Tuyển tập thơ Cao Bá Quát hay và ý nghĩa nhất

Thơ Cao Bá Quát chứa đựng tài hoa, trí thông minh cùng tinh thần yêu nước thương dân. Dù đã đi xa mãi nhưng những tác phẩm chữ Hán, chữ Nôm của ông vẫn còn nguyên giá trị và được rất nhiều người yêu thơ trân quý. Hãy cùng Thepoetmagazine.org điểm qua một số bài thơ, tác phẩm tiêu biểu ngay sau đây.

Tổng hợp thơ Cao Bá Quát hay nhất mọi thời đại

Những bài thơ hay của Cao Bá Quát được viết bằng cả chữ Nôm và hữ Hán. Chúng mang đậm nét riêng biệt của nhà thơ, đồng thời thể hiện tài trí, sự thông minh sắc sảo hơn người của ông.

Thơ của Cao Bá Quát bằng chữ Hán

Để giải đáp câu hỏi Cao Bá Quát là tác giả của bài thơ nào mời bạn cùng theo dõi và thưởng thức các tác phẩm thơ chữ Hán sau:

Sa hành đoản ca

Trường sa phục trường sa,
Nhất bộ nhất hồi khước.
Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
Quân bất học tiên gia mỹ thuỵ ông,
Đăng sơn thiệp thuỷ oán hà cùng.
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung.
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu, tuý giả đồng.
Trường sa, trường sa, nại cừ hà?
Thản lộ mang mang uý lộ đa.
Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca.
Bắc sơn chi bắc, sơn vạn điệp,
Nam sơn chi nam, ba vạn cấp,
Quân hồ vi hồ sa thượng lập?

Dịch nghĩa

Bãi cát dài, lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời lặn mà vẫn còn đi.
Khách (trên đường) nước mắt lã chã rơi.
Anh không học được ông tiên có phép ngủ kĩ
Cứ trèo non lội nước mãi, bao giờ cho hết ta oán!
Xưa nay hạng người danh lợi,
Vẫn tất tả ở ngoài đường sá.
(Hễ) quán rượu ở đầu gió có rượu ngon,
(Thì) người tỉnh thường ít mà người say vô số!
Bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao đây?
Bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều.
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc núi muôn trùng,
Phía nam núi Nam sóng muôn đợt.
Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?

Lời bình: 

Sa hành đoản ca là một trong các tác phẩm tiêu biểu của Cao Bá Quát, miêu tả cảnh ngựa đi giữa bãi cát mênh mông, nỗi niềm cô độc của người lữ khách trong hành trình đầy gian khó. Qua bài thơ, tác giả không chỉ tả cảnh thiên nhiên khắc nghiệt mà còn bày tỏ tâm trạng bất lực trước cuộc đời.

Hình ảnh gió cát và ngựa mỏi ẩn dụ cho những chướng ngại vật trên đường đời, thể hiện khát vọng tự do và sự bế tắc trong hành trình cá nhân và xã hội.

Thơ của Cao Bá Quát
Sa hành đoản ca

Dương phụ hành

Tây Dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ thanh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly!

Dịch nghĩa

Người thiếu phụ phương Tây áo như tuyết
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thanh
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng
Kéo áo chồng thì thầm nói
Tay cầm uể oải một chén sữa
Đêm lạnh à đây gió biển thổi
Nghiêng mình đòi chồng đỡ dậy
Biết chăng có người Nam đang chịu cảnh biệt ly.

Lời bình: 

Dương phụ hành miêu tả hành trình ngang qua sông Dương, biểu tượng cho những thách thức và biến cố của cuộc sống. Trong bài thơ, Cao Bá Quát sử dụng hình ảnh thiên nhiên để diễn đạt tâm trạng của con người.

Dòng nước sông mạnh mẽ và dòng đời trôi chảy không ngừng, khiến lòng người cảm thấy sự vô định và nhỏ bé. Sự phóng khoáng trong cách diễn đạt gợi mở những ý nghĩa sâu xa về sự sống và cái chết.

Vô đề

Thất mã tê phong huếch hoác lai,
Oanh doanh xa mã cộng trì hồi.
Viên trung hảo điểu liêu tiêu ngữ,
Dã ngoại kỳ hoa lác đác khai.
Bạch nhật sạ văn lôi hống động,
Thanh thiên hốt kiến vũ lài nhài.
Khù khờ thi cú đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.

Dịch nghĩa

Đôi ngựa thét gió huếch hoác lại,
Sầm sập xe ngựa cùng quay đuổi đến.
Trong vườn chim đẹp nói líu tíu,
Ngoài đồng hoa lạ nở lác đác.
Trời tạnh thoạt nghe tiếng sấm ì ầm,
Trời xanh chợt thấy mưa rải rác.
Câu thơ khù khờ đã nhiều người biết,
Còn khệnh khạng mang ra hỏi bậc tú tài.

Lời bình: 

Bài Vô đề của Cao Bá Quát thể hiện một sự cô độc, những băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống, tình yêu và sự nghiệp. Không có nhan đề rõ ràng, nhưng bài thơ vẫn khắc họa rõ nét nỗi lòng người thi nhân trước thời thế.

Lời thơ sâu sắc, giàu tính triết lý, phản ánh cái nhìn khắc khoải của Cao Bá Quát trước sự vô thường của cuộc đời.

Bạc mộ

Bích tiễu hiên không phong đảo xuy,
Yên thanh sương kính lậu như ty.
Đan lương trước mạn vô tàng diệu,
Bạch điểu phiên duy bất thụ ky.
Bão tất ngâm tàn nhân tự viễn,
Ỷ lâu tâm tại ngã ưng tri.
Tảo mai vãn cúc tung sơ phóng,
Dã khán dao dao hữu kỷ chi.

Dịch nghĩa

Gió thổi ngược trên vách núi cao chót vót
Khói trong sương đậm nhỏ từng giọt như sợi tơ
Đom đóm lập loè không giấu ánh sáng
Muỗi bay lọt vào màn, chẳng bị đói
Bó gối hết hứng ngâm nga, người tự thấy xa vời
Tấm lòng tựa gác lầu, ta nên nhận biết
Mai sớm, cúc muộn tung nở lưa thưa
Cũng thấy rung rinh có mấy cành

Lời bình: 

Bạc mộ là bài thơ tả cảnh hoàng hôn buông xuống, khi màn đêm phủ kín không gian. Thông qua cảnh tượng ấy, tác giả gửi gắm những suy tư về sự tàn lụi, sự kết thúc của một chặng đường đời.

Cảnh sắc thiên nhiên trong bài thơ không chỉ gợi lên sự yên bình mà còn mang đậm chất ưu tư và tĩnh lặng, tựa như sự phản ánh nỗi lòng của thi nhân trước thời gian trôi nhanh và cuộc sống vô định.

Tác phẩm tiêu biểu của Cao Bá Quát
Bạc mộ

Chiêu Quân

Hán triều mạc sát Mao Diên Thọ,
Tái thượng Hồ già chỉ tự bi.
Nhi nữ tổng đa trường đoạn xứ,
Cổ kim chung hữu mạo lai thì.

Dịch nghĩa

Hán triều từng giết Mao Diên Thọ,
Kèn rợ Hồ buồn chốn ải quan.
Nhi nữ ai hay đau đứt ruột,
Xưa nay nhan sắc vốn đa đoan.

Lời bình: 

Chiêu Quân gợi nhớ đến câu chuyện nàng Chiêu Quân phải rời bỏ quê hương để kết duyên với kẻ thù. Cao Bá Quát không chỉ tả cảnh mà còn lồng ghép cảm xúc của mình vào trong nỗi đau chia lìa và sự bi thương của số phận.

Hình ảnh Chiêu Quân trở thành biểu tượng cho nỗi oan khuất, sự bất lực của con người trước quyền lực và những biến cố không thể tránh khỏi.

Độc dạ cảm hoài

Tân trướng sinh tàn dạ,
Sơ hàn tống miểu thu.
Tuế thời song bệnh nhãn,
Thiên địa nhất thi tù.
Ỷ chẩm khan trường kiếm,
Hô đăng kiểm tệ cừu.
Cưỡng liên tâm lực tại,
Cơ ngoạ bất câm sầu.

Dịch nghĩa

Triều lên giục giã đêm tàn
Hiu hiu rét sớm vội vàng tiễn thu
Tháng năm hai mắt lờ mờ
Đất trời giam một khách thơ trong tù
Kiếm dài tựa gối ôm chi
Đèn soi manh áo rách toe cả rồi
Buồn sao tâm lực chưa tồi
Mà giam một chỗ ngút trời xót xa

Lời bình: 

Trong Độc dạ cảm hoài, Cao Bá Quát bộc lộ những suy nghĩ sâu sắc trong đêm khuya thanh tĩnh. Lúc con người ở giữa bóng đêm, những suy tư về cuộc đời, về lý tưởng và sự nghiệp thường dâng trào mạnh mẽ nhất.

Bài thơ thể hiện sự giằng xé nội tâm, sự cảm thương cho số phận và cuộc đời không như ý. Cao Bá Quát lột tả nỗi cô đơn và sự bất mãn trước những bấp bênh của cuộc sống.

An Quán tảo xuân kỳ 1

Tam canh chung đoạn kê y ốc,
Lạc lạc sổ gia văn bộc trúc.
Xuất môn quyện ỷ lập môn khan,
Lộ thiểu đăng hành thất hy chúc.

Dịch nghĩa

Tiếng chuông chấm dứt canh ba, xen lẫn tiếng gà gáy
Đây đó mấy nhà nghe tiếng pháo nổ
Ra cửa, mỏi mệt đứng tựa cửa ngắm nhìn
Ngoài đường ít bóng đèn đi, trong nhà hiếm thấy ánh nến

Lời bình: 

Bài”An Quán tảo xuân kỳ 1 mang đậm nét thơ cổ điển, vẽ lên một bức tranh mùa xuân tươi sáng. Tuy nhiên, đằng sau vẻ đẹp thiên nhiên là nỗi lòng hoài niệm về những điều đã qua.

Cảnh vật tươi đẹp của mùa xuân không thể che lấp được những nỗi lo lắng và suy tư về tương lai của thi nhân. Cao Bá Quát khéo léo lồng ghép giữa cái đẹp của thiên nhiên và cái khắc khoải của lòng người.

Du Tây Hồ bát tuyệt kỳ 1

Sảng chử phồn châm mạc yếm xuân,
Nhất khâu nhất hác vị toàn bần.
Địa lưu tuế nguyệt vô sầu cảnh,
Thiên tá giang hồ độc hạnh nhân.

Dịch nghĩa

Trong bài Du Tây Hồ bát tuyệt kỳ 1, Cao Bá Quát tả cảnh hồ Tây với sự thanh thoát và tinh tế. Hình ảnh Tây Hồ hiện lên không chỉ là một địa danh đẹp mà còn chứa đựng cảm xúc thiêng liêng của tác giả.

Tây Hồ trở thành biểu tượng của sự bình yên, nơi con người có thể tìm về những khoảnh khắc tĩnh lặng và suy tư về cuộc đời. Cách miêu tả thiên nhiên tỉ mỉ, kết hợp với tâm trạng hoài cổ, tạo nên một tác phẩm đầy chất thơ và sâu lắng.

Lời bình: 

Tiếng chày thưa thớt, tiếng đập vải dồn dập tứ xuân không chán,
Gò có, hang có, không phải là thiếu thốn lắm.
Đất dành nơi đây thành một cõi năm tháng không buồn,
Khách giang hồ ai may mắn nhất, thì trời cho mượn cảnh này.

Du vân

Du vân vị hữu quy,
Đán mộ bất đắc nhàn.
Phong tòng hà phương lai?
Xuy nhập tằng phong gian.
Tứ hải dĩ vọng vũ,
Ngũ lôi trường bế san.
Cử thủ thị thiên biểu,
Nguyện ngôn túng cao phan.

Dịch nghĩa

Mây trôi trôi mãi chưa về,
Sớm hôm tất tả chẳng hề được yên.
Bỗng đâu trận gió nổi lên,
Đưa mây trôi giạt vào miền núi cao.
Trần gian đang ngóng mưa rào,
Sấm đâu còn ở nơi nào im hơi?
Ngẩng lên trông tận chân trời,
Ước gì bay bổng tuyệt vời với mây!

Lời bình: 

Du vân là bài thơ miêu tả cảnh vật mây trôi, nhưng ẩn chứa bên trong là những suy tư về cuộc đời và số phận. Hình ảnh “mây” thường biểu trưng cho sự tự do, phóng khoáng nhưng cũng rất mỏng manh, dễ tan biến.

Bài thơ diễn tả niềm mong mỏi được thoát khỏi những ràng buộc, tìm đến sự tự do tuyệt đối nhưng vẫn đối mặt với những bất định trong cuộc sống.

Há Hạ Châu tạp ký kỳ 1

Giang hải thôi di thế mạc hồi,
Y Xuyên dã tế sử nhân ai.
Tự tòng Hán mã thông Tây khí,
Thuỳ chướng cuồng ba vạn lý lai.

Dịch nghĩa

Sông biển xô đẩy, thế không quay về được,
Buổi tế Y Xuyên ở ngoài trời khiến người ta buồn;
Từ khi ngựa Hán thua tàu của người Tây,
Ai ngăn sóng dữ muôn dặm dồn lại.

Lời bình: 

Bài thơ này ghi lại những cảm xúc khi Cao Bá Quát đi qua vùng đất Hạ Châu. Qua cảnh vật và con người nơi đây, tác giả cảm nhận được sự chuyển biến của thời gian và sự thay đổi của cuộc đời.

Bài thơ mang đến cảm giác về sự tiếp nối và thay đổi không ngừng của vạn vật, cùng với sự chấp nhận một cách bình thản của người thi nhân.

Khuê oán kỳ 1

Uất uất tịnh đầu lan,
Quyên quyên nhan sắc hảo.
Tích vi Dao Đài tư,
Kim vi mạch thượng thảo.
Không khuê chính bồi hồi,
Toạ lập oanh hoài bão.
Thái thái tương di thuỳ?
Sở tư tại viễn đạo.

Dịch nghĩa

San sát những chồi lan
Sắc màu bao duyên dáng
Xưa khoe chốn Dao Đài
Nay lạc miền hương vắng
Quanh quẩn chốn khuê phòng
Đứng ngồi lòng vương vấn
Bời bời ngỏ cùng ai?
Nỗi nhớ ở xa thẳm

Lời bình: 

Khuê oán kỳ 1 là bài thơ miêu tả nỗi niềm của người phụ nữ chờ đợi chồng, thể hiện qua hình ảnh buồn bã và tĩnh lặng. Nỗi oán trách không chỉ nằm ở sự xa cách mà còn là sự băn khoăn về sự trung thành và tình cảm.

Bài thơ khắc họa sâu sắc tâm trạng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, chịu đựng những khổ đau và bất an trong sự chờ đợi vô vọng.

Những bài thơ của Cao Bá Quát bằng chữ Nôm

Bên cạnh thơ chữ Hán, các bài thơ của Cao Bá Quát bằng chữ Nôm cũng rất được yêu thích. Ông có hàng trăm bài thơ hay, được tổng hợp trong nhiều tuyển tập và dưới đây là các tác phẩm nổi bật nhất:

Uống rượu tiêu sầu bài 1

Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,
Cảnh phù du trông thấy đã nực cười.
Thôi công đâu chuốc lấy sự đời,
Tiêu khiển một vài chung lếu láo.
Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu,
Trầm tư bách kế bất như nhàn.
Dưới thiều quang thấp thoáng bóng Nam san,
Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ.
Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ,
Mảnh hình hài không có, có không.
Lọ là thiên tứ, vạn chung.

Lời bình: 

Cao Bá Quát mượn hình ảnh uống rượu để nói lên nỗi buồn sâu thẳm. Uống rượu không phải để vui, mà để tiêu tan những phiền muộn, những nỗi sầu không thể giãi bày. Tuy nhiên, rượu chỉ là phương tiện tạm thời, nỗi buồn vẫn đọng lại.

Bài thơ thể hiện cái nhìn bi quan nhưng cũng rất thực tế của Cao Bá Quát về cuộc đời và sự vô thường. Ông dường như nhận ra rằng, ngay cả khi say, những gánh nặng cuộc đời vẫn không thể quên đi.

Cao Bá Quát là tác giả của bài thơ nào
Uống rượu tiêu sầu

Uống rượu tiêu sầu bài 2

Thế sự thăng trầm quân mạc vấn,
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu.
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu,
Đem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt.
Duy giang thượng chi thanh phong,
Dữ sơn gian chi minh nguyệt.
Kho trời chung, mà vô tận của mình riêng.
Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng,
Ai thành thị, ai vui miền lâm tẩu.
Gõ nhịp lấy, đọc câu “Tương tiến tửu”:
“Quân bất kiến:
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.”
Làm chi cho mệt một đời.

Lời bình: 

Tác phẩm này tiếp tục khai thác hình ảnh rượu và sự tiêu sầu, nhưng lần này có vẻ sự bất mãn với cuộc đời hiện lên rõ nét hơn. Tác giả dùng rượu như một cách để đối diện với thực tế phũ phàng và những thất bại của bản thân trong cuộc sống.

Qua bài thơ, Cao Bá Quát thể hiện sự giằng xé giữa mong muốn thoát khỏi những gánh nặng và nhận thức rằng những khó khăn, bi ai không thể bị lãng quên chỉ nhờ chén rượu.

Tài tử đa cùng phú

Có một người:
Khổ dạng trâm anh;
Nết na chương phủ.

Hoi miệng sữa tuổi còn giọt máu, nét hào hoa chừng ná Tân, Dương!
Chòm tóc xanh vừa chấm ngang vai, lời khí khái hẹn hò Y, Phó.

Nghiêng gợn sóng vẽ vời điển tịch, nét nhạn điểm lăn tăn!
Bút vén mây dìu dặt văn chương, vòng thuyền khuyên lỗ chỗ.

Nghiêng cánh nhạn tếch mái rừng Nhan, Khổng, chí xông pha nào quản chông gai!
Cựa đuôi kình toan vượt bể Trình, Chu, tài bay nhẩy ngại gì lao khổ!

Lắc bầu rượu dốc nghiêng non nước lại, chén tiếu đàm mời mọc Trích Tiên;
Hóng túi thơ nong hết gió trăng vào, cơn xướng hoạ thì thầm Lão Đỗ.

Tươi nét mặt thư sinh lồ lộ, bưng mặt trần toan đạp cửa phù đồ;
Rửa buồng gan du tử nhơn nhơn, giương tay Tạo rắp xoay cơn khí số.

Tưởng đến khi vinh hiển coi thường;
Song nghĩ lại trần ai đếch chỗ.

Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướp tướp, ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa;
Đèn cỏn con co chiếc chiếu loi thoi, đêm tịch mịch soi chung vừng trăng tỏ.

Áo Trọng Do bạc phếch, giãi xuân thu cho đượm sắc cần lao;
Cơm Phiếu Mẫu hẩm sì, đòi tuế nguyệt phải ngậm mùi tân khổ.

Gió trăng rơi rụng, để cái quyên gầy;
Sương tuyết hắt hiu, làm con nhạn võ.

Túi thanh bạch ngược xuôi miền khách địa, trăm nghìn đường chỉ nhện dệt thưa mau;
Đèn toan hàn thức nhắp mái nam song, dăm ba ngọn lửa huỳnh khêu nho nhỏ.

Miệng châu quế rì rầm học vấn, chị chú Tô cẳn nhẳn chỉ hiểm nghèo;
Vai tân sài đủng đỉnh ngâm nga, vợ anh Mãi băn khoăn từng kể khó.

Đói rau rừng, thấy thóc Chu mà trả, đá Thú Dương chơm chởm, xanh mắt Di nằm tót gáy o o;
Khát nước sông, trông dòng đục không vơ, phao Vị Thuỷ lênh đênh, bạc đầu Lã ngồi dai ho lụ khụ.

Trông ra nhấp nhố sóng nhân tình;
Ngoảnh lại vật vờ mây thế cố.

Ngán nhẽ kẻ tham bề khoá lợi, mũ cánh chuồn đội trên mái tóc, nghiêng mình đứng chực cửa hầu môn;
Quản bao người mang cái giàm danh, áo giới lân trùm dưới cơ phu, mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ.

Khéo ứng thù những đám quan trên;
Xin bái ngảnh cùng anh phường phố.

Khét mùi thế vị chẳng thà không!
Thơm nức phương danh nên mới khổ.

Tình uốn éo muốn vạch trời lên hỏi, nào kiếp Chử Đồng đâu tá, nỡ hoài chén ngọc để trần ai;
Trí lăng nhăng toan vượt bể đi tu, hỏi quê Tiên tử nơi mô, xin lĩnh lấy vân đan làm tế độ.

Bài phú Dương Hùng dù nghiệm tá, thì xin tống bần quỷ ra đến miền Đông Hải, để ta đeo vòng thư kiếm, quyết xoay bạch ốc lại lâu đài;
Câu văn Hàn Dũ phỏng thiêng chăng, thì xin tống cùng thần ra đến đất Côn Lôn, để ta gánh vác giang sơn, quyết ném thanh khâm sang cẩm tú.

Nhọc nhằn cơn nhục, mát cơn vinh;
Cay đắng lúc cùng, bùi lúc phú.

Vậy có lời nôm dặn bảo thế gian rằng:
Đừng thấy người bạch diện thư sinh;
Mà cười rằng “đa cùng tài tử”.

Lời bình: 

Tài tử đa cùng phú là bài thơ thấm đẫm tâm trạng của một kẻ tài hoa nhưng bạc mệnh. Cao Bá Quát tự nhận mình là người có tài nhưng lại bị số phận đẩy đưa vào cảnh nghèo khó, bất công.

Qua bài thơ, ông không chỉ bày tỏ sự thất vọng trước thực tế cuộc đời mà còn phản ánh sự bất lực của con người trước số phận. Bài thơ vừa có chất tự hào về tài năng của mình, nhưng cũng không giấu nổi nỗi cay đắng và chua chát khi bị cuộc đời vùi dập.

Nhân sinh thấm thoát

Nhân sinh thiên địa nhất nghịch lữ,
Có bao lăm ba vạn sáu nghìn ngày.
Như chiêm bao, như bóng sổ, như gang tay,
Sực nhớ chữ “cổ nhân bỉnh chúc”.
Cao sơn lưu thuỷ, thi thiên trục,
Minh nguyệt thanh phong, tửu nhất thuyền.
Dang tay người tài tử khách thuyền quyên,
Chén rượu thánh, câu thơ thần thích chí.
Thành thị ấy, mà giang hồ ấy,
Đâu chẳng là tuyết, nguyệt, phong, hoa.
Bốn mùa xuân lại, thu qua,
Đời người thấm thoắt như là con thoi.
Cho hay kẻ thế người đời.

Lời bình: 

Nhân sinh thấm thoát nói về sự trôi qua nhanh chóng của cuộc đời. Cao Bá Quát nhìn nhận rằng cuộc sống ngắn ngủi, thời gian không bao giờ ngừng lại.

Tác phẩm của Cao Bá Quát thể hiện sự tiếc nuối và những suy ngẫm về giá trị của thời gian. Từng câu chữ đều phản ánh tâm trạng của người thi sĩ đã từng trải, nhận ra rằng nhân sinh vốn vô thường và cuộc sống chỉ là một chuỗi những khoảnh khắc thoáng qua. Cách nhìn này phản ánh triết lý sống không cầu mong dài lâu, mà trọng sự sâu sắc.

Hoài cảm

Tình khách bâng khuâng mấy dậm đường

Mai tàn, sen đã ngát mùi hương

Màu thu vườn cũ nay sao nhỉ

Hoa lạnh nơi này đã cợt sương.

Lời bình: 

Hoài cảm gợi lên nỗi nhớ và những suy tư về quá khứ. Cao Bá Quát bày tỏ sự hoài niệm về những điều đã qua, những ký ức đẹp nhưng xa vời. Qua bài thơ, ông thể hiện nỗi buồn về sự mất mát, nhưng đồng thời cũng là sự thức tỉnh về cái vô thường của cuộc sống.

Những cảm xúc luyến tiếc hiện diện khắp bài thơ, thể hiện khát khao được quay về quá khứ và trân trọng những khoảnh khắc đã qua.

Đến làng Đông Du, đêm ngủ dỗ

Đầu sông đứng ngóng quê hương
Quê hương đâu phải dặm trường xa xôi,
Cớ sao mãi chẳng tới nơi,
Vừa đi vừa đứng bồi hồi làm sao?
Thiếu người cáng võng, phải đâu
Cũng không chờ đợi bạn bầu những ai.
Từ khi vướng lấy luỵ đời
Nửa bầu máu nóng nhường vơi vơi dần.
Đường đời biển ảo phong vân
Việc đời ấm lạnh bao lần đổi thay
Mũ treo còn chửa hẹn ngày,
Cổng sài nào biết sau này nơi nao!
Nghiệp xưa vườn ruộng dăm sào
Rêu hoang cỏ dại ai nào ngó coi!
Họ hàng người cũng thưa rồi
Bữa cơm dưa muối thết mời vẫn chưa.
Biệt ly biết đến bao giờ!
Thà im im bắt, nói ra ngại lời
Trời tây bóng đã xế rồi
Vẫn còn nấn ná quê người một thân

Lời bình: 

Bài thơ miêu tả cảm xúc của tác giả khi đến làng Đông Du vào ban đêm. Cao Bá Quát cảm nhận sự tĩnh lặng, yên bình của làng quê trong đêm, nhưng đồng thời cũng bày tỏ nỗi buồn và suy tư sâu lắng.

Giữa khung cảnh yên bình ấy, tác giả lại thấy lòng mình trĩu nặng bởi những lo âu, bất mãn với thời thế. Bài thơ không chỉ là bức tranh phong cảnh, mà còn là sự phản ánh nội tâm phức tạp của người thi sĩ giữa cái tĩnh và động của thiên nhiên và lòng người.

Tài tử với Giai nhân

Tài tử với giai nhân là nợ sẵn,
Giải cấu nan chữ ẫy nghĩa là sao?
Trải xưa nay chừng đã xiết bao,
Kìa tan hợp, nọ khứ lưu, đâu dám chắc.
Giai nhân khứ khứ hành hành sắc,
Tài tử triêu triêu mộ mộ tình.
Ủa kìa ai: như mây tuôn, như nước chảy, như gió mát, như trăng thanh.
Lơ lửng khéo trêu mình chi mãi mãi.
Trời đất có san đi mà sẻ lại,
Hội tương phùng còn lắm lúc về sau.
Yêu nhau xin nhớ lời nhau.

Lời bình: 

Tài tử với Giai nhân là bài thơ lãng mạn, nói về mối quan hệ giữa kẻ tài tử và giai nhân. Cao Bá Quát thể hiện sự ngưỡng mộ trước vẻ đẹp của người giai nhân, nhưng đồng thời cũng nhận ra sự ngắn ngủi và phù du của tình yêu và hạnh phúc.

Tác giả không chỉ ca ngợi cái đẹp, mà còn cảnh báo về sự mong manh của cuộc sống, khi tình yêu và cái đẹp có thể tan biến bất cứ lúc nào. Bài thơ vừa phảng phất chất lãng mạn, vừa mang màu sắc triết lý sâu xa về tình đời và nhân sinh.

Tác phẩm của Cao Bá Quát
Tài tử và giai nhân

May rủi

Một rủi một may là máy tạo,
Dù khôn dù dại cũng bia trần.
Việc đã rồi nghĩ lắm lại thêm đần,
Liếc gươm trí cắt giặc phiền từ đó.
Nằm khểnh ngâm thơ cho vợ ngủ,
Ngồi rù uống rượu với con chơi.
Mô phạm dăm ba đứa mũi chưa chùi,
Tiêu khiển mấy cô đào mới nỏi.
Ngoài tai ấy tha hồ ai gọi,
Rằng ngựa trâu vâng cũng ngựa trâu.
Nào đâu đã hẳn hơn đâu.

Lời bình: 

Trong May rủi, Cao Bá Quát bày tỏ quan điểm về sự may mắn và rủi ro trong cuộc đời. Ông nhận ra rằng số phận con người không phải lúc nào cũng công bằng và nhiều khi tài năng, nỗ lực không thể quyết định tất cả.

Tác giả thể hiện một cái nhìn thực tế, thậm chí có phần chua chát về những thăng trầm trong cuộc sống, nhưng vẫn giữ được sự bình thản để đối diện với sự bất trắc. Bài thơ phản ánh tâm hồn tự do của Cao Bá Quát, không bị ràng buộc bởi những thất bại hay thành công.

Mấy khi gặp gỡ

Trần thế nan phùng khai khẩu tiếu,
Khách giang hồ thường hợp thiểu ly đa.
Nay bắc nam xum họp một nhà,
Gồm đủ cả thắng cảnh, lương thời, thưởng tâm, lạc sự.
Hào trúc ai ty dư tuý hĩ,
Thê phong lãnh nguyệt dạ hà như?
Thú nguyệt hoa là nợ với cầm thư,
Cuộc thi tửu để riêng người phong nhã.
Quân bất kiến: hoa lạc, hoa khai xuân khứ dã,
Hay chơi cho lăn lóc đá kẻo hoài.
Kìa kìa hải giác thiên nhai.

Lời bình: 

Bài thơ này nói về những khoảnh khắc hiếm hoi gặp gỡ giữa người với người trong cuộc đời ngắn ngủi. Cao Bá Quát nhận thấy rằng, những cuộc gặp gỡ có giá trị vô cùng, vì chúng không thường xuyên xảy ra.

Qua đó, ông khuyên người ta nên trân trọng những mối quan hệ, những khoảnh khắc giao lưu, dù ngắn ngủi nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc. Bài thơ mang tính triết lý về sự quý giá của tình người, tình bạn, và khuyến khích việc sống hết mình trong từng khoảnh khắc.

Thanh nhàn là lãi

Xử thế nhược đại mộng,
Hồ vi lao kỳ sinh.
Kiếp phù sinh vinh nhục, nhục vinh,
Liếc mắt đám mây trôi mấy chốc.
Con tạo vật bắt đeo râu tóc,
Nợ tang bồng phải giả mới là giai.
Mảnh áo xiêm buộc lấy cái hình hài,
Ngoài nghìn dặm chửa chồn chân ngựa ký.
Hiền ngu thiên tải tri thuỳ thị,
Phú quý bách niên năng kỷ hà.
Hội công danh nhớn nhỏ cũng là,
Thôi mặn nhạt đã trải qua mùi thế.
Tìm thú cũ hỏi thăm sơn thuỷ,
Chén hoàng hoa ngồi lắng ngọn thu phong.
Thảnh thơi một giấc bắc song.

Lời bình: 

Cao Bá Quát cho rằng sự thanh nhàn là điều quý giá nhất mà con người có thể có được trong cuộc đời đầy bon chen, phiền nhiễu. Ông coi thanh nhàn không phải là sự buông bỏ, mà là sự thanh thản trong tâm hồn, không bị ràng buộc bởi vật chất hay danh lợi.

Đây là triết lý sống sâu sắc của Cao Bá Quát, người từng trải qua nhiều thăng trầm. Bài thơ ca ngợi lối sống an nhiên, không bon chen, coi sự tĩnh lặng và tự tại là giá trị lớn nhất của đời người.

Lời kết

Thơ Cao Bá Quát mang nét riêng, nổi bật trong lịch sử văn học Việt Nam. Từng câu, từng chữ đều được gửi gắm tình yêu thương quê hương đất nước khiến người đọc không khỏi bùi ngùi, xúc động.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *