Những bài thơ Hồ Chí Minh hay nhất mọi thời đại

Thơ Hồ Chí Minh rất đa dạng với nhiều bài thơ chữ Nôm, chữ Hán viết về chủ đề thiên nhiên, cuộc sống trong tù,…Bằng tài năng nghệ thuật cùng những suy nghĩ sâu xa về thời đại, Bác đã để lại cho thế hệ sau vô vàn những tác phẩm tiêu biểu.

Table of Contents

Tuyển tập thơ Hồ Chí Minh bằng chữ Hán hay nhất

Thơ Hồ Chí Minh chia thành 2 thể loại chính gồm thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Trong đó các tác phẩm viết bằng chữ Hán chiếm một phần không nhỏ.

Cùng Thepoetmagazine tìm hiểu phong cách sáng tác của Hồ Chí Minh qua các tác phẩm hay xuất sắc ở thể loại chữ Hán sau:

Báo tiệp

Nguyệt thôi song vấn: – Thi thành vị?
– Quân vụ nhưng mang vị tố thi.
Sơn lâu chung hưởng kinh thu mộng,
Chính thị Liên khu báo tiệp thì.

Tạm dịch:

Trăng đẩy cửa sổ hỏi: – Thơ xong chưa?
– Vẫn còn bận việc quân, chưa làm thơ được.
Bỗng tiếng chuông ở lầu trên núi khua tỉnh giấc mộng đêm thu,
Vừa hay là lúc có tin thắng trận ở Liên khu báo về.

Lời bình:

Tác phẩm này thể hiện tầm nhìn xa của Hồ Chí Minh trong việc theo dõi và đánh giá tình hình quốc tế, nhằm phục vụ cho cuộc cách mạng Việt Nam. “Báo Tiệp” không chỉ thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu, mà còn phản ánh tinh thần đoàn kết, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm cách mạng.

Cách mệnh tiên cách tâm

Cách mệnh tiên cách tâm,
Cải tạo xã hội tiên cải tạo tự kỷ.
Kiểm túc thâm tâm,
Lệ hành tự thừa phê bình.
Tiên chi dĩ tự kỷ tu thân,
Kế chi dĩ giáo hoá bộ thuộc,
Kế chi dĩ cảm ứng dân chúng.

Tạm dịch:

Làm cách mạng trước hết phải cách mạng tấm lòng,
Cải tạo xã hội trước hết phải cải tạo bản thân mình.
Kiểm điểm sâu sắc tận nơi đáy lòng,
Nghiêm khắc thực hành tự phê bình.
Trước tiên hãy tự mình tu sửa bản thân,
Kế đó mới dạy bảo cấp dưới,
Sau nữa làm cho quần chúng đồng lòng.

Lời bình:

Với quan điểm “Cách mệnh tiên cách tâm”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải tạo, thay đổi tư tưởng trước khi làm cách mạng. Người cho rằng, muốn có một cuộc cách mạng thành công, trước tiên người cách mạng phải tự thay đổi nhận thức, tư tưởng để xây dựng một nền tảng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh.

Thơ Hồ Chí Minh
Tuyển tập các bài thơ chữ Hán của Bác

Cận Long Châu

Viễn cách Long Châu tam thập lý,
Dĩ văn pháo hưởng dữ cơ thanh.
Việt Nam dân chúng chân anh dũng,
Kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành.

Tạm dịch:

Cách xa Long Châu ba mươi dặm,
Đã nghe tiếng đại bác vang dội và tiếng máy bay gầm rú.
Dân chúng nước Việt Nam thật là anh dũng,
Kháng chiến nhất định thắng lợi, kiến quốc nhất định thành công.

Lời bình:

Qua tác phẩm này, Hồ Chí Minh thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc, đồng thời cũng ẩn chứa những cảm xúc về hành trình gian nan mà Người phải đối mặt. Từ đó, ta cảm nhận được một con người dù đang trải qua nhiều khó khăn nhưng vẫn giữ được niềm tin và sự lạc quan trước những thử thách trong cuộc đời.

Đăng sơn

Huề trượng đăng sơn quan trận địa,
Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân.
Nghĩa binh tráng khí thôn Ngưu Đẩu,
Thệ diệt sài lang xâm lược quân.

Tạm dịch:

Chống gậy lên núi xem trận địa,
Muôn trùng núi nâng đỡ muôn trùng mây,
Khí mạnh của nghĩa quân ta muốn nuốt cả sao Ngưu, sao Đẩu,
Thề diệt hết quân xâm lược sói lang.

Lời bình:

Bài thơ thể hiện sự kiên định và bền bỉ của Hồ Chí Minh trên con đường cách mạng. Hình ảnh “đăng sơn” – lên núi, tượng trưng cho những thử thách khó khăn mà Người đã trải qua. Tinh thần vượt khó, không ngại gian nan trong cuộc sống và sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc được thể hiện mạnh mẽ.

Đối nguyệt

Song ngoại nguyệt minh lung cổ thụ,
Nguyệt di thụ ảnh đáo song tiền,
Quân cơ, quốc kế thương đàm liễu,
Huề chẩm song bàng đối nguyệt miên.

Tạm dịch:

Ngoài cửa sổ ánh trăng lồng trên cây cổ thụ,
Ánh trăng nhích dần bóng cổ thụ lại trước cửa sổ.
Việc quân, việc nước bàn bạc xong rồi,
Xách gối đến bên cửa sổ, nằm ngủ trước ánh trăng.

Lời bình:

Trong “Đối nguyệt”, Hồ Chí Minh dùng hình ảnh trăng để thể hiện tâm tư, suy nghĩ về quê hương, đất nước. Trăng là biểu tượng của sự thanh bình, của thiên nhiên, nhưng cũng là sự luyến nhớ về một cuộc sống chưa hòa bình, độc lập. Người thể hiện tinh thần thanh cao và sự bình thản trước mọi khó khăn.

Ly Bắc Kinh

Ký Bắc thiên tâm huyền hạo nguyệt,
Tâm tuỳ hạo nguyệt cộng du du.
Hạo nguyệt thuỳ phân vi lưỡng bán,
Bán tuỳ cựu hữu, bán chinh phu.

Tạm dịch:

Giữa lòng trời Ký Bắc treo vầng trăng sáng trắng,
Lòng ta theo trăng sáng cùng man mác.
Vầng trăng sáng kia ai chia làm hai nửa,
Một nửa theo cùng bạn cũ, một nửa soi khách đường trường.

Lời bình:

Qua tác phẩm này, Hồ Chí Minh bộc lộ tâm trạng chia xa, không chỉ về mặt địa lý khi rời khỏi Bắc Kinh mà còn là sự chia xa về tình cảm, con người. Đó là cảm giác lưu luyến, nhớ nhung nhưng cũng đồng thời thể hiện ý chí tiếp tục con đường cách mạng của Người.

Nguyên Tiêu

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Tạm dịch:

Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.

Lời bình:

“Nguyên Tiêu” là một bài thơ đặc biệt của Hồ Chí Minh, phản ánh một đêm trăng rằm đầu năm – thời khắc của sự bình yên, lãng mạn và suy tư về thời gian, cuộc đời. Tác phẩm này thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, đồng thời cũng là tâm sự của một nhà cách mạng đang trên con đường gian khổ.

Nhị vật

Vô yên, vô tửu quá tân xuân,
Dị sử thi nhân hoá tục nhân.
Mộng lý hấp yên, ngật mỹ tửu,
Tỉnh lai cánh phấn chấn tinh thần.

Tạm dịch:

Qua xuân mới rồi, mà vẫn không thuốc lá, không rượu,
Dễ khiến nhà thơ hoá thành kẻ tục.
Trong mộng, thấy được hút thuốc lá, uống rượu ngon,
Tỉnh ra tinh thần rất phấn chấn.

Lời bình:

Bài thơ sử dụng hình ảnh hai vật thể đối lập để thể hiện sự biến đổi của cuộc sống và thiên nhiên. Qua đó, Hồ Chí Minh muốn nhắn nhủ rằng, trong mọi sự thay đổi, con người cần giữ vững lập trường và niềm tin vào lý tưởng cách mạng.

Thất cửu

Nhân vị ngũ tuần thường thán lão,
Ngã kim thất cửu chính khang cường.
Tự cung thanh đạm tinh thần sảng,
Tố sự thung dung nhật nguyệt trường.

Tạm dịch:

Thường người ta chưa đến năm mươi tuổi đã tự than già,
Mình nay sáu mươi ba tuổi vẫn đang khoẻ mạnh.
Sống cách thanh đạm tinh thần sáng suốt,
Làm việc thong dong, ngày tháng dài.

Lời bình:

“Thất cửu” là bài thơ mang đậm chất trữ tình, xen lẫn sự trầm tư về cuộc đời. Qua tác phẩm này, Hồ Chí Minh thể hiện suy nghĩ sâu xa về thời gian, về những thử thách và chông gai mà Người đã trải qua, cũng như niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Thu dạ

Trù hoạch canh thâm tiệm đắc nhàn,
Thu phong thu vũ báo thu hàn.
Hốt văn thu địch sơn tiền hưởng,
Du kích quy lai tửu vị tàn.

Tạm dịch:

Bàn tính công việc, mãi đến canh khuya mới tạm được nghỉ ngơi,
Mưa gió mùa thu báo tin tiết thu lạnh đã đến.
Chợt nghe tiếng sáo thu từ phía trước núi vọng lại,
Bộ đội, du kích vừa về, cuộc rượu chưa tàn.

Lời bình:

“Thu dạ” khắc họa một buổi đêm mùa thu thanh bình, êm ả nhưng đầy suy tư. Bài thơ này cho thấy lòng Người luôn hướng về quê hương đất nước, đồng thời bộc lộ khát vọng tự do, độc lập giữa những ngày tháng bôn ba nơi đất khách quê người.

Tư chiến sĩ

Canh thâm lộ cấp như thu vũ,
Thần tảo sương nùng tự hải vân.
Khoái tống hàn sam cấp chiến sĩ,
Dương quang hoà noãn báo tân xuân.

Tạm dịch:

Đêm khuya, móc rơi dồn dập như mưa thu,
Sáng sớm, sương dày đặc như mây mặt biển.
Mau mau gửi áo rét cho chiến sĩ,
Ánh mặt trời ấm áp đã báo trước tin xuân mới sắp về.

Lời bình:

Hồ Chí Minh trong tác phẩm này bày tỏ lòng biết ơn và sự khâm phục đối với những chiến sĩ đã hi sinh vì đất nước. Đây là một bài thơ truyền tải mạnh mẽ tình cảm tri ân sâu sắc đối với những người đã cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Vịnh Thái Hồ

Tây Hồ bất tỷ Thái Hồ mỹ,
Thái Hồ cánh tỷ Tây Hồ khoan.
Ngư chu lai khứ triêu dương noãn,
Tang đạo mãn điền, hoa mãn san.

Tạm dịch:

Tây Hồ không sánh được với Thái Hồ đẹp,
Thái Hồ so với Tây Hồ còn rộng hơn nhiều.
Thuyền đánh cá đi lại dưới nắng sớm ấm,
Dâu lúa đầy đồng, hoa đầy núi.

Lời bình:

Tác phẩm này phản ánh sự thanh bình, yên ả của Thái Hồ – một hình ảnh trái ngược với sự đấu tranh, gian nan trong cuộc đời Hồ Chí Minh. Từ sự đối lập này, bài thơ như một sự thể hiện khát vọng về hòa bình và tự do cho dân tộc.

Các tác phẩm tiêu biểu của Hồ Chí Minh bằng chữ Nôm

Để làm rõ câu trả lời cho câu hỏi Hồ Chí Minh là tác giả của bài thơ nào ta không thể bỏ qua tuyển tập những bài thơ hay bằng chữ Nôm sau:

Chinh phụ ngâm mới

Thuở phe phái hục nhau túi bụi,
Đồng bào Nam nhiều nỗi truân chiên.
Vì Ngô Đình Diệm rồ điên,
Mỹ kia can thiệp, mà nên nỗi này.
Hàng nghìn dân chết lây vô tội,
Hàng muôn người hấp hối bị thương.
Mười muôn nhà cháy ngổn ngang,
Đầy trời khói lửa, đầy đàng tàn tro.
Thương hại cho đồng bào công giáo,
Bị Xa tăng lừa đảo di cư,
Nhà tan, của hết, xác xơ,
Gặp cơn loạn lạc, trông nhờ vào ai!
Trộm cướp lại thẳng tay giết hại,
Chúng nhằm vào các trại di cư,
Kêu trời, trời chỉ làm ngơ,
Đoái kêu làng xóm, bây giờ xa xăm!
Bi thảm thay, hàng trăm em nhỏ,
Bị bắn vào vỡ sọ, tan xương.
Nhiều em chết gục bên đường,
Nhiều em chết cháy, thảm thương xiết nào!
Căm thù này trả sao đây nhỉ?
Nhân dân ta nhất trí kết đoàn,
Đuổi quân can thiệp hung tàn,
Chúng ta thống nhất giang san nước nhà,
Nước nhà ta, ta làm người chủ,
Vận mệnh ta, ta giữ trong tay,
Nước non vẫn nước non này,
Cờ treo độc lập, nền xây hoà bình.

Lời bình:

Tác phẩm này là một biến thể của “Chinh phụ ngâm”, thể hiện lòng đồng cảm với những người vợ lính và gia đình của họ trong thời chiến. Qua từng câu thơ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự hi sinh của những người ở hậu phương, đồng thời ca ngợi tinh thần yêu nước, kiên trung của những người chiến đấu vì độc lập dân tộc.

Bài ca du kích

Ào, ào, ào…
Ào, ào, ào…
Già nào,
Trẻ nào,
Lính nào,
Dân nào,
Đàn ông nào,
Đàn bà nào!
Kẻ có súng dùng súng,
Kẻ có dao dùng dao;
Kẻ có cuốc dùng cuốc,
Người có cào dùng cào,
Thấy Tây cứ chém phứa,
Thấy Nhật cứ chặt nhào.

Chúng nhiều là mấy vạn,
Mình mấy triệu đồng bào.
Chúng đường xa mỏi mệt,
Mình “dĩ dật đãi lao”.
Làm cho chúng mòn mỏi,
Làm cho chúng tiêu hao.
Chúng nhất định thất bại
Mình sức càng dồi dào.
Ào, ào, ào…
Ào, ào, ào…
Du kích ngày càng mạnh,
Du kích ngày càng cao.
Ào, ào, ào…
Ào, ào, ào…

Lời bình:

Bài thơ khắc họa tinh thần chiến đấu kiên cường của lực lượng du kích, một lực lượng quan trọng trong cuộc kháng chiến. Qua các hình ảnh sống động, bài ca không chỉ thể hiện lòng quyết tâm mà còn tôn vinh sự khéo léo, mưu trí của những người chiến sĩ du kích trong việc bảo vệ quê hương.

Bài ca Trần Hưng Đạo

Diên Hồng thề trước thánh minh
Lòng dân đã quyết hy sinh rành rành
Nếu ai muốn đến giành đất Việt
Đưa dân ta ra giết sạch trơn
Một người Việt hãy đương còn
Thì non sông Việt vẫn non sông nhà…

Lời bình:

Với tinh thần hào hùng, tác phẩm này tôn vinh vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, người đã lãnh đạo quân dân Đại Việt chiến thắng quân Nguyên Mông. Hồ Chí Minh sử dụng hình ảnh của vị tướng vĩ đại này để khơi dậy lòng tự hào dân tộc và cổ vũ tinh thần yêu nước, kiên cường chống giặc.

Thơ của Hồ Chí Minh
Bài ca Trần Hưng Đạo

Bài thơ cổ động

Mười hai điều trên
Ai chả làm được,
Hễ người yêu nước,
Nhất quyết không quên.
Tập thành thói quen,
Muôn người như một.
Quân tốt dân tốt,
Muôn sự đều nên.
Gốc có vững, cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân.

Lời bình:

Bài thơ cổ động là một sáng tác ngắn gọn, súc tích nhằm thúc đẩy, khích lệ tinh thần yêu nước và ý chí cách mạng trong quần chúng. Tác phẩm thể hiện sự khéo léo của Hồ Chí Minh trong việc dùng ngôn từ để truyền cảm hứng và động viên nhân dân tham gia vào công cuộc giải phóng đất nước.

Ca binh lính

Hai tay cầm khẩu súng dài,
Nhắm đi nhắm lại, bắn ai thế này?
Bắn vào quân Nhật, quân Tây,
Lũ cướp nước, lũ đoạ đày dân ta,
Lũ không yêu trẻ, kính già,
Lũ cướp đất, lũ đốt nhà xôn xao,
Lũ đòi sưu nặng, thuế cao,
Lũ đi vơ vét đồng bào Việt Nam.
Bắn được chúng, chết cũng cam,
Vì mình dù chết, nước Nam vẫn còn!
Hay vì chút lợi cỏn con,
Cái bằng cửu phẩm, cái lon đội nhì,
Nhắm vào cách mạng bắn đi,
Quản chi nhân nghĩa, quản chi giống nòi!
Anh em binh lính ta ơi!
Chúng ta cùng giống, cùng nòi Việt Nam;
Việc chi lợi nước thì làm,
Cứu dân cứu quốc há cam kém người!
Trong tay đã sẵn súng này,
Quyết quay đánh Nhật, đánh Tây mới đành.
Tiếng thơm sẽ tạc sử xanh:
“Việt binh cứu quốc” rạng danh muôn đời!

Lời bình:

Tác phẩm này miêu tả cuộc sống và tinh thần của người lính trong kháng chiến. Bài thơ truyền tải sự gian nan, thử thách của binh lính, nhưng đồng thời cũng thể hiện lòng yêu nước, quyết tâm chiến đấu vì tự do và độc lập của dân tộc.

Ca sợi chỉ

Mẹ tôi là một đoá hoa,
Thân tôi trong sạch, tôi là cái bông.
Xưa tôi yếu ớt vô cùng,
Ai vò cũng đứt, ai rung cũng rời.
Khi tôi đã thành chỉ rồi,
Cũng còn yếu lắm, ăn ngồi không ngon,
Mạnh gì sợi chỉ con con,
Khôn thiêng biết có vuông tròn cho chăng!
Càng dài lại càng mỏng manh,
Thế gian ai sợ chi anh chỉ xoàng!
Nhờ tôi có nhiều đồng bang,
Họp nhau sợi dọc, sợi ngang rất nhiều.
Dệt nên tấm vải mỹ miều,
Đã bền hơn lụa, lại điều hơn da.
Đố ai bứt xé cho ra,
Đó là lực lượng, đó là vẻ vang.

*

Hỡi ai con cháu Hồng Bàng,
Chúng ta phải biết kết đoàn mau mau.
Yêu nhau xin nhớ lời nhau,
Việt Minh hội ấy mau mau phải vào.

Lời bình:

Bài thơ dùng hình ảnh đơn giản như “sợi chỉ” để nói lên sự đoàn kết và gắn bó của mọi người trong cuộc kháng chiến. Hồ Chí Minh muốn nhắn nhủ rằng dù mỗi người một nhiệm vụ, một vai trò khác nhau nhưng tất cả đều cần hợp lực, phối hợp để tạo nên sức mạnh toàn dân tộc.

Ca đội tự vệ

I
Gươm dao ta
Đem mài đi
Mài cho bén
Mài cho sắc
Nhật ta đâm
Tây ta chặt.

II
Sắp hàng ra
Xung phong lên
Người ta đông
Sức ta bền
Việc giải phóng
Nhất định nên.

Lời bình:

Tác phẩm này ca ngợi lực lượng tự vệ – những người đóng vai trò bảo vệ quê hương trong các làng xóm, thành phố. Hồ Chí Minh thể hiện lòng biết ơn đối với những người tự vệ, những người không chỉ canh giữ an ninh mà còn trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến.

Cảm hứng

Kìa bãi cát, nọ rừng thông
Nước nước, non non, khéo một vùng
Đang đợi nàng thơ cùng bạn vẽ
Đến chơi cảnh núi với tình sông
Tay đàn, cặp sách, ông đầu bạc
Hồ rượu, xâu nem, ả má hồng
Được phép ngao du cùng tuế nguyệt
Vì rằng kháng chiến đã thành công

Lời bình:

Bài thơ “Cảm hứng” là sự bộc bạch những suy nghĩ, cảm xúc của Hồ Chí Minh về cuộc sống và cuộc đấu tranh. Người truyền tải sự lạc quan, niềm tin vào tương lai tốt đẹp, đồng thời cổ vũ mọi người duy trì tinh thần yêu nước và lý tưởng cách mạng.

Cảnh khuya

Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Lời bình:

“Cảnh khuya” là một bài thơ trữ tình mà Hồ Chí Minh sử dụng để miêu tả cảnh đêm khuya thanh bình nơi chiến khu. Qua những hình ảnh thiên nhiên tĩnh lặng, Người bộc lộ tâm hồn thi sĩ nhưng cũng đầy trăn trở về vận mệnh đất nước trong lúc kháng chiến.

Chết vì ốm đòn

Tướng giặc Tátxinhi
Tháng trước về Pari,
Rồi thì nó khai ốm,
Không biết ốm bệnh chi?
Chắc là nó ốm đòn.
Nó chết mất thằng con,
Lại thua luôn mấy trận,
Ruột nó đã héo mòn.
Chiến dịch Quang Trung,
Tát thua lung tung,
Chiến dịch Đề Thám,
Tát thua mặt xám
Trận Lý Thường Kiệt,
Tát thua tê liệt,
Chiến dịch Hoà Bình,
Tát khoe khoang rinh:
“Phen này Pháp thắng,
Thật là hiển vinh!”
Kỳ thực Tát đã
Mất mười ba dinh
Nội cảm, ngoại thương,
Tát đã ốm đòn,
Vì ta luôn thắng,
Tát phải vào hòm.
Nên có thơ rằng:
“Tátxinhi, Tátxinhi
Mi đã khôn hồn, mà chết đi!
Con mi đền tội, con mi chết,
Đền tội ngày nay, chết đến mi!”

Lời bình:

Tác phẩm này thể hiện nỗi đau đớn trước sự mất mát của đồng đội hoặc nhân dân trong cuộc chiến đấu. Qua bài thơ, Hồ Chí Minh không chỉ lên án sự tàn bạo của kẻ thù mà còn khơi dậy lòng căm thù giặc trong quần chúng, tạo động lực cho cuộc đấu tranh giành độc lập.

Chơi giăng

Gặp tuần trăng sáng, dạo chơi giăng,
Sẵn nhắn vài câu hỏi chị Hằng:
“Non nước tơi bời sao vậy nhỉ?
Nhân dân cực khổ biết hay chăng?
Khi nào kéo được quân anh dũng,
Để dẹp cho tàn bọn nhố nhăng?
Nam Việt bao giờ thì giải phóng
Nói cho nghe thử, hỡi cô Hằng?”.

*

Nguyệt rằng: “Tôi kính trả lời ông:
Tôi đã từng soi khắp núi sông,
Muốn biết tự do chầy hay chóng,
Thì xem tổ chức khắp hay không.
Nước nhà giành lại nhờ tài sắt,
Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng.
Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi,
Tức là cách mệnh chóng thành công”.

Lời bình:

“Chơi giăng” là một bài thơ miêu tả sự căng thẳng, quyết liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù. Hồ Chí Minh ví von cuộc đấu tranh như một ván bài mạo hiểm, nơi mà tinh thần kiên quyết và mưu trí là yếu tố quyết định để giành chiến thắng.

Con cáo và tổ ông

Tổ ong lủng lẳng trên cành,
Trong đầy mật nhộng, ngon lành lắm thay!
Cáo già nhè nhẹ lên cây,
Định rằng lấy được ăn ngay cho dòn.
Ong thấy cáo muốn cướp con,
Kéo nhau xúm lại vây tròn cáo ta.
Châm đầu, châm mắt cáo già,
Cáo già đau quá phải sa xuống rồi.

*

Ong kia yêu giống, yêu nòi,
Đồng tâm, hợp lực đuổi loài cáo đi.
Bây giờ ta thử so bì,
Ong còn đoàn kết, huống chi là người!
Nhật, Tây áp bức giống nòi,
Ta nên đoàn kết để đòi tự do.

Lời bình:

Tác phẩm dùng câu chuyện ngụ ngôn về con cáo và tổ ong để truyền tải thông điệp về lòng đoàn kết và sức mạnh tập thể. Qua hình ảnh các chú ong, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng khi mọi người hợp sức với nhau, sẽ có thể đối phó với những kẻ xâm lược mạnh mẽ và nguy hiểm hơn.

Công nhân

Thành ai đắp, lầu ai xây?
Tàu kia ai đóng, than đây ai sàng?
Bao nhiêu của cải kho tàng,
Ai đào bạc, ai luyện vàng mà nên?
Công nhân sức mạnh nghề quen,
Làm ra của cải cho thiên hạ nhờ.
Mà mình quần rách áo xơ,
Tiền công thì bớt mà giờ thì thêm.
Lại còn đánh chửi tần phiền,
Cúp lương tháng trước, phạt tiền hôm qua.
Càng nghĩ lại, càng xót xa,
Vì ta mất nước, mà ta phải hèn
Để cho Pháp, Nhật lộng quyền,
Thẳng tay bóc lột thợ thuyền nước ta!
Thợ thuyền ta phải đứng ra,
Trước ta cứu nước, sau ta cứu mình.
Cùng nhau vào hội Việt Minh,
Ra tay tranh đấu hy sinh mới là.
Bao giờ khôi phục nước nhà,
Của ta ta giữ, công ta ta làm.

Lời bình:

Bài thơ tôn vinh tầng lớp công nhân – những người đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Hồ Chí Minh ca ngợi tinh thần lao động cần cù, sáng tạo của công nhân, đồng thời khẳng định vị thế của họ trong cuộc cách mạng.

Dân cày

Thương ôi! những kẻ dân cày,
Chân bùn tay lấm suốt ngày gian lao
Lại còn thuế nặng sưu cao.
Được đồng nào đều lọt vào túi Tây.
Dân ta không có ruộng cày,
Bao nhiêu đất tốt về tay đồn điền.
Lại còn phu dịch, tần phiền.
Làm chết xác được đồng tiền nào đâu!
Thân người chẳng khác thân trâu.
Cái phần no ấm có đâu đến mình!
Muốn phá sạch mối bất bình,
Dân cày phải kiếm Việt Minh mà vào.
Để cùng toàn quốc đồng bào
Đánh Pháp, Nhật, gây phong trào tự do.
Nhịp này là nhịp trời cho,
Lo cứu nước tức là lo cứu mình.
Mai sau thực hiện chương trình:
Việt Nam nông dã tất canh kỳ điền.

Lời bình:

Trong bài thơ, Hồ Chí Minh thể hiện tình cảm sâu sắc đối với nông dân – những người lao động cần cù, chân chất và cũng là lực lượng chủ yếu trong cuộc kháng chiến. Người khẳng định rằng chính những người dân cày là nền tảng của cách mạng, góp phần lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc.

Đảng ta

Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình!
Đảng ta là đạo đức, là văn minh
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình, ấm no
Công ơn Đảng thật là to
Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng

Lời bình:

Tác phẩm là sự tôn vinh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng ta là đội ngũ tiên phong, là người lãnh đạo sáng suốt của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước.

Địa dư nước ta

Dân ta phải biết nước ta,
Một là yêu nước, hai là trí tri.
Hai mươi bảy tỉnh Bắc Kỳ,
Sáu tỉnh thì ở biên thuỳ Trung Hoa.
Lai Châu, Lao Kay không xa,
Hà Giang kề đó bước qua Cao Bằng.
Lạng Sơn một tỉnh vắt ngang,
Xuống gần miền bể rõ ràng Mông Cay (Moncay).
Gần bể mấy tỉnh đẹp thay,
Quảng Yên nhiều cá không tày Kiến An.
Thái Bình từ đó đi sang,
Năm mươi cây số bước sang Ninh Bình.
Hạ du mấy tỉnh xinh xinh
Nam Định, Phủ Lý đi quành Hưng Yên.
Hải Dương, Hà Đông gần miền,
Đi qua Hà Nội đến liền Bắc Ninh.
Bắc Giang non nước hữu tình,
Đi quanh trở lại là thành Sơn Tây.
Phúc Yên cũng ở gần đây,
Vĩnh Yên, Phú Thọ xưa nay kề liền.
Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên,
Đi lên Bắc Kạn là miền thượng du.
Sơn La xa cách mịt mù,
Theo sông Đà xuống, vào khu Hoà Bình.
Hải Phòng cửa bể xinh xinh,
Thuyền bè đi lại linh đình bán buôn.
Mười một vạn rưỡi dặm vuông,
Nhân dân thì có tám hơn triệu người.

Trung Kỳ một dải đất dài,
Bên đông biển rộng, bên đoài rừng xanh.
Thanh Hoá phong cảnh đẹp xinh,
Nghệ An, Hà Tĩnh tục danh Lam Hồng.
Quảng Bình, Quảng Trị vào trong,
Thừa Thiên có Huế cũng không xa gì.
Quảng Nam, Quảng Ngãi gần kề,
Muốn vào Bình Định đi về cũng mau.
Phú Yên trước, Khánh Hoà sau,
Người ta thường gọi Sông Cầu, Nha Trang.
Ninh Thuận tỉnh lý Phan Rang,
Bình Thuận, Phan Thiết gọi thường sử nhau.
Mười ba tỉnh ấy trung châu,
Lại còn năm tỉnh thượng du cũng gần:
Đi từ cửa bể Quy Nhơn,
Bảy mươi cây số đến phần Gia Lai.
Kông Tum tiếp giáp tỉnh này,
Qua Ban Mê Thuột một ngày tới nơi.
Muốn tìm mát mẻ thảnh thơi,
Thì qua Đà Lạt mà chơi cũng gần.
Đường theo sườn núi xoay vần,
Di Linh đi xuống nóng dần tăng lên.
Ấy mười tám tỉnh dưới trên,
Còn ba hải cảng kể tên sau này:
Quy Nhơn, Đà Nẵng là hai,
Nhưng mà tốt nhất mai này: Cam Ranh.
Nước non non nước hữu tình,
Trung Kỳ sáu triệu dân sinh còn thừa.

Vào Nam thì đến Biên Hoà,
Rồi qua Gia Định cũng là xinh xinh.
Thủ Dầu Một đến Tây Ninh,
Đi xuống Bà Rịa gần quành Tân An.
Mỹ Tho, Gò Công một đàng,
Bến Tre, Sa Đéc đồng hàng Vĩnh Long.
Châu Đốc địa thế nhiều sông,
Hà Tiên gần bể đi gần Long Xuyên.
Cần Thơ, Rạch Giá gần miền,
Sóc Trăng đi xuống gần liền Bạc Liêu.
Cà Mau gần bể, cá nhiều,
Nam Kỳ mấy tỉnh thương yêu một nhà.
Sài Gòn, Chợ Lớn phồn hoa,
Đều là lãnh thổ nước nhà Việt Nam.

Lời bình:

Qua tác phẩm, Hồ Chí Minh muốn giới thiệu về địa lý, văn hóa và lịch sử của Việt Nam. Đây là một bài thơ mang tính giáo dục, giúp người dân hiểu rõ hơn về quê hương, từ đó thêm yêu và có trách nhiệm hơn trong việc bảo vệ, xây dựng Tổ quốc.

Gửi các cháu Miền Nam

Bắc Nam sẽ sum họp một nhà,
Bác cháu ta gặp mặt; trẻ già vui chung.
Nhớ thương các cháu vô cùng,
Mong sao mỗi cháu là một anh hùng thiếu nhi.

Lời bình:

Bài thơ thể hiện tình cảm yêu thương và sự quan tâm sâu sắc của Hồ Chí Minh đối với các em nhỏ ở miền Nam, những người phải chịu đựng nhiều gian khổ do chiến tranh. Qua đó, Người gửi gắm niềm tin vào thế hệ tương lai, động viên các em cố gắng học tập và giữ vững lý tưởng yêu nước.

Những bài thơ của Hồ Chí Minh về thiên nhiên

Qua các tác phẩm của Hồ Chí Minh về thiên nhiên, ta thấy rõ sức sống mạnh liệt, cùng khả năng miêu tả cảnh vật cực sống đống, đa dạng và phong phú của Người.

Thăm lại hang Pác Bó

Hai mươi năm trước ở hang này
Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây
Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu
Non sông gấm vóc có ngày nay.

Lời bình:

Bài thơ là những dòng hồi tưởng của Hồ Chí Minh khi quay lại hang Pác Bó, nơi gắn bó với những ngày đầu hoạt động cách mạng. Qua đó, Người thể hiện sự tự hào về quá khứ gian khổ nhưng đầy ý nghĩa, và lòng biết ơn đối với vùng đất đã chở che cho cách mạng. Tình yêu quê hương và lòng trung thành với lý tưởng cách mạng thấm đẫm trong từng câu thơ giản dị mà sâu sắc.

Rằm tháng Giêng

Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Lời bình:

Bài thơ “Rằm tháng Giêng” được sáng tác trong bối cảnh kháng chiến, khi Hồ Chí Minh vừa chủ trì một cuộc họp quan trọng. Bài thơ miêu tả khung cảnh đêm trăng thanh bình nhưng ẩn chứa niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Qua hình ảnh thiên nhiên lãng mạn, Người bộc lộ tâm hồn thi sĩ và tình yêu nước nồng nàn. Sự hòa quyện giữa cái tĩnh lặng của thiên nhiên và lòng hăng hái trong công việc thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng.

Ngắm trăng

Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Tác phẩm Hồ Chí Minh
Ngắm trăng

Lời bình:

“Ngắm trăng” là một tác phẩm ngắn gọn nhưng đầy sức sống, được sáng tác khi Hồ Chí Minh bị giam giữ trong tù. Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc của Người, dù đang bị giam cầm, vẫn tìm thấy niềm vui trong việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của trăng. Qua đó, ta thấy được tinh thần tự do trong tâm hồn Người, không bị bó buộc bởi hoàn cảnh khó khăn.

Tức cảnh Pác Bó

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Lời bình:

Bài thơ này phản ánh cuộc sống giản dị mà thanh thản của Hồ Chí Minh tại Pác Bó, một nơi tuy nghèo khó nhưng tràn đầy niềm vui và ý chí cách mạng. Những hình ảnh như “cháo bẹ rau măng” hay “bàn đá chông chênh” thể hiện sự lạc quan, yêu đời của Người trong điều kiện khắc nghiệt, đồng thời cho thấy sự kiên định với lý tưởng cách mạng.

Cảnh rừng Việt Bắc

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày,
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay,
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.

Lời bình:

Bài thơ miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ và hoang sơ của rừng Việt Bắc, nơi đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến. Hồ Chí Minh khéo léo sử dụng những hình ảnh thiên nhiên để bộc lộ lòng tự hào về vùng căn cứ cách mạng và tình yêu sâu nặng với đất nước. Sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người trong bài thơ cũng thể hiện tinh thần đoàn kết, kiên cường của quân dân ta.

Pác Bó hùng vĩ

Non xa xa, nước xa xa,
Nào phải thênh thang mới gọi là.
Đây suối Lê-nin, kia núi Mác,
Hai tay xây dựng một sơn hà.

Lời bình:

Bài thơ ca ngợi sự hùng vĩ và yên bình của Pác Bó, nơi đã trở thành biểu tượng của cách mạng. Qua bài thơ, Hồ Chí Minh không chỉ bộc lộ tình yêu thiên nhiên mà còn khẳng định lòng tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc, dựa trên những giá trị của quá khứ và sự kiên cường của nhân dân.

Vãn cảnh

Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ,
Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình;
Hoa hương thấu nhập lung môn lý,
Hướng tại lung nhân tố bất bình.

Tạm dịch:

Hoa hồng nở hoa hồng lại tàn,
Hoa nở hoa tàn đều vô tình;
Hương thơm bay vào thấu trong ngục,
Tới kể với người trong ngục nỗi bất bình.

Lời bình:

Tác phẩm “Vãn cảnh” là một bức tranh thiên nhiên yên bình nhưng cũng đầy sâu lắng, thể hiện những suy ngẫm của Hồ Chí Minh về cuộc sống và cách mạng. Bằng lối thơ nhẹ nhàng, Người đã vẽ nên cảnh sắc thiên nhiên thanh tĩnh, qua đó gửi gắm niềm tin vào tương lai và sự an bình sau những gian truân, thử thách.

Triêu cảnh

Thái dương mỗi tảo tòng sơn thượng,
Chiếu đắc toàn sơn xứ xứ hồng.
Chỉ vị lung tiền hữu hắc ảnh,
Thái dương vị chiếu đáo lung trung.

Tạm dịch:

Mỗi buổi sớm, mặt trời nhô lên từ đỉnh núi
Chiếu khắp núi, nơi nào cũng đỏ rực
Chỉ vì trước nhà tù có bóng đen
Mặt trời chưa rọi được vào trong ngục

Lời bình:

“Triêu cảnh” (Cảnh buổi sáng) là bài thơ miêu tả khung cảnh buổi sáng tại chiến khu, khi thiên nhiên và con người cùng hòa mình vào công việc mới. Hình ảnh mặt trời mọc biểu tượng cho sự sống và hy vọng, mang đến cảm giác tươi sáng, lạc quan về cuộc chiến đấu và xây dựng đất nước.

Quế Lâm phong cảnh

Quế lâm phong cảnh giáp thiên hạ,
Như thi trung hoạ hoạ trung thi.
Sơn trung tiều phu xướng,
Giang thượng khách thuyền quy.
Kỳ!

Tạm dịch:

Phong cảnh Quế Lâm đẹp bậc nhất trong thiên hạ,
Khác nào tranh vẽ trong thơ, thơ trong tranh vẽ.
Trên núi, những người hái củi ca hát.
Dưới sông, thuyền khách trở về…
Thật kỳ lạ.

Lời bình:

Tác phẩm này mang đậm nét thơ ca miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên vùng Quế Lâm. Hồ Chí Minh đã sử dụng bút pháp tả cảnh tinh tế để vẽ lên bức tranh thiên nhiên thơ mộng, qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên và sự cảm nhận sâu sắc về cảnh sắc đất trời.

Các bài thơ của Hồ Chí Minh sáng tác khi ở trong tù

Trong thời gian hoạt động cách mạng, Bác từng bị cầm tù trong gần 30 nhà lao tại Trung Quốc. Suốt thời gian đó, Người đã sáng tác tập Ngục trung nhật ký với 133 bài thơ được viết bằng chữ Hán nhằm ghi lại cuộc sống đấu tranh vì hòa bình của mình. Nếu bạn chưa biết thì bút danh Hồ Chí Minh cũng bắt nguồn từ sự kiện này.

Dưới đây là tuyển tập một số bài thơ hay nhất bạn không thể bỏ qua về chủ đề này:

Vọng nguyệt

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Tạm dịch:

Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.

Lời bình:

Bài thơ “Vọng nguyệt” (Ngắm trăng) được viết trong hoàn cảnh Hồ Chí Minh bị giam cầm, nhưng nó lại bộc lộ một tâm hồn tự do và lãng mạn. Dù đang trong tù, Người vẫn dành thời gian để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của trăng. Qua bài thơ, chúng ta cảm nhận được tinh thần vượt lên trên khó khăn, giữ vững niềm tin và tinh thần cách mạng của Người, với một trái tim luôn hướng về thiên nhiên và lý tưởng cao đẹp.

Hoàng hôn

Phong như lợi kiếm ma sơn thạch,
Hàn tự tiêm phong thích thụ chi;
Viễn tự chung thanh thôi khách bộ,
Mục đồng xuy địch dẫn ngưu quy.

Tạm dịch:

Gió như gươm sắc mài đá núi,
Rét như giáo nhọn chích cành cây;
Tiếng chuông chùa xa giục bước chân khách,
Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về.

Lời bình:

“Hoàng hôn” là một bài thơ khắc họa hình ảnh mặt trời lặn nơi vùng núi, với không gian thiên nhiên hoang sơ nhưng đầy sức sống. Bài thơ thể hiện sự hòa hợp giữa cảnh vật và con người, mang lại cảm giác yên bình, trầm lắng trước sự vĩnh cửu của thiên nhiên. Hồ Chí Minh bộc lộ những suy tư sâu lắng, chiêm nghiệm về thời gian và cuộc sống, nhưng vẫn giữ được sự tĩnh lặng trong tâm hồn.

Trung thu

Trung thu vành vạch mảnh gương thu
Sáng khắp nhân gian bạc một màu
Sum họp nhà ai ăn Tết đó
Chẳng quên trong ngục kẻ ăn sầu

Trung thu ta cũng Tết trong tù
Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu

Lời bình:

Bài thơ “Trung thu” vừa là sự miêu tả cảnh đêm trăng rằm vừa là những suy nghĩ sâu xa của Hồ Chí Minh về cuộc sống và tình hình đất nước. Bằng giọng điệu nhẹ nhàng và hình ảnh quen thuộc, Người thể hiện tình yêu thương đối với thiếu nhi và lòng nhớ mong những ngày hòa bình. Tâm hồn thi sĩ của Người hiện lên qua sự cảm nhận tinh tế về cảnh sắc thiên nhiên và tinh thần dân tộc trong ngày lễ truyền thống.

Chiều tối

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây nhè nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.

Những bài thơ của Hồ Chí Minh
Chiều tối

Lời bình:

“Chiều tối” là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Hồ Chí Minh, được sáng tác khi Người trên đường chuyển lao. Bài thơ mang đậm chất lãng mạn và tinh thần vượt khó của tác giả. Hình ảnh người lao động xuất hiện trong bức tranh hoàng hôn tạo nên một cảm giác ấm áp, đầy sức sống. Qua đó, bài thơ gửi gắm niềm tin vào cuộc sống và sự lạc quan dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt.

Tự khuyên mình

Ví không có cảnh đông tàn
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ mình trong bước gian tuân
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

Lời bình:

Bài thơ “Tự khuyên mình” là lời tự nhủ của Hồ Chí Minh với chính bản thân trong những thời khắc khó khăn của cuộc cách mạng. Người tự động viên mình phải giữ vững ý chí, kiên trì trước những thử thách, bởi sự nghiệp cứu nước là con đường dài và đầy gian nan. Với ngôn từ giản dị mà sâu sắc, bài thơ thể hiện tinh thần trách nhiệm cao cả và lòng kiên cường, quyết tâm của Người trong hành trình đấu tranh vì dân tộc.

Không ngủ được

Một canh… hai canh… lại ba canh

Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng lành

Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt

Sao vàng năm cánh mộng hồn bay.

Lời bình:

Trong bài thơ “Không ngủ được”, Hồ Chí Minh không chỉ miêu tả trạng thái thao thức của bản thân mà còn thể hiện sự lo lắng, quan tâm đến vận mệnh của đất nước và cuộc sống của nhân dân. Những suy nghĩ của Người về cách mạng và kháng chiến khiến cho giấc ngủ trở nên khó khăn, qua đó cho thấy tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Bài thơ mang đến cảm giác xúc động, gần gũi bởi sự chân thành trong tình cảm của Người.

Đi đường

Đi đường mới biết gian lao,

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;

Núi cao lên đến tận cùng,

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Lời bình:

“Đi đường” là bài thơ nói về hành trình gian nan trên con đường cách mạng. Hồ Chí Minh dùng hình ảnh leo núi để diễn tả khó khăn trong cuộc đấu tranh, nhưng cuối cùng, khi vượt qua tất cả, ta sẽ đạt được đỉnh cao và nhìn thấy bầu trời rộng mở. Bài thơ ngắn gọn nhưng súc tích, chứa đựng triết lý sống kiên cường và lạc quan của Người trước mọi khó khăn.

Nắng sớm

Nắng sớm xuyên qua nơi ngục thất,

Đốt tan khói đặc với sương dày;

Đất trời phút chốc tràn sinh khí,

Tù phạm cười tươi nở mặt mày.

Lời bình:

Bài thơ “Nắng sớm” tái hiện khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp của buổi bình minh với ánh nắng mới lên. Hồ Chí Minh khéo léo vẽ nên bức tranh thiên nhiên giản dị nhưng tràn đầy sinh khí, qua đó bộc lộ niềm hy vọng vào tương lai và cuộc sống. Sự hứng khởi và tình yêu cuộc sống của Người được phản ánh qua từng câu chữ, mang đến một cảm giác ấm áp và lạc quan.

Những bài thơ hay của Hồ Chí Minh về tết

Thơ chúc tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang nét đặc trưng riêng, thông qua những lời thơ giản dị, Bác gửi gắm tình yêu thương, sự đồng cảm và tinh thần lạc quan, quyết tâm bảo vệ, xây dựng tổ quốc. Cùng tìm hiểu chi tiết qua các tác phẩm sau:

Thơ chúc Tết năm 1942 (Nhâm Ngọ)

Tháng ngày thấm thoát chóng như thoi,
Năm cũ qua rồi, chúc năm mới:
Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong!
Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi;
Chúc đồng bào ta đoàn kết mau!
Chúc Việt Minh ta càng tấn tới!
Chúc toàn quốc ta trong năm này,
Cờ đỏ ngôi sao bay phất phới!
Năm này là năm rất vẻ vang,
Cách mệnh thành công khắp thế giới.

Lời bình:

Bài thơ chúc Tết năm 1942 mang tinh thần khích lệ nhân dân tiếp tục cuộc kháng chiến gian khổ. Hồ Chí Minh động viên đồng bào kiên trì vượt qua mọi thử thách, đồng thời thể hiện niềm tin vào chiến thắng cuối cùng. Từng câu chữ đều toát lên ý chí quật cường và niềm hy vọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Thơ chúc Tết năm 1943 (Quý Mùi)

Một nghìn chín trăm bốn mươi ba,
Năm mới tình hình hẳn mới a!
Đông Á chắc rồi Tàu thắng Nhật.
Tây Âu nhất định Đức thua Nga.
Nhân dân các nước đều bùng dậy,
Cách mệnh nhiều nơi sẽ nổ ra.
Đức, Nhật chết, rồi Tây cũng chết,
Ấy là cơ – hội tốt cho ta!
Ấy là cơ – hội tốt cho ta!
Cơ- hội này ta chớ bỏ qua,
Phấn đấu, hy sinh đừng quản ngại,
Tuyên truyền, tổ chức phải xông pha
Đồng tâm, một triệu người như một,
Khởi nghĩa, ba kỳ giậy cả ba.
Năm mới quyết làm cho nước mới,
Non sông Hồng – Lạc gấm thêm hoa!

Lời bình:

Trong năm 1943, bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh nhấn mạnh tình đoàn kết giữa quân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Người kêu gọi đồng bào tiếp tục phấn đấu, giữ vững niềm tin vào thắng lợi. Qua đó, bài thơ không chỉ mang tính động viên tinh thần mà còn truyền tải thông điệp về sức mạnh của sự đoàn kết và kiên trì.

Thơ chúc Tết năm 1944 (Giáp Thân)

… Xuân ơi, Xuân hỡi, hỡi Xuân,
Từ xa tới gần, xuân khắp mọi nơi.
Rót cốc rượu xuân, mừng cách mạng,
Viết bài chào Tết, chúc thành công.

Lời bình:

Bài thơ chúc Tết năm 1944 thể hiện sự khích lệ và niềm tin vào sức mạnh dân tộc, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc chiến tranh giải phóng đang ở giai đoạn cam go. Hồ Chí Minh truyền đạt tinh thần quyết tâm và kiên định với mục tiêu cao cả, đồng thời khích lệ nhân dân hướng đến một tương lai tươi sáng hơn.

Thơ chúc Tết năm 1945 (Ất Dậu)

Tết năm mới nhà báo xin chúc:
Chúc Đồng Minh đánh “Trục” tan thây.
Bốn phương năm bắc đông tây,
Trên nền máu lửa chóng xây hoà bình.
Chúc Liên Xô hùng binh mãnh tướng
Nhắm Bá Linh thuận hướng đến mau.
Chúc Anh – Mỹ tại Tây Âu,
Nhanh chân nhẹ bước tiến sâu thêm vào.
Chúc Trung Hoa anh hào kháng chiến
Chóng đến ngày toàn diện phản công.
Chúc Anh – Mỹ tại Viễn Đông
Chiếm xong Ma-ní, đoạt vùng Đa-lây
Chúc xong thế giới đó đây,
Việt Nam độc lập, chúc ngay đồng bào.
Chúc năm nay không nao khủng bố
Sự đoàn kết củng cố hơn xưa.
Vũ trang đón lấy thời cơ
Đứng lên giết giặc trao cờ tự do
Rồi trăm họ ấm no sung sướng,
Trên thế giới được hưởng binh quyền
Nghìn thu danh vọng Tiên – Rồng.

Lời bình:

Năm 1945, một năm đánh dấu sự kiện Cách mạng Tháng Tám, bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh là lời hiệu triệu nhân dân đoàn kết, giành lấy thắng lợi quyết định. Từng câu thơ vang lên như lời kêu gọi mạnh mẽ, cổ vũ nhân dân tiếp tục đấu tranh để giành độc lập. Bài thơ chứa đựng tinh thần lạc quan, quyết liệt của thời đại.

Thơ chúc Tết năm 1946 (Bính Tuất)

Hỡi các chiến sĩ yêu quý,
Bao giờ kháng chiến thành công
Chúng ta cùng uống một chung rượu đào.
Tết này ta tạm xa nhau
Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy.

Chúc đồng bào:
Trong năm Bính Tuất tới
Muôn việc đều tiến tới
Kiến quốc mau thành công
Kháng chiến mau thắng lợi
Việt Nam độc lập muôn năm!

Lời bình:

Năm 1946, bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh khơi dậy tinh thần xây dựng đất nước sau khi giành độc lập. Lời thơ nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng và tiếp tục tiến lên trên con đường xây dựng quốc gia mới. Người đã gửi gắm tình yêu nước và niềm hy vọng vào một tương lai hòa bình và thịnh vượng.

Tác phẩm tiêu biểu của Hồ Chí Minh
Thơ chúc tết của Bác

Thơ chúc Tết năm 1947 (Đinh Hợi)

Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió,
Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông.
Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,
Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng.
Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào!
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông.
Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi!
Thống nhất độc lập, nhất định thành công!

Lời bình:

Trong năm 1947, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra ác liệt, bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh mang theo lời động viên nhân dân vững tin, đồng lòng chống lại quân xâm lược. Người nhấn mạnh tinh thần tự lực tự cường, khẳng định rằng chiến thắng sẽ đến nếu toàn dân quyết tâm, đoàn kết.

Thơ chúc Tết năm 1948 (Mậu Tí)

Năm Hợi đã đi qua,
Năm Tý vừa bước tới.
Gửi lời chúc đồng bào,
Kháng chiến được thắng lợi;
Toàn dân đại đoàn kết,
Cả nước dốc một lòng;
Thống nhất chắc chắn được,
Độc lập quyết thành công.

Lời bình:

Bài thơ chúc Tết năm 1948 tiếp tục khích lệ nhân dân trong cuộc chiến đấu chống lại thực dân Pháp. Hồ Chí Minh ca ngợi sự kiên cường và lòng dũng cảm của quân dân, đồng thời động viên họ tiếp tục nỗ lực. Bài thơ thể hiện sự tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc và thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Thơ chúc Tết năm 1949 (Kỷ Sửu)

Kháng chiến lại thêm một năm mới,
Thi đua ái quốc thêm tiến tới.
Động viên lực lượng và tinh thần.
Kháng chiến càng thêm mau thắng lợi.
Người người thi đua.
Ngành ngành thi đua.
Ngày ngày thi đua.
Ta nhất định thắng.
Địch nhất định thua.

Lời bình:

Bài thơ chúc Tết năm 1949 của Hồ Chí Minh là lời kêu gọi toàn dân tiếp tục kiên trì chiến đấu. Người động viên mọi người hãy giữ vững ý chí, tin vào chiến thắng của dân tộc, và nhấn mạnh rằng sự đoàn kết sẽ là sức mạnh giúp vượt qua mọi khó khăn. Bài thơ mang tinh thần cổ vũ mạnh mẽ, khích lệ lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến.

Thơ chúc Tết năm 1950 (Canh Dần)

Kính chúc đồng bào năm mới,
Mọi người càng thêm phấn khởi,
Toàn dân xung phong thi đua,
Đẩy mạnh cuộc chuẩn bị tới,
Chuyển mau sang tổng phản công,
Kháng chiến nhất định thắng lợi.

Lời bình:

Năm 1950, Hồ Chí Minh gửi gắm niềm tin vào sự hỗ trợ của quốc tế đối với cuộc kháng chiến của Việt Nam. Bài thơ chúc Tết nhấn mạnh sự liên kết giữa cuộc đấu tranh của Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới, đồng thời khẳng định sức mạnh của dân tộc trong việc giành thắng lợi. Lời thơ là sự cổ vũ mạnh mẽ cho tinh thần đoàn kết quốc tế và lòng yêu nước.

Thơ chúc Tết năm 1951 (Tân Mão)

Xuân này kháng chiến đã năm xuân,
Nhiều xuân thắng lợi càng gần thành công.
Toàn dân hăng hái một lòng
Thi đua chuẩn bị, tổng phản công kịp thời.

Lời bình:

Bài thơ chúc Tết năm 1951 của Hồ Chí Minh tiếp tục khích lệ tinh thần kháng chiến của nhân dân, đồng thời kêu gọi sự đoàn kết giữa các tầng lớp xã hội. Người tin tưởng vào sự tất thắng của cuộc kháng chiến và truyền tải thông điệp rằng mỗi người dân đều có vai trò quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bài thơ thể hiện rõ niềm tin và quyết tâm của Người đối với tương lai đất nước.

Thơ chúc Tết năm 1952 (Nhâm Thìn)

Xuân này, Xuân năm Thìn
Kháng chiến vừa 6 năm
Trường kỳ và gian khổ
Chắc thắng trăm phần trăm.

Chiến sĩ thi giết giặc
Đồng bào thi tăng gia
Năm mới thi đua mới
Thắng lợi ắt về ta.

Mấy câu thành thật nôm na
Vừa là kêu gọi vừa là mừng Xuân.

Lời bình:

Bài thơ chúc Tết năm 1952 của Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự thắng lợi gần kề, cổ vũ tinh thần toàn dân và quân đội hãy tiếp tục chiến đấu vì sự nghiệp độc lập dân tộc. Lời thơ giản dị nhưng hào hùng, mang đến sự khích lệ và động viên mạnh mẽ cho nhân dân trong những thời điểm cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Lời kết

Thơ Hồ Chí Minh đã khẳng định tài năng xuất chúng của Người. Chỉ với những câu từ gần gũi, giản dị nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa, Bác đã để lại cho thế hệ sau nhiều bài học, lời nhắn gửi tuyệ vời. Đọc xong các bài thơ trên, bạn sẽ cảm nhận rõ hơn tấm lòng yêu nước thương dân của vị lãnh tụ vĩ đại.

Ngoài ra, bạn đừng quên tham khảo tuyển tập những bài thơ hay về Bác Hồ của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Trần Đăng Khoa,….

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *