Tuyển tập các bài thơ, tác phẩm hay của Hồ Xuân Hương
Tuyển tập các bài thơ của Hồ Xuân Hương đi vào lòng người. Bà đã chứng tỏ được danh tài nữ với những áng thơ tuyệt đỉnh, nữ sĩ cũng được ngàn đời sau công nhận về tài năng của mình trong mỗi tác phẩm.
1. Lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm chừng mười hoạ hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn mướn không công.
Nỗi này ví biết dường này nhỉ,
Thời trước thôi đành ở vậy xong.
2. Mời ăn trầu
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.
3. Bánh trôi nước
Thân em thời trắng phận em tròn,
Bảy nổi ba chìm mấy nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son
4. Đánh cờ
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Để đôi ta quyết chí một phen.
Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp sợ bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Đem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đương mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo chịu, thiếp rằng chửa chịu,
Thua thì thua, quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.
5. Cái nợ chồng con
Hỡi chị em ơi có biết không
Một bên con khóc một bên chồng
Bố cu lổm ngổm bò trên bụng
Thằng bé hu hơ khóc dưới hông
Tất cả những là thu với vén
Vội vàng nào những bống cùng bông
Chồng con cái nợ là như thế
Hỡi chị em ơi có biết không
Bỡn bà lang khóc chồng
6. Cái kiếp tu hành
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
7. Cảnh thu
Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu giốc giang sơn say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
8. Dệt cửu
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng chắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu
Dỗ người đàn bà khóc chồng
Đá Ông Chồng Bà Chồng
Đài Khán Xuân
9. Chùa Quán Sứ
Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo
Chày kinh, tiểu đế suông không đấm
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo
10. Chợ Trời Chùa Thầy
Hoá công xây đắp đã bao đời,
Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời.
Buổi sớm gió đưa trưa nắng đứng,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bày hàng hoa quả tứ mùa sẵn,
Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.
Bán lợi mua danh nào những kẻ,
Chẳng nên mặc cả một đôi lời.
11. Cảnh chùa ban đêm
Tình cảnh ấy, nước non này
Dẫu không Bồng Đảo cũng Tiên đây
Hành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn
Thứu Lĩnh đen trùm một thức mây
Lấp ló đầu non vầng nguyệt chếch
Phất phơ sườn núi lá thu bay
Hỡi người quân tử đi đâu đó
Thấy cảnh sao mà đứng lượm tay
12. Đánh đu
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Hai hàng chân hạc duỗi song song
Chơi xuân có biết xuân chăng tá
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không
13. Đèo Ba Dội
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt suơng gieo
Hiền nhân quan tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo
14. Đền Sầm Đống
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận là trai nhỉ
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!
15. Đồng tiền hoẻn
Cũng lò cũng bễ cũng be than,
Mở mặt vuông tròn với thế gian.
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
Đủ đồng ắt cũng đáng nên quan
16. Động Hương Tích
Bày đặt kia ai khéo khéo phòm
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
Người quen cõi Phật xen chân xoạc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
Con thuyền vô trạo cúi lom khom
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại
Rõ khéo trời già đến dở dom
17. Giếng thơi
Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng.
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nuớc trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lách giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai cũng biết,
Đố ai dám thả nạ dòng dòng.
18. Hang Cắc Cớ
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
19. Hang Thánh Hoá
Khen thay con tạo khéo khôn phàm
Một đố giương ra biết mấy ngoàm
Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp
Lách khe nước rỉ mó lam nham
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ
Hai tiểu lưng tròn đứng sau am
Đến mới biết là Hang Thánh Hoá
Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham!
20. Hỏi trăng 1
Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Hỏi con Ngọc Thỏ đà bao tuổi?
Chứ chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng?
Ngày xanh sao lại thẹn vừng son?
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non?
21. Hỏi trăng 2
Một trái trăng treo chín mõm mòm
Nẩy vầng quế đỏ đỏ lòm lom!
Trong in chiếc bích khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.
Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,
Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.
22. Khóc ông phủ Vĩnh Tường
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!
Cái nợ ba sinh đã trả rồi.
Chôn chặt văn chuơng ba thước đất,
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,
Miệng túi càn khôn khép lại thôi.
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc,
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!
23. Khóc Tổng Cóc
Chàng Cóc! Chàng cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi
24. Không chồng mà chửa
Cả nể cho nên sự dở dang
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao đà nảy nét ngang
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa
Mảnh tình một khối thiếp xin mang
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có, mới ngoan
25. Kẽm Trống
Hai bên thì núi giữa thì sông
Có phải đây là Kẽm Trống không?
Gió giật sườn non khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long ong
Ở trong hang núi còn hơi hẹp
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng
Qua cửa mình ơi! Nên ngắm lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng
26. Ốc nhồi
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.
Quân tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.
27. Lũ ngẩn ngơ
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa
28. Nhớ người cũ
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mấy chút sương siu mấy
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong
29. Làm lẽ
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có như không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Thân này ví biết duờng này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong
30. Phường lòi tói
Dắt díu nhau lên đến cửa chiền
Cũng đòi học nói, nói không nên
Ai về nhắn bảo phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
31. Quán Khánh
Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo
Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác
Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo
Ba chạc cây xanh hình uốn éo
Một dòng nước biếc cảnh leo teo
Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo
32. Quan thị
Mười hai bà mụ ghét chi nhau
Đem cái xuân tình vứt đi đâu
Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu
Đố ai biết đó vông hay trốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Đã thế thì thôi thôi mặc thế
Trăm năm càng khỏi tiếng nương dâu
33. Quả mít
Thân em như quả mít trên cây,
Vỏ nó sù sì, múi nó dày.
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
34. Sư bị ong châm
Nào nón tu lờ nào mũ thâm
Đi đâu chẳng đội để ong châm
Đầu sư há phải gì… bà cốt
Bá ngọ con ông bé cái nhầm
35. Sư hổ mang
Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta
Đầu thì trọc lốc áo không tà
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi núp sau lưng sáu bảy bà
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà
36. Tát nước
Đang cơn nắng nực chợt mưa tè
Rủ chị em ra tát nước khe
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa
Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve
Ham việc làm ăn quên cả mệt
Dạng hang một lúc đã đầy phè
37. Thiếu nữ ngủ ngày
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm,
Một mạch Đào Nguyên suối chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.
38. Tranh tố nữ
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình ?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách nguời thợ vẽ khéo vô tình.
39. Trăng thu
Một trái trăng thu chín mõm mòm
Này vừng quế đỏ, đỏ lòm lom
Giữa in chiếc bích khuôn còn méo
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom
Hỡi người bẻ quế rằng ai đó
Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm
40. Trống thủng
Của em bưng bít vẫn bùi ngùi
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi.
Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,
Đêm thanh đánh lộn một đôi hồi.
Khi dang thẳng cánh bù khi cúi,
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi.
Nhắn nhủ ai về thương lấy với,
Thịt da ai cũng thế mà thôi.
41. Tự tình I
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!
42. Tự tình II
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
43. Tự tình III
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,
Giữa dòng khao khát nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,
Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.
44. Vịnh cái quạt I
Mười bảy hay là mười tám đây,
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
Mỏng dày chừng ấy, chành ba góc,
Rộng hẹp dường nào, cắm một cay.
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,
Yêu đêm không phỉ lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.
45. Vịnh cái quạt II
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dán tự bao giờ.
Chành ra ba góc da còn thiếu.
Khép lại đôi bên thị vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ?
46. Cặp xướng họa I
HỒ XUÂN HƯƠNG XƯỚNG
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay
CHIÊU HỔ HOẠ
Này ông tỉnh, này ông say
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Hang hùm ví bẵng không ai mó
Sao có hùm con bỗng trốc tay?
47. Cặp xướng họa II
HỒ XUÂN HƯƠNG XƯỚNG
Sao nói rằng năm lại có ba
Trách người quân tử hẹn sai ra
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt
Nhớ hái cho xin nắm lá đa
CHIÊU HỔ HOẠ
Rằng gián thì năm quý thì ba
Bởi người thục nữ tính không ra
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt
Cho cả cành đa lẫn củ đa
48. Cặp xướng họa III
HỒ XUÂN HƯƠNG XƯỚNG
Những bấy lâu nay luống nhắn nhe
Nhắn nhe toan những sự gùn ghè
Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám
Chưa dám cho nên phải rụt rè.
CHIÊU HỔ HOẠ
Hỡi hỡi cô bay tớ bảo nhe,
Bảo nhe không được, gậy ông ghè
Ông ghè không được, ông ghè mãi
Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè!
49. Độ Hoa Phong
Chữ Hán | Phiên âm | Dịch nghĩa |
片帆無急渡華封, 峭壁丹崖出水中。 水勢每隨山面轉, 山形斜靠水門通。 魚龍雜處秋煙薄, 鷗鷺齊飛日照紅。 玉洞雲房三百六, 不知誰是水晶宮。 |
Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong, Tiễu bích đan nhai xuất thủy trung. Thủy thế mỗi tùy sơn diện chuyển, Sơn hình tà kháo thủy môn thông. Ngư long tạp xử thu yên bạc, Âu lộ tề phi nhật chiếu hồng. Ngọc động vân phòng tam bách lục Bất tri thùy thị Thủy Tinh cung |
Lá buồm không vội vượt qua vũng Hoa Phong, Vách đá đứng, sườn núi đỏ, giữa nước chỏi dựng lên. Thế nước tùy chỗ theo mặt núi mà biến chuyển. Hình núi nghiêng mình, nép tựa cửa lạch để nước thông qua. Cá rồng lẫn lộn, tăm khuất dưới từng hơi nước mỏng mùa thu. Âu cò cùng bay trong ánh đỏ mặt trời chiều. Cõi Tiên có ba trăm sáu động ngọc và phòng mây, Đây không biết chốn nào là cung Thủy Tinh |
50. Hải Ốc Trù
Chữ Hán | Phiên âm | Dịch nghĩa |
海屋籌 蘭橈隨意漾中流, 景比山陽更覺幽。 生面獨開雲露骨, 斷鼇爭崎客回頭。 馮夷疊作擎天柱, 龍女添為海屋籌。 大抵始皇鞭未及, 古留南甸鞏金甌。 |
Hải ốc trù Lan nhiêu tuỳ ý dạng trung lưu Cảnh tỉ sơn dương cánh giác u Sinh diện độc khai vân lộ cốt Đoạn ngao tranh kị khách hồi đầu Bằng Di diệp tác kình thiên trụ Long Nữ thiêm vi hải ốc trù Đại để Thuỷ Hoàng tiên vị cập Cố lưu Nam điện củng kim âu. |
Ngóng đỉnh toan ngoan Phe phẩy mái chèo, tuỳ thích cỡi thuyền dong chơi giữa duềnh, Qua gần chân núi lại thấy cảnh càng vắng. Mây thoảng qua, núi lộ mặt, thấy đá chơ vơ, Những khối lèn dựng cao vút khi qua dưới, khách phải vếch trông. Hoặc là hải thần Bằng Di đã dựng cột để chống trời nghiêng, Hoặc là hải thần Long Nữ đã nối thêm cây nêu trỏ cung điện dưới bể. Ý chừng vua Tần Thuỷ Hoàng chưa từng đi kinh lí đến chỗ này, Vì trời vốn dành nó lại ở xứ Nam này để làm vững chắc cơ đồ nước ta. |
Những bài thơ hay của Hồ Xuân Hương
Những tác phẩm tiêu biểu của Hồ Xuân Hương đã khiến nhiều kẻ sĩ thời ấy phải đau đầu với ngôn từ vượt lẽ thường. Đến nay, không ít nhà thơ, nhà văn vẫn sẵn lòng chắp bút, phân tích áng thơ của bà:
- Bánh trôi nước
- Cái nợ chồng con
- Mời ăn trầu
- Cái nợ chồng con
- Tát nước
- Đánh cờ người
Xem thêm các thông tin về nhà thơ Hồ Xuân Hương:
- Tìm hiểu phong cách thơ Hồ Xuân Hương
- Hồ Xuân Hương có mấy đời chồng? Tóm tắt tiểu sử
- Nhà thơ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là gì?
Kết luận
Các bài thơ của Hồ Xuân Hương luôn mang dấu ấn riêng biệt. Đến nay, mỗi khi đọc thơ của bà, người ta vẫn cảm nhận được cái chất rất “Xuân Hương” trong mỗi áng thơ.