kẻ thù làm cho ta thương nhớ nhiều hơn, sôi sục gấp trăm lần
Con gái con trai nhớ nhau qua bãi bom toạ độ
Màu mạ xanh thành màu che chở
Hang đá không đèn nuôi trí tạo thời cơ
Ta hoãn cưới một năm rổi lại hai năm
Đi đánh giặc chân trời in màu thiếp
Có miếng cao nai không sao gửi được
Mẹ ta đã ngoài sáu mươi
Nguyên nỗi nhớ thương này
Đủ nuôi lớn cho ta thành dũng sĩ
Xin cảm ơn những khu rừng thiên
Tán lá rợp cho ta trầm tĩnh lại
Chông tẩm thuốc sau nhà, đá mài dao dưới suối
Con đường mòn nung đỏ dưới ngàn cây
Một cọng rau gợi nhớ về xuôi
Củ chuối chát ghi mối thù canh cánh
Đêm bên suối sao trời rơi óng ánh
Nhắc ta hoài biển đang vỡ dưới kia
Con đường tấy lên như một lời thề
Đất gọi ta, làng gọi ta, nóng bỏng
Vịn vào cây ven đường nhẵn bóng
Ngỡ như đồng đội đỡ ta lên
Những đứa con quen ném bã trầu lấy cớ để yêu nhau
Giờ biết xả trung liên và quăng U.S
Cưa ống bom đi làm ca làm bát
Ngâm giá làm dưa trong thùng đạn bốn mươi li
Giàn mướp nguỵ trang lúc lắc xe đi
Lúc nghỉ ngơi chui vào cua-mang- cá
Diệt cứ điểm bắt đầu bằng bóc vỏ
Phục kích bất ngờ bắn giặt xóc xâu
Đánh bộc phá theo đội hình cuốn chiếu
Đột kích xe tăng đạp rắn trúng đầu…
Kim nhể gai kim càng phải nhọn
Mẹ dạy con như thế tự bao giờ
Xa mẹ chúng con vỡ nhẽ trăm điều
Ăn trông nồi là nhường nhịn anh em
Ngồi trông hướng là biết thù bóng tối
Chúng con làm ra những bài hát mới
Chiếc võng, con cua… ngôn ngữ của ông bà
Biết đào hào chữ Z, khoét hầm chữ A
Vách nứa hoa chanh cửa xoè nan quạt
Sợi dây rừng cũng làm nên bền chặt
Tiếng gọi gà rất cổ mỗi chiều hôm
Gió trẻ trung rung động những khu rừng
Chúng con hát trong giọng trầm đại đội
Đắp nắm đất cho người ở lại
Trận đánh hiểm nghèo: tất cả giơ tay!
Quần áo màu rừng, đôi mắt màu mây
Trái tim thả diều về thăm mẹ
Nỗi nhớ người yêu thêm vào đêm chuẩn bị
Lại những rừng châm, lại những đồi lau…
Chiến dịch mở ra thời vụ bắt đầu
Mang cái rét giêng hai đi bám giặc
Mang chất thép định hình trên bàn cát
Qua những cánh đồng đang sủi tăm phù sa
Ta chao chân trên những mảnh bờ
Lặng lẽ nhận sức bền của đất
Đạp cứ điểm
Lần theo từng dấu dép
Ta nhận ra màu bùn qua những cánh đồng chiêm.
Lời bình
Bài thơ Sức bền của đất thể hiện lòng biết ơn và ngưỡng mộ đối với sự kiên cường, mạnh mẽ của đất đai, thiên nhiên. Hữu Thỉnh so sánh sức chịu đựng của đất với con người, từ đó khơi dậy niềm tin vào sự bền bỉ và sức sống mãnh liệt của con người trong cuộc đời.
Hỏi
Tôi hỏi đất: Đất sống với đất như thế nào?
– Chúng tôi tôn cao nhau
Tôi hỏi nước: Nước sống với nước như thế nào?
– Chúng tôi làm đầy nhau
Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với cỏ như thế nào?
– Chúng tôi đan vào nhau
Làm nên những chân trời
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
Lời bình:
Hỏi là một bài thơ mang tính triết lý, khi Hữu Thỉnh đặt ra những câu hỏi về cuộc sống, về tình yêu, về con người và những giá trị của họ. Bằng cách đặt ra câu hỏi, ông không chỉ bày tỏ sự băn khoăn, mà còn thôi thúc người đọc suy ngẫm về những điều đang diễn ra xung quanh.
Chiều sông Thương
Đi suốt cả ngày thu
vẫn chưa về tới ngõ
dùng dằng hoa quan họ
nở tím bên sông Thương
nước vẫn nước đôi dòng
chiều vẫn chiều lưỡi hái
những gì sông muốn nói
cánh buồm đang hát lên
đám mây trên Việt Yên
rủ bóng về Bố Hạ
lúa cúi mình giấu quả
ruộng bời con gió xanh
nước màu đang chảy ngoan
giữa lòng mương máng nổi
mạ đã thò lá mới
trên lớp bùn sếnh sang
cho sắc mặt mùa màng
đất quê mình thịnh vượng
những gì ta gửi gắm
sắp vàng hoe bốn bên
hạt phù sa rất quen
sao mà như cổ tích
mấy cô coi máy nước
mắt dài như dao cau
ôi con sông màu nâu
ôi con sông màu biếc
dâng cho mùa sắp gặt
bồi cho mùa phôi phai
nắng thu đang trải đầy
đã trăng non múi bưởi
bên cầu con nghé đợi
cả chiều thu sang sông.
Lời bình:
Chiều sông Thương khắc họa khung cảnh chiều tà yên bình trên dòng sông Thương, nơi mang đến cảm giác yên ả nhưng cũng chứa đựng nhiều cảm xúc trầm lắng. Hữu Thỉnh dùng hình ảnh con sông để nói về sự trôi đi của thời gian, những kỷ niệm và nỗi nhớ.
Trên một chiếc xe tăng
Năm anh em trên một chiếc xe tăng,
Như năm bông hoa nở cùng một cội,
Như năm ngón tay trên một bàn tay,
Đã xung trận cả năm người như một.
Vào lính xe tăng anh trước anh sau,
Nết ăn ở người thì lạnh, nóng,
Khi đã hát hòa cùng một giọng,
Một người đau tất cả quên ăn.
Năm anh em mỗi đứa một quê,
Đã lên xe là cùng một hướng,
Đã lên xe là chung khổ sướng,
Trước quân thù nhất loạt xông lên.
Năm anh em mang năm cái tên,
Đã lên xe không còn tên riêng nữa,
Trên tháp pháo một ngôi sao màu lửa,
Năm quả tim một nhịp đập dồn.
Một con đường đất đỏ như son,
Một màu rừng xanh bạt ngàn hy vọng,
Một ý chí bay ra đầu ngọn súng,
Một niềm tin nghiến nát mọi quân thù
Lời bình:
Bài thơ Trên một chiếc xe tăng khắc họa hình ảnh người lính trên chiếc xe tăng giữa chiến trường khốc liệt. Hữu Thỉnh miêu tả cuộc sống trong chiến tranh, nơi chiếc xe tăng không chỉ là phương tiện chiến đấu mà còn là “ngôi nhà di động” của người lính, nơi họ phải đối mặt với gian khó, hy sinh. Qua hình ảnh mạnh mẽ này, tác giả tôn vinh lòng dũng cảm và ý chí kiên cường của những người lính.
Để lại cho em
Chị lên tám tuổi
Để lại cho em
Dép đỏ, mũ len
Xinh xinh đôi tất.
Áo chị, mẹ mua
Bây giờ em mặc
Hai bên hàng cúc
Có đôi thỏ đùa.
Những ngày chị qua
Bây giờ em tới
Cơn ho, cơn sốt
Những ngày lên năm.
Để lại cái ngoan
Trên tay sạch sẽ
Quàng qua cổ mẹ
Thơm thơm thơm thơm…
Em học ngày ngày
Cái ngoan của chị
Những ngày chị bé
Như em bây giờ.
Lời bình:
Để lại cho em là một bài thơ chứa đầy tình cảm và trách nhiệm, như một lời nhắn nhủ từ một người lính hoặc một người cha để lại cho người thân yêu. Hữu Thỉnh đã khéo léo bày tỏ niềm trăn trở về tương lai, về những giá trị tinh thần mà người đi trước truyền lại cho thế hệ sau, với mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho những người mình yêu thương.
Ngôi nhà của mẹ
Chiếc vé tàu cũng hồi hộp như con
khi con về với mẹ
con lại ngồi vào chiếc chõng tre xưa
nơi mẹ vẫn ngồi khâu cha thường chẻ lạt
bao xa cách lấp bằng trong chốc lát
trăm cánh rừng về dưới giọt ranh thưa
xin mẹ lại cho con bắt đầu đi gánh nước
gánh bao nhiêu trong mát để dành
xin mẹ lại cho con nấu bữa cơm mà không cần giấu khói
để con được cảm ơn ngọn lửa nhà ta
ngọn lửa biết thay con tìm lời an ủi mẹ
vẫn chiếc dây phơi buộc ở đuôi kèo
vẫn ở đó giờ cao hơn với mẹ
con phơi áo nghe hai đầu dây kể
thương quá những khi mưa con trai mẹ vắng nhà
chiến tranh đi qua mẹ con mình
hàng gạch lún giữa sân cơn mưa còn đọng nước
hôm nay con trở về nhà
chiếc vó nhện trên tường cũ vô cùng thân thuộc
với một người từng chịu nỗi cách xa
họ chỉ cần đi ngược con đường đã làm nên xa cách
là có thể về với mẹ được ngay
nhưng với một người lính như con
muốn gặp mẹ phải vượt lên phía trước
phải lách qua từng bước hiểm nghèo
ở trên đó bất ngờ con gặp mẹ
như con đang gặp mẹ bây giờ
bước chân con chưa kín mảnh sân nhà
phía biên giới lại những ngày súng nổ
ngôi nhà mẹ là chiếc ga bé nhỏ
chúng con đến và đi trong suốt cuộc đời mình.
Lời bình:
Bài thơ Ngôi nhà của mẹ đầy ấm áp và thiêng liêng, nơi hình ảnh ngôi nhà không chỉ là nơi che chở mà còn là biểu tượng của tình mẫu tử. Hữu Thỉnh sử dụng hình ảnh quen thuộc của ngôi nhà, mái tranh, vườn cây để gợi lại những kỷ niệm về mẹ, thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn sâu sắc đối với người mẹ và tình yêu gia đình thiêng liêng.
Bầu trời trên giàn mướp
Thu ơi thu ta biết nói thế nào
sương mỏng thế ai mà bình tĩnh được
hứa hẹn bao nhiêu bầu trời trên giàn mướp
lúc hoa vàng thu mới chập chờn thu
ngỡ như không phải vất vả chi nhiều
sau tiếng sấm thế là trời mới mẻ
quả đã buông thủng thẳng xuống bờ ao
ta cứ tưởng đất sinh sôi thật dễ
trời thu xanh và hoa mướp thu vàng
thưa mẹ
những năm bom nơi con không thể có
bến phà con đã qua, rừng già con đã ở
gặp vạt lúa nương con cũng viết thư về
nên không dám
dù một giây sao nhãng
bầu trời này từng dẫn dắt con đi.
Lời bình:
Bầu trời trên giàn mướp mang đậm chất giản dị, mộc mạc với hình ảnh thiên nhiên làng quê Việt Nam. Qua hình ảnh giàn mướp xanh mướt dưới bầu trời trong veo, Hữu Thỉnh gợi lên sự yên bình, tươi mát và hy vọng về một cuộc sống giản đơn nhưng đầy đủ, hạnh phúc. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu hiện của lòng yêu quê hương, yêu đời.
Một ngày
Chiếc ly còn trên bàn
Thêm một ngày kỷ niệm chưa bị đem bán
Em chưa đứng chợ đen
Kiếm ăn bằng lừa đảo.
Thêm một ngày yên tâm nhìn các con
Chưa bôi xóa chưa phản loạn
Bạn cũ ghé thăm nhà
Chưa theo kiểu hợp đồng hai chiều.
Anh cầm đũa và vuốt tóc em
Thêm một ngày bằng bàn tay sạch
Uống nước còn biết tự xấu hổ
Chưa hắt cặn sang người khác
Người xanh người đỏ
Gánh gió leo dây
Bắc thang hỏi trời
Đèn khêu trước bão
Thêm một lần đi trên gai
Thêm một ngày được làm người lương thiện.
Lời bình:
Bài thơ Một ngày thể hiện một khoảnh khắc bình thường trong cuộc sống, nhưng dưới ngòi bút của Hữu Thỉnh, những chi tiết nhỏ nhặt cũng mang theo sự sâu lắng và ý nghĩa. Qua một ngày, tác giả gửi gắm thông điệp về sự quý trọng thời gian, về cách con người có thể tìm thấy ý nghĩa trong từng khoảnh khắc dù ngắn ngủi.
Ước
Có cái gì đã rơi
Vừa rơi thêm lần nữa
Chỉ còn một mình anh
Với chiều qua cửa sổ
Mùa thu cũng bỏ trời
Đi về miền tiếc nuối
Có con tàu mệt mỏi
Thét còi trong tim anh
Ước có em ngoan mềm
Chợt đến cùng ngọn gió
Tóc em hay mây thở
Bàng hoàng trên vai anh
Lời bình:
Ước là bài thơ giản dị nhưng đầy sức mạnh, thể hiện những mong ước nhỏ bé mà sâu sắc của con người về cuộc sống. Hữu Thỉnh khắc họa những điều ước bình dị như hạnh phúc, an lành, sự sum vầy trong gia đình và hòa bình cho đất nước. Qua bài thơ, ông nhắc nhở người đọc về sự trân trọng những điều giản dị mà quan trọng trong cuộc sống.
Hoa tặng
Bông hoa này tới em
Sau bao người mặc cả
Con đường này tới em
Sau bao nhiêu lầm lỡ
Người ta đã nhấc lên
Rồi người ta đặt xuống
Anh là kẻ dại khờ
Mua hoa này đem tặng
Anh muốn bước thật êm
Nhưng cầm sao nổi gió
Biết vậy em vẫn cười
“Anh xem, hoa vừa nở”.
Lời bình:
Hoa tặng mang trong mình vẻ đẹp của lòng biết ơn và sự kính trọng. Qua hình ảnh hoa tặng, Hữu Thỉnh khéo léo gửi gắm thông điệp về sự tri ân, về những giá trị tinh thần cao quý mà con người nên trân trọng và dành cho nhau. Hoa không chỉ là vật phẩm mà còn là biểu tượng của tình cảm, của lòng chân thành.
Xa vắng
Xa xắng quá bồn chồn đi hỏi cát
Đường đông người, đâu nhỉ dấu chân em
Xa vắng quá một mình đi hỏi bến
Người sang đò có dặn sóng gì thêm
Xa vắng quá tần ngần đi hỏi chợ
Người mua gương dạo ấy có hay về?
Người mua gương đã một lần trở lại
Soi tưng bừng, rồi lặng lẽ quay đi
Lời bình:
Xa vắng là bài thơ gợi lên cảm giác cô đơn và nhớ nhung khi những người thân yêu không còn ở bên. Hữu Thỉnh khéo léo thể hiện nỗi lòng của người xa cách, vừa da diết, vừa u buồn, nhưng cũng đầy trân trọng những kỷ niệm đã qua. Qua bài thơ, ông gửi gắm sự tiếc nuối về thời gian và tình cảm đã qua đi.
Tự thú
Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu
Cây đổ về nơi không có vết rìu
Ôi hoa tặng, chiều nay ai dẫm nát
Mưa dập vỡ trên đường em trở gót
Người yêu thơ chết vì những đòn văn
Người say biển bị dập vùi trong sóng
Người khao khát ngã vì roi mơ mộng
Ta yêu mình tan nát bởi mình ơi.
Lời bình:
Tự thú là một lời bày tỏ chân thành, nơi Hữu Thỉnh thể hiện sự phản tỉnh và đối diện với chính bản thân mình. Với những câu từ mộc mạc nhưng thấm đẫm sự thật lòng, ông thổ lộ những suy tư về những sai lầm, những khuyết điểm và cả mong muốn sửa đổi. Đây là một bài thơ mang tính chất tự vấn và hướng thiện.
Thứ hoa đẹp nhất
Anh trao thầm bàn tay anh cho tôi
Bàn tay nóng tôi nhận vào cơn sốt
Tôi vét mãi mới tìm ra hạt thóc
Hạt thóc gầy ram ráp cứa vào đêm
Chúng tôi đi mót cuối bìa rừng
Giặc vừa rút sau một ngày rình rập
Gió ầm ào qua nương
Những bông lúa chỉ còn là bã gió
Chúng tôi tuốt phồng tay
Chúng tôi còn tuốt nữa
Hạt thóc nhằn ấm cả đêm suông
Đất rừng mênh mông
Đất núi mênh mông
Đất nhiều thế mà hiếm hoi hạt thóc
Chúng tôi nhìn dúm thóc trên tay
Những hạt thóc đã biến thành thuốc quý
Thóc hóa con đê ngăn cái chết dần mòn
Tôi hiểu vì sao anh đã khóc
Trong một sáng giao ban
– Tiểu đoàn thồ chẳng có gì thồ cả
Cứ đói ròng con gái hóa con trai
Cám ơn ngọn rau dựng người ốm dậy
Cám ơn con suối, cám ơn bờ khe
Con tép chết bom từ bến ngược trôi về
Nếu không đói không thể nào vớt được
Phát một mảnh rừng, trần lưng cuốc cuốc
Cuốc và vun rồi kéo cỏ ngụy trang
Anh nhón tay cắm hạt bí đầu tiên
Đêm mở cỏ đêm lần đi tưới nước
Hoa bí đỏ từ vạt nương Tư lệnh
Đổ dần sang khắp cứ bạn ngàn
Anh xoa xuýt trước màu hoa cứu đói
Đấy, thứ hoa đẹp nhất của đời anh.
– Cơn đói đi qua không để lại mảnh gì làm di vật
Không phải trận bom nên không dễ sưu tầm
– Kiên nhẫn chút, hỡi nhà viết sử
Đây, căn hầm Tư lệnh, hãy vào thăm
Hãy nắm chặt bàn tay mót thóc
Nhìn mái đầu quá nửa chẳng còn xanh
Những sợi tóc đứng yên mà ta nhìn thấy bão
Bao thăng trầm như sóng đánh qua anh.
Lời bình:
Thứ hoa đẹp nhất của Hữu Thỉnh là bài thơ tôn vinh vẻ đẹp tinh khiết của loài hoa tượng trưng cho tình yêu và lòng trung thực. Ông không chỉ miêu tả vẻ đẹp hình thức của hoa mà còn ca ngợi giá trị tinh thần mà loài hoa mang lại, đại diện cho sự trong sáng, lòng nhân ái và sự trân trọng đối với những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Xứ phật
Thu hết mọi tiếng chuông thành một sắc áo vàng
Mây lót ổ chim gù bên kinh kệ
Hoa xứ Phật dặt dìu hương nhập thế
Người giữa đời thổn thức muốn thành sư.
Lời bình:
Bài thơ Xứ Phật đưa người đọc đến một không gian thanh tịnh, nơi con người có thể tìm thấy sự yên bình và giác ngộ trong cuộc sống. Qua hình ảnh thiêng liêng của “xứ Phật”, Hữu Thỉnh bày tỏ sự kính trọng đối với triết lý nhà Phật, cũng như mong muốn tìm kiếm sự thanh thản, an nhiên trong tâm hồn.
Trước mặt là Tổ Quốc
Em nhớ anh hãy nhớ về ngọn lửa
Lửa đang soi mặt đất mấy tầng đêm
Những cơn khát bậm môi vào bẹ chuối
Hiện lên
Những dấu gậy cơn sốt rừng run bắn
Hiện lên
Những giọt mồ hôi ròng như nến chảy
Hiện lên
Thơ hãy đến góp một vài que củi
Cho em nhận ra anh, đồng đội nhận ra mình
Thơ không phải những dây bìm trang trí
Kéo nhoè đi những rễ cây tứa nhựa
Bão động rừng sao thơ chỉ rung rinh?
Muốn tươi mát hãy tự là dòng suối
Hát về rừng đừng bắt chước tiếng chim
Anh quên thơ để nhớ gốc sim cằn
Dăm bảy lá lèo tèo như mực rớt
Sim như là không có cũng không sao
Ấy thế mà chúng anh thay nhau đến đây để mà hy vọng
Tưởng không sim thì không cả đời mình
Giặc đổ xuống ba tiểu đoàn “trâu điên”
Bò theo chúng hai hàng máy ủi
Trận đánh lại bắt đầu mới nguyên
Súng lại nổ như chưa từng ác liệt
Gốc sim cằn nếu kẻ thù chiếm được
Chúng làm đà dũi lấy cánh rừng le
Từ cánh rừng le chúng tràn xuống con đường và cứ thế
Từ “vết dầu loang” đến “tằm ăn rỗi”
Lại thám báo dò đường, B.52 dọn bãi
Lại dò đường, dọn bãi tới lui
Đất vụn nát trong bữa tiệc quay cuồng của thép
Máy ủi hết ngọt ngào trên mỗi trái tim
ủi rồi lấp
Bằng chính đất mà chúng vừa chiếm được
Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được
Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn
Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?
Thơ ơi thơ hãy ghì lấy gốc sim
Anh đang bò về phía gốc sim
Ngực đập dội chuyền sang đất đá
Quần áo tướp ra
Một nửa người anh dâm dấp máu
Anh đang đau cho đất đá anh yêu
Gốc sim cằn và xơ xác làm sao
Không che nổi anh đâu, bò cách chi cũng lộ
Em có thể mất anh bất cứ lúc nào
Em có thể bơ vơ khi em còn rất trẻ
Anh có thể chẳng bao giờ còn đánh được gốc tre
Phơi nỏ sẵn dành sưởi đêm cho mẹ
Sông ơi sông nếu ta phải ra đi
Bậc thấp xuống cho em ra gánh nước
Xin bát canh đến tay mẹ lúc còn nóng
Xin mùa đông đừng dài
Và cột nhà hãy đỡ mẹ thật êm
Trời bao nhiêu thu ta mới hát một lần
Nhưng trước mặt là Tổ quốc
Dù chỉ gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn
Anh ôm súng bò lên với trái tim tình nguyện.
***
– “Hãy lấy đạn mà cưa thằng cuồng tín
Một thằng ngu muốn chết thay cây”
– “Cứ bò tới chộp cho thiệt lẹ
Rồi moi bụng nó ra
Xem có máu hay chỉ toàn hắc ín”
– “Tao muốn coi nó chết từ từ
Coi nó chết nó gọi ai trước nhất”
– “Thôi hãy quăng lựu đạn đi thôi
Cho nó chết thiệt mau để tao còn chụp ảnh
Tao cần tiền chứ tao không cần nó”
…
Em có nghe thấy không?
Em xa cách em là vùng che chở
Sỏi buốt quá
Bò thì đau mà không bò thì chết
Em có tin đấy là tiếng con người
Giọng thổ, giọng kim vẫn thường to nhỏ
Khi bao điều không kể hết bằng tay
Anh vừa bò vừa nghe
Không mật mã không cần phiên dịch
Tiếng mẹ ru ta cuối bãi đầu ghềnh
Me đi đốt than mẹ thường gánh vã
Nhem nhuốc cả ngày xanh
Cắn răng mà chịu
Bấm bùn mà đi
Giữ cho được tiếng mình
Cho em ngập ngừng khi buông gầu xuống giếng
Sợi dây chùng do dự trước trăng in
Những thằng nguỵ kia nó cũng có mẹ
Mẹ nó đang héo đi, đang mong nó trở về
ấy thế mà tại sao nó cứ đòi giết anh
Chỉ vì anh thương một gốc sim và nhớ em không nói được
Cứ sấn lại
Những chiếc túi áo đen ngòm những quan tài đói
Chúng nó đang săn ngày sum họp của ta
Khoen lựu đạn anh cắn vào lặng lẽ
…
Chẳng nhớ anh chồm tới ra sao
Chỉ nhớ cái lặng im khi không còn chúng nó
Cái lặng im hoàn toàn
Anh nằm nghe anh thở
Ngôi sao xanh rơi xuống lá sim
Thành giọt sương từ lá sim rơi xuống
Đêm ngọt ngào mà lại chát em ơi
Anh tỉnh lại vì môi mình dính đất
Từ những chiếc khoen lựu đạn ban chiều
Đất mặn đắng tan dần rồi chảy khắp
Đất thầm thì và nóng bỏng như em
Anh đã qua những ngày bám chốt
Để tới buổi sáng nay
Một buổi sáng chẳng có gì to tát
Ve vẫn kêu úp mặt vào cây
Không sương sớm để cho lòng bẫng lẫng
Nhưng sáng nay là buổi sáng thượng nguồn
Những kỷ niệm sẽ ngược về để nhớ.
Lời bình:
Bài thơ Trước mặt là Tổ Quốc là một bài thơ đầy khí phách và tự hào, nơi Hữu Thỉnh khắc họa hình ảnh đất nước hùng vĩ, thiêng liêng mà người dân luôn mang trong lòng. Ông thể hiện tinh thần yêu nước mãnh liệt, sự sẵn sàng hy sinh và đấu tranh vì sự trường tồn và phát triển của Tổ quốc. Đây là một bài thơ mạnh mẽ, đầy cảm xúc.
Đi trong mây
Đi trong mây anh thấy ấm em à
Tiếng suối giục nghe khi mờ khi tỏ
Những tâm sự lúc thường nghe chẳng rõ
Đi trong mây tí tách sáng dần ra
Đi trong mây anh nghe tiếng chim
Hồn hậu quá như bàn tay em ấy
Đi trong mây tiếng bom nghe nhỏ lại
Để nhường cho tiếng gậy trập trùng vang
Những bước chân khua rộn cả không gian
Qua dốc đá vịn vai nhau mà bước
Núi tốt bụng đang ngồi xanh phía trước
Đợi đoàn anh vượt nốt đám mây này.
Lời bình:
Đi trong mây của Hữu Thỉnh là một bài thơ miêu tả khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nơi con người cảm thấy nhỏ bé và hòa mình vào thiên nhiên. Qua hình ảnh mây trắng trôi, ông gợi lên cảm giác tự do, phiêu du và sự thanh thản trong tâm hồn.
Bài thơ còn mang đến những suy tư về cuộc sống, về sự nhẹ nhàng và bình yên khi con người biết buông bỏ những gánh nặng.
Mùa xuân đi đón
Bắt gặp đám cỏ non
Lòng thơ như trẻ con
Muốn gọi đàn bê đến
Bứt cỏ đưa nó ăn
Một thoáng vã hành quân
Hai chân phồng dộp cả
Quấn khăn vẫn còn đau
Nhiều lúc “đi bằng đầu”
Đến đây, kỳ lạ chưa
Không ai ra lệnh hết
Tất cả đều tụt dép
Ướm nhẹ lên cỏ mềm
Được màu xanh tắm gội
Lòng rân rân cả lên
Chúng tôi vui tính lắm
Những chuyện nhỏ không đâu
Cũng ồn ào bàn tán
Mà trước cỏ bây giờ
Chỉ nhìn nhau im lặng
Chỉ im lặng nhìn nhau
Mùa xuân hẳn bắt đầu
Trên quê mình lất phất
Mấp máy lúa chiêm lên
Cỏ đội bờ thả sức
Ở đây nghe rõ nhất
Bao lời quê nhắn nhe
Chiến trường đang gọi đi
Súng hành quân mải miết
Mùa xuân cho cỏ biếc
Đi đón ta dọc đường.
Lời bình:
Mùa xuân đi đón là bài thơ ca ngợi sự tươi mới, hy vọng và niềm vui mà mùa xuân mang lại. Hữu Thỉnh khéo léo miêu tả sự tràn đầy sức sống của thiên nhiên và con người khi mùa xuân đến, đồng thời cũng gợi lên khát khao về sự tái sinh và những bắt đầu mới.
Một số tác phẩm tiêu biểu của Hữu Thỉnh thể loại văn xuôi
Bên cạnh các bài thơ của Hữu Thỉnh thì các tác phẩm văn xuôi, truyện và tiểu luận phê bình văn học của ông cũng rất nổi tiếng.
Lý do của hi vọng
Lý do của hi vọng là tác phẩm văn xuôi thể hiện những suy tư và trải nghiệm của Hữu Thỉnh về cuộc sống, chiến tranh, và tương lai của đất nước. Tác phẩm đi sâu vào những khó khăn mà dân tộc Việt Nam phải đối mặt trong những năm tháng chiến tranh ác liệt.
Tuy nhiên, trong những lúc gian khó nhất, nhân dân vẫn không ngừng hy vọng, tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng. Bằng những câu chuyện nhỏ, tác giả khắc họa hình ảnh những con người kiên cường, sống với lý tưởng và niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng và sự phát triển của đất nước sau chiến tranh.
Lời bình:
Tác phẩm sâu sắc, mang đến thông điệp về sức mạnh của lòng tin và niềm hy vọng trong cuộc sống. Hữu Thỉnh đã khéo léo kết hợp giữa trải nghiệm thực tế với cảm xúc tinh tế, tạo nên một tác phẩm vừa hiện thực, vừa lãng mạn.
Tác giả không chỉ thể hiện sự kiên cường của người Việt Nam trong cuộc chiến tranh mà còn khơi dậy lòng yêu nước và khát vọng về một tương lai hòa bình, hạnh phúc. Đây là một tác phẩm truyền cảm hứng, giúp người đọc thêm tin tưởng vào khả năng vượt qua mọi khó khăn, thử thách của con người.
Đường lửa mùa xuân
Đường lửa mùa xuân kể về những người lính trẻ bước vào cuộc chiến tranh với tinh thần hăng hái và đầy lòng dũng cảm. Mùa xuân trong tác phẩm không chỉ là thời điểm của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của tuổi trẻ, của sự sống mãnh liệt.
Hữu Thỉnh đã khắc họa hình ảnh những người lính vượt qua những con đường khói lửa, đối diện với cái chết và sự tàn phá của chiến tranh, nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào một tương lai tươi đẹp. Những con đường cháy bỏng giữa mùa xuân là biểu tượng cho sự hy sinh và ý chí không lùi bước của những người lính.
Lời bình:
Đây là tác phẩm mạnh mẽ và cảm động, nơi Hữu Thỉnh không chỉ ca ngợi lòng dũng cảm của người lính mà còn tôn vinh vẻ đẹp của sự hy sinh vì tổ quốc. Tác phẩm đem đến cho người đọc một cảm giác vừa bi tráng vừa tràn đầy hy vọng.
Hữu Thỉnh đã tinh tế sử dụng hình ảnh mùa xuân – biểu tượng của sự tái sinh và hy vọng – để đối lập với sự khắc nghiệt của chiến tranh, qua đó làm nổi bật tinh thần bất khuất của người lính. Tác phẩm không chỉ phản ánh những khía cạnh hiện thực khốc liệt của cuộc chiến mà còn khơi gợi lòng yêu nước, sự kính trọng đối với những người đã ngã xuống vì tự do.
Mưa xuân trên tháp pháo
Mưa xuân trên tháp pháo là câu chuyện xoay quanh những người lính trên chiến trường, với khung cảnh chiến tranh đầy khốc liệt nhưng cũng không thiếu những khoảnh khắc lãng mạn và ấm áp của tình đồng đội, tình yêu thiên nhiên. Trong tác phẩm, Hữu Thỉnh khắc họa hình ảnh mưa xuân nhẹ nhàng trên những tháp pháo, tạo nên một sự đối lập giữa sự tàn bạo của chiến tranh và vẻ đẹp thanh khiết của thiên nhiên.
Những người lính, dù sống trong môi trường khắc nghiệt, vẫn cảm nhận được sự mềm mại của cuộc sống, từ đó nuôi dưỡng ý chí và hy vọng chiến thắng.
Lời bình:
Đây là tác phẩm giàu chất trữ tình, nơi Hữu Thỉnh đã thành công trong việc hòa quyện hai hình ảnh đối lập: sự tàn phá của chiến tranh và vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên. Mưa xuân trong tác phẩm mang lại cảm giác nhẹ nhàng, thanh thản giữa khung cảnh khói lửa, gợi lên một niềm tin mãnh liệt vào sự sống và hy vọng.
Tác phẩm thể hiện sự nhạy bén trong cách nhìn nhận cuộc sống của Hữu Thỉnh, khi ông nhận ra rằng ngay cả trong những thời khắc đen tối nhất, con người vẫn có thể tìm thấy vẻ đẹp và niềm an ủi từ thiên nhiên. Điều này làm nổi bật tinh thần lạc quan và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng.
Lời kết
Tác phẩm Hữu Thỉnh mang đến cái nhìn chân thực về cuộc sống của con người Việt Nam trng thời kỳ đổi mới sau năm 1975. Mỗi tác phẩm, dù là văn xuôi hay truyện đều mang đậm dấu ấn thời đại. Phong cách sáng tác của Hữu Thỉnh giản dị nhưng vẫn đầy sức gợi.