Trọn bộ thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhất mọi thời đại

Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được viết bằng cả chữ Hán và chữ Nôm với đa dạng nhiều chủ đề. Dù viết theo thể loại, chủ đề nào thì thơ ông đều phản ánh hiện thực và mạng đậm tính triết lý về cuộc đời. Qua từng câu chữ, Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn thể hiện lòng yêu nước, thương dân cùng đạo lý sống của mình.

Trọn bộ tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Trạng Trình, Bạch Vân Cư Sĩ (1491 – 1585) là nhà Nho, nhà dự báo, nhà chiến lược và nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Với tài năng xuất chúng, ông từng giữ chức vụ quan trọng trong triều đình.

Những bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm bao gồm cả thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm đều phản ánh hiện thực xã hội, đậm chất giáo huấn giúp người đọc có thêm nhiều bài học quý giá. Phong cách sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm riêng biệt, vừa hiện đại vừa truyền thống.

Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Các bài thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng nhiều tác phẩm tiêu biểu khác

Các tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm bao gồm:

Thơ

  • Bạch Vân quốc ngữ thi tập: Khoảng 170 bài thơ chữ Nôm.
  • Bạch Vân am thi tập. (Chữ Hán)
  • Bi ký quán Trung Tân. (Chữ Hán)
  • Thạch khánh ký. (Chữ Hán)

Sấm ký

  • Trình quốc công sấm ký.
  • Trình tiên sinh quốc ngữ.

Những bài thơ chữ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Những bài thơ hay của Nguyễn Bỉnh Khiêm viết bằng chữ Nôm sẽ khiến bạn ngạc nhiên về cả số lượng lẫn chất lượng.

Cảnh nhàn

Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến bóng cây ta hãy uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Lời bình: 

Trong Cảnh nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm miêu tả một cuộc sống an nhàn, giản dị và thanh bình. Ông ca ngợi những giá trị của cuộc sống không bon chen, không bị cuốn theo vòng xoáy của danh lợi. Thơ thể hiện sự hài lòng với những điều nhỏ bé và vẻ đẹp của cuộc sống đơn giản, cho thấy một thái độ sống đầy thanh thản và hài hòa.

Do mệnh

Bài mười một dạy câu số mệnh
Mọi điều đều do tiền định cả rồi.
Giầu sang cũng bởi tại trời,
Công danh có mệnh, có thời dở hay.
Đồ ăn uống xưa nay sản xuất.
Cũng đều do trời đất khởi sinh.
Người khôn làm đúng phận mình,
Tiểu nhân mạo hiểm hiếu danh, khoe tài.

Nói thẳng thường trái tai chẳng thích,
Hãy xét suy, có ích hãy làm.
Ở đời lắm thói đa đoan,
Thuốc đắng giã tật, thế gian tỏ tường.
Thấy người tốt chớ nên xem thường,
Hãy nghiêm suy ngẫm tìm đường mà theo.

Lời bình: 

Do mệnh phản ánh triết lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm về số mệnh và sự chấp nhận. Ông cho rằng cuộc đời con người không thể thoát khỏi số phận đã định, và việc chấp nhận mệnh trời chính là cách sống an yên và hạnh phúc. Bài thơ thể hiện sự cam chịu nhưng cũng là sự bình thản đối diện với những thử thách và thay đổi trong cuộc sống.

Dại khôn

Làm người có dại mới nên khôn,
Chớ dại ngây chi, chớ quá khôn.
Khôn được ích mình, đừng để dại,
Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn.
Khôn mà hiểm độc là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.
Chớ lấy rằng khôn khinh kẻ dại,
Gặp thời, dại cũng hoá nên khôn.

Lời bình: 

Trong Dại khôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt ra câu hỏi về sự dại khôn trong cuộc sống. Ông nhấn mạnh rằng sự khôn ngoan không phải lúc nào cũng dẫn đến thành công, và đôi khi sự dại dột lại mang đến những bài học quý giá. Bài thơ phản ánh sự thấu hiểu về sự phức tạp và không đoán trước được của cuộc đời.

Thế tục

Vụng, khéo nào ai chẳng có nghề,
Khó khăn phải luỵ đến thê nhi.
Được thời thân thích chen chân đến,
Thất thế hương lân thỉnh mặt đi.
Thớt có tanh tao ruồi đỗ bấy,
Ang không mật mỡ kiến bò chi!
Thế nay những trọng người nhiều của,
Lặng đến tay không ai kẻ vì?

Thơ cúa Nguyễn Bỉnh Khiêm
Thế tục

Lời bình: 

Thế tục là một bài thơ phê phán sự tham lam, bon chen của xã hội thế tục. Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ ra rằng trong cuộc sống hiện tại, con người thường bị cuốn vào các giá trị vật chất và danh lợi, làm mất đi những giá trị tinh thần cao quý. Thơ thể hiện sự châm biếm và phê phán đối với lối sống thế tục.

Thú nhàn

Lẩn thẩn ngày qua tháng qua,
Một phen xuân tới một phen già.
Ái ưu vằng vặc trăng in nước,
Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa.
Án sách hãy còn án sách cũ,
Nước non bạn với nước non nhà.

Lời bình: 

Thú nhàn là bài thơ ca ngợi thú vui của cuộc sống thanh nhàn và tự tại. Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện niềm vui từ những hoạt động giản dị và thú vị trong cuộc sống hàng ngày. Ông tìm thấy sự thoải mái và hạnh phúc trong những điều bình thường, nhấn mạnh giá trị của sự thư giãn và tận hưởng cuộc sống.

Tri giả

Bài mười ba dạy điều trí giả.
Bậc trí giả trọng mình hơn hết,
Bởi học nhiều hiểu biết càng sâu.
Chẳng cần đấu lý với nhau,
Chẳng cần đấu lực, đối đầu với ai.
Giữ danh dự trong ngoài kính nể,
Bảo vệ cho thân thể an toàn
Biết tự kiềm chế thì yên.
Không bị nhục cũng chẳng phiền đến thân.

Có những chuyện người trần khó biết,
Mà trời cao nghe thấy mọi điều.
Bảo rằng lỗi nhỏ chẳng sao,
Nhiều lỗi góp lại lớn lao khó lường.

Một mình chớ đi đường nguy hiểm,
Thuyền chở tham sinh chuyện đắm đò.
Chuyện người ta chớ tò mò,
Có trách thì trách lỗi to của người.
Thù oán cũ thì thôi quên tuột
Trước khoan hòa sau được điều hay.
Yêu đừng yêu quá đắm say.
Ghét đừng ghét đắng ghét cay sinh thù.

Có người chẳng được như ý muốn,
Nên bảo ban đại lượng thì hơn.
Trọng danh tiết như Thái sơn,
Người không thì chẳng giản đơn việc nào.
Giàu sang chẳng tự cao cậy thế,
Nghèo hèn không luồn lụy cúi đầu.
Kẻ vụng chẳng thấy việc đâu.
Người khéo thì việc bù đầu, luôn tay.
Bậc trí giả trước đây đúc kết
Ta nên tìm học biết mà theo
Luật ông Tiêu Hà dạy sáu điều
Lễ, ông Phu Tử cũng nêu ba phần.

Lời bình: 

Trong “ri giả,”Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về sự hiểu biết và tri thức. Ông đề cao những người có tri thức và sự thông thái, cho rằng tri thức là chìa khóa để sống một cuộc đời ý nghĩa và có giá trị. Bài thơ khuyến khích việc tìm kiếm và trân trọng sự hiểu biết.

Đại nghĩa

Bài thứ tư nêu câu Đại nghĩa
Dạy cho người ta biết để khuyên nhau.
Trung với nước đặt lên hàng đầu,
Đạo cha con được xếp vào đại luân.
Trai tài biết thương dân, thủ tiết,
Gái kiên trinh phải biết giữ mình.

Người tài nước được thơm danh,
Vợ giỏi như được ngọc lành trời cho.
Gái bất chính thì cho chẳng lấy,
Trai có tài mắc bẫy thì ngu.
Bất trung dễ mắc mưu thù,
Minh quân như mù mới lấy làm quan.
Con dân thường chăm ngoan học giỏi,
Cũng có ngày tiến tới làm quan,
Con quan chẳng chịu học hành,
Suốt đời cũng chỉ làm anh dân thường.
Làm quan chức, thấm ơn chế độ,
Có nuôi con, mới nhớ được công cha.
Muốn lòng ngay thẳng thật thà,
Rèn luyện ý trí phải là đầu tiên.

Lời bình: 

Đại nghĩa thể hiện quan điểm về nghĩa lớn và nghĩa nhỏ trong cuộc sống. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh rằng đại nghĩa, những giá trị cao cả và vĩ đại, nên được ưu tiên hơn là những lợi ích cá nhân nhỏ bé. Ông kêu gọi sự công bằng và chính trực trong hành động và suy nghĩ.

Hiếu hạnh

Đức hiếu hạnh là chương thứ nhất
Hãy suy xem sự thật ra sao
Trăm hay lấy hiếu làm đầu,
Vạn điều ác cũng khơi mào từ dâm
Dành sách cho con cháu là quý
Nhưng dễ đâu họ đã đọc cho.
Dành vàng cho họ đầy kho,
Chắc đâu họ đã giữ cho lâu bền.
Chi bằng tích đức liền liền,
Mới là cái kế lâu bền về sau
Hoạ hay phúc biết đâu là cửa
Do con người định cả đấy thôi.
Ngẫm xem quy luật đất trời,
Trồng đậu được đậu, dưa thời được dưa
Lưới trời rộng thưa, mà không lọt,
Không bao giờ bỏ sót chính tà.
Biết xấu thời tránh cho xa,
Biết lỗi sửa lỗi ấy là điều hay.

Trước khoan nhượng, sau dày quả phúc,
Trước mở mang, sau được phúc lành
Chớ chơi với kẻ bất minh
Của phi nghĩa chớ chiếm thành của ta.
Lòng chớ nghĩ gian tà, hiểm độc,
Chân đi không bước bậy, giẫm càn.
Nghe lời nói thẳng rõ ràng,
Thấy nơi chình nghĩa đường hoàng thì theo.

Người siêng năng thêm nhiều tuổi thọ,
Kẻ chơi bời đa số chết non.
Sự đời chậm chắc thì hơn,
Tình người thoang thoảng thì hơn quá nồng.
Sự sang giầu nếu không đáng hưởng,
Cố hưởng, rồi cũng chẳng ra sao.
Chưa già đã hưởng lộc cao,
Hẳn rằng sau cũng mau mau hết đời.

Kẻ mưu mô hại người người hại
Nuôi hận thù thì mãi không thôi
Người quân tử chẳng hoài hơi,
Chẳng cần lý sự tránh lời hơn thua.
Có bệnh, biết phòng ngừa bệnh tật,
Thì con người chắc hẳn sống lâu.
Có việc, biết bảo ban nhau,
Cửa nhà yên ấm, bền lâu tình người.

Lấy vợ đâu kén đẹp người.
Được người hiền đức thì đời mới vui.
Mối quan hệ với người thân quyến,
Dù xa gần năng đến thăm nhau,
Quan chức chẳng cứ thấp cao,
Thanh liêm, cần mẫn, dân nào chẳng yêu.

Tình bạn bè giúp nhau mới đẹp,
Chớ có vì nhau nhẹt thân chơi.
Ngọc là vật quý ở đời
Cháu con hiếu thảo sáng ngời là phong.

Lời bình: 

Trong Hiếu hạnh, Nguyễn Bỉnh Khiêm ca ngợi những phẩm hạnh về lòng hiếu thảo và đạo đức. Ông cho rằng hiếu hạnh là nền tảng của một cuộc sống đạo đức và được xã hội tôn trọng. Bài thơ thể hiện sự trân trọng đối với những giá trị gia đình và tình cảm con cái đối với cha mẹ.

Thành sự

Bài mười hai lo toan sự nghiệp
Muốn thành công phải biết lo xa.
Mưu sự là ở người ta,
Thành công tốt đẹp suy ra tại trời.
Có trường hợp ở nơi nguy bại,
Được trời phù nên lại thắng to.
Hoặc khi tai nạn gay go,
Gặp may lại được trời cho an toàn.

Có đức mà nghèo hèn cơ cực,
Hẳn là do nghiệp chướng từ lâu.
Bất lương mà được giầu sang,
Chắc là kiếp trước bắc cầu thiên duyên.

Nếu phận nghèo thì nên nghèo trước,
Chớ dã tâm, bạo ngược khởi đầu.
Biết mệnh là bởi hiểu sâu,
Sống yên vô sự khác nào thần tiên.

Muốn sống lâu phải rèn luyện tốt,
Từ lao động ăn uống thuốc men…
Giữ gìn chừng mực cho quen,
Một ngày vui khoẻ là tiên một ngày.

Không thuốc nào chữa bệnh khanh tướng thọ,
Có tiền đâu mua được con hiền.
Vợ ngoan chồng chẳng ưu phiền,
Có con hiếu thảo cha yên cõi lòng.

Bởi uống say, nói không tử tế,
Vì tiền tài, huynh đệ từ nhau.
Nên xuống ngựa lúc qua cầu,
Có đường bộ chớ rủ nhau đi thuyền.
Áo trắng thì bụi đen dễ dính,
Khó an toàn bởi tính kiêu căng.

Lòng người hiểm hơn núi rừng,
Hãy suy luận, để coi chừng đó nghe.

“Bọ ngựa bắt con ve tưởng bở
Sẻ lại rình bọ ngựa kề bên
Người săn tặng sẻ mũi tên
Hổ lang rình sẵn xông lên vồ người.

Hổ đắc ý lên rồi định biến,
Ngờ đâu sa xuống giếng mạng toi!
Mới hay mạnh yếu ở đời,
Nhãn tiền báo ứng rạch ròi phân minh.”

Lời bình: 

Thành sự phản ánh quan điểm của Nguyễn Bỉnh Khiêm về việc đạt được thành công trong cuộc sống. Ông cho rằng sự thành công không chỉ dựa vào tài năng và nỗ lực cá nhân mà còn phụ thuộc vào sự may mắn và sự phù hợp với hoàn cảnh. Bài thơ khuyến khích sự kiên trì và chấp nhận những thất bại như là một phần của quá trình thành công.

Đại đạo

Giữ đại đạo là bài thứ chín,
Lấy chữ “Trung” chữ “Tín” làm đầu.
Người quân tử đạo đức cao,
Không kiêu thái, giữ trước sau chan hòa.
Khi cần giúp người ta việc gấp,
Chẳng chọn ngày, đừng bấm ngón tay.
Người được ta cũng mừng thay,
Người đau, thông cảm đắng cay cho người.
Nói thao thao ngàn lời tươm tất,
Cũng không bằng việc thật đã làm.
Kiếm lời chê trách nhân gian,
Chính là chuốc lấy mối oan hại mình.
Ta giúp người chân tình độ lượng,
Là góp điều làm phước đáng tin.
Trăm nghe không bằng một nhìn,
Một việc thực tế hơn nghìn lời suông.

Việc trời đất cũng thường thay đổi,
Sáng gió mưa, chiều đã đẹp trời.
Giống như cuộc sống một con người
Sáng chiều, may rủi đầy vơi chuyển vần.
Có việc đối với ta như thế
Nhưng với người đâu rễ giống ta
Khi lời nói trái phát ra,
Tất nhiên cái họa cũng sà vào theo.

Của phi nghĩa đưa vào cửa trước,
Nó cũng tìm đường bước lối sau.
Đừng làm những chuyện không đâu
Chớ tham của lạ để sau bận lòng
Việc đừng quá lao tậm cật lực,
Nên đắn đo vừa sức thì làm,
Không lười biếng chẳng tham lam
Học điều Đại đạo – để làm thực tâm.

Lời bình: 

Trong Đại đạo, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cập đến con đường lớn của đạo đức và tri thức. Ông cho rằng việc theo đuổi đạo đức cao cả và trí thức là con đường đúng đắn để đạt được sự thành công và hạnh phúc lâu dài. Bài thơ thể hiện sự tin tưởng vào giá trị của những lý tưởng cao cả trong cuộc sống.

Chí thiện

Bài thứ năm: Tâm linh chí thiện
Mong tốt lành mọi chuyện công tư.
Rất vui là đọc thi thư,
Việc đời mệt nhất ấy là dậy con.
Cha nghiêm phụ răn con hiếu thảo,
Mẹ nhân từ dạy bảo gái ngoan.
Nhà lành hương toả chi lan,
Ở lâu chẳng thấy mùi thơm ngạt ngào.
Gần kẻ ác như vào chợ cá,
Buộc người ta quen cả mùi tanh.

Có nết tốt chẳng kiêu căng,
Đức dày thêm mãi tạo thành thói quen.
Giàu chớ kiêu chớ nên ích kỷ,
Sang cũng đừng xa sỉ, hợm đời.
Việc làm muốn tốt tuyệt vời,
Ba lần căn nhắc hẳn hoi mới làm.
Suy tính kỹ bao hàm hai ý:
Việc chung riêng thấu lý đạt tình.

Từ xưa vẫn sợ, vẫn kinh,
Lòng người nham hiểm nảy sinh khó lường
Kẻ tiểu nhân mưu đồ xảo quyệt,
Thích mưu đồ tiêu diệt người ngay.
Cho dù hiểm độc, quắt quay,
Không qua lẽ phải, chẳng xoay đạo trời.
Kẻ bất nhân nhất thời nổi tiếng,
Không người thì trời diệt chẳng tha
Tự nhiên được của đầy nhà,
Một là lộc lớn, hai là họa to
Có lúc bại, trời cho thắng cuộc,
Hoặc đang nghèo bỗng được giầu sang.
Thế gian yêu lắm ghét nhiều,
Khen nhiều chê lắm, bao điều bất an.
Mừng nhiều lo lắm chẳng oan,
Vinh nhiều nhục lắm, thế gian thường tình.

Đừng cậy thế mà sinh kiêu ngạo,
Chớ cậy quyền để tạo lợi riêng.
Làm một điều thiện cũng nên,
Trừ một việc ác quả nhiên rất cần.

Sinh sự thì bận tâm mệt sức,
Nên nhún nhường tạo Đức thì hơn.
Việc chuẩn bị kỹ hãy làm,
Việc không chuẩn bị chớ tham làm bừa.

Bao kinh nghiệm từ xưa đã thấy,
Sai một ly đi mấy dặm đường.
Quả quyết được việc lẽ thường,
Đắn đo hỏng việc, ấy gương ở đời.

Sắc chẳng mê người, chính người mê sắc,
Rượu chẳng say người, chỉ tại người say.
Đừng nên vui quá nói chầy,
Chớ vì sướng quá vung tay làm liều.
Quý chim phượng bởi yêu lông cánh,
Trọng người hiền ở cách nói năng.
Gặp khi hoạn nạn khó khăn,
Hành vi tế nhị, nói năng lựa lời.

Mười mắt rồng và mười tay trỏ
Thật công minh sáng tỏ sâu xa
Quả đào người quý tặng ta,
Ta lấy quả mận đem ra biếu người.
Cung nỏ lạ chớ cầm mà khốn,
Ngựa chẳng quen, chớ cưỡi mà ngã.
Qua ruộng dưa chớ sửa giầy,
Dưới gốc mận chớ giơ tay sửa đầu.

Coi chừng chốn cửa cao nhà rộng,
Đừng cậy rằng tông tộc mình to.
Họ to lắm chuyện tò mò,
Cửa cao thường giở những trò kiêu căng.

Người tốt, chơi nói năng chân thật,
Kẻ xấu, chơi như mật chết ruồi.
Người tốt bền chí thức thời,
Khó khăn thuận lợi vẫn nuôi chí bền.
Kẻ xấu thường van xin lúc khó,
Được việc rồi thì nó quên luôn.

Mới hay muôn sự vui buồn
Những điều chí thiện phải luôn ghi lòng.

Tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm
Chí Thiện

Lời bình: 

Chí thiện là bài thơ nói về sự thiện lương và tâm thiện của con người. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh rằng lòng thiện lương và tâm hồn trong sáng là yếu tố quan trọng để sống một cuộc đời có ý nghĩa và được xã hội yêu mến. Bài thơ khuyến khích việc rèn luyện và duy trì những phẩm hạnh tốt đẹp trong cuộc sống.

Cát nhân

Rèn người tốt là chương mười bẩy,
Sống nhân từ ai nấy mến thương.
Trời cho Phúc, Lộc, Thọ trường,
Sống vui thanh thản đời thường gặp may.

Cha dạy con từ khi còn nhỏ,
Chồng khuyên vợ từ khi mới về.
Không quá vui đến đam mê.
Bài bạc, nghiện hút, rượu chè, gian dâm.

Tình dục chớ tham lam buông thả,
Sức suy tàn rệu rã, ai thương.
Của quý chớ có phô trương,
Bạc vàng phải khóa trong dương trong hòm.

Buồng the chớ để ai nhòm
Của còn nguyên vẹn, tình còn dài lâu.

Lời bình: 

Trong Cát nhân, Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện quan điểm về sự phân biệt giữa những người có phẩm hạnh và những người không có. Ông cho rằng người có phẩm hạnh, dù không nổi bật, vẫn luôn có giá trị và được tôn trọng. Bài thơ ca ngợi những người sống đúng đắn và chân thành.

Thiện ác

Bài thứ sáu: Hai dòng Thiện–Ác
Là hai điều thật khác nhau xa
Trăm năm trong cõi người ta,
Dở, hay báo ứng, thật là công minh.
Báo ứng có khi nhanh, khi chậm,
Nhà tối, nghèo nào dám coi khinh.
Việc làm phúc nếu vô tình,
Như tuồng lánh nạn, đáng khinh khỏi bàn.
Kẻ bạo ngược mưu toan việc xấu,
Bịp được người sao giấu được trời
Vầng dương mọc lặn luân hồi,
Mặt trăng tròn khuyết, đầy rồi lại cong.
Tình người cũng tụ, xong lại tán,
Buồn lại vui, vui chán lại buồn.
Cỏ hoa sớm nở tối tàn,
Cây tùng cây bách muôn ngàn sức xuân.

Mỗi ngày xét bản thân ba lượt
Đêm nhiều người sẽ biết cho ta.
Số trời vốn sẵn định ra,
Giàu sang có mệnh, vinh hoa có ngày.
Hoa nở muộn do cây cằn cỗi,
Đời chưa vui, bởi nỗi khổ nghèo.
Giàu sang, khách đến thăm nhiều,
Nghèo hèn, thân thích ra chiều cách ly.

Lúc dư dật, phòng khi túng thiếu,
Khi sướng vui, phải liệu khi buồn.
Một nhà nề nếp cương thường,
Cha từ, con thảo, đẹp gương vợ chồng.
Tình anh em: thuận lòng nhân ái,
Nghĩa bạn bè qua lại giúp nhau.
Người con phòng lúc ốm đau.
Chứa thóc phòng đói là câu chí tình.
Giúp người gặp cảnh tình nguy cấp,
Hoặc cứu người trong lúc gian nguy.
Có mới đừng nới cũ đi,
Tiếng nói một nẻo, bụng suy một đằng.
Chớ có lành bắt vành ra méo,
Đừng làm cho bé xé ra to.
Một chút tà tất quanh co,
Người ta sẽ tỏ các trò quắt quay.
Lời không cánh mà bay khắp ngả,
Đạo đức cao thì gốc cả, rễ sâu.
Ngọc vết mài chẳng khó đâu,
Nói sai, biết sửa bao lâu mới lành.
Lời đã nói bay nhanh hơn gió,
Bốn ngựa phi cũng khó đuổi theo.
Khinh người là thói tự kiêu,
Người ta khinh lại, đời nào chịu thua.
Tự khen mình mà chê người hỏng,
Thì người ta có trọng gì mình.
Hãy suy Thiện–Ác, Nhục–Vinh
Ở sao có nghĩa có tình thì hơn.
Việc gia thất muốn yên mọi sự
Mỗi người nên biết xử phận mình
Đừng mưu lấy của bất minh
Chớ ghen ghét với người mình còn thua.
Vợ người ta chớ đùa cợt nhả,
Đừng gièm pha quấy phá hôn nhân.
Một năm có một mùa xuân,
Mỗi ngày chỉ một giờ dần đầu tiên.

Cháy nhà có nước liền dễ chữa,
Láng giềng cần giúp đỡ lẫn nhau.
Tình đời lắm chuyện thương đau,
Anh em để mẩt lòng nhau thật buồn.
Người xưa bảo: thói quen thường vẫn vậy,
Đàn bà thì khó dạy khó chiều.
Quân tử phép chẳng cần theo,
Tiểu nhân chẳng chấp những điều lễ nghi.

Thấy ai có vật gì quý giá,
Chớ lân la tán gạ, nài xin.
Công việc nào quá khó khăn,
Đừng buộc người khác phải lăn vào làm.
Muốn trách người, phải xem mình trước.
Nếu tha mình, tha được người ta.
Đứa bất chính, kẻ gian tà,
Kết thân với chúng dễ mà tàn thân.
Không minh bạch miếng ăn lời nói,
Là nguyên nhân cái tội hại mình.
Lúc trẻ lao động nhiệt tình,
Khi già cuộc sống gia đình thảnh thơi.
Trẻ mà lêu lổng chơi bời,
Về già chắc hẳn cuộc đời gian truân.

Của cho con đâu cần vàng ngọc
Mà cho con được học được hành.
Cho muôn khoảnh ruộng tốt xanh,
Chẳng bằng cho chúng nghề lành trong tay.
Mộng làm giầu thường hay thất đức,
Làm điều nhân khó được giầu sang.
Thuốc hay khó chữa bệnh oan,
Của nhặt được khó mở mang giầu bền.

Bất nghĩa mà trở nên phú quý,
Như mây bay bọt khí nổi trôi.
Phúc do trong sạch lòng người,
Đức từ kiên nhẫn sống đời yêu thương.
Tham lam lắm tất vương tai hoạ,
Sống bất nhân tội chả thoát đâu.
Tiểu nhân chẳng giúp ai đâu,
Bởi trong lòng họ, như đầu mũi kim.
Chỉ gai góc rắp tìm mưu kế,
Cốt hại người để mong lợi mình.
Người quân tử có bất bình,
Liệu mà xa lánh, kẻo sinh hận thù.
Tình người khác chi tờ giấy trắng,
Như cuộc cờ vốn chẳng giống nhau.
Khéo mà ứng xử với nhau,
Đừng làm ai đó phải chau đôi mày,
Chớ mạt sát day tay mắm miệng,
Để người ta phải nghiến hàm răng.
Ngựa gầy nên kém chạy hăng,
Người không hồ hởi phải chăng vì nghèo.

Sẵn tiền, rượu thì nhiều bạn đấy,
Lúc lâm nguy nào thấy một ai.
Luật trời báo ứng chẳng sai,
Không trước mắt, cung lâu dài chứng minh.

Lời bình: 

Thiện ác là bài thơ phân tích sự khác biệt giữa thiện và ác trong cuộc sống. Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ ra rằng những hành động thiện là nền tảng của cuộc sống tốt đẹp, trong khi hành động ác sẽ dẫn đến những kết quả tiêu cực. Bài thơ khuyến khích việc theo đuổi sự thiện và tránh xa những hành động ác.

An Phận

Giữ yên phận là bài thứ tám
Đừng để người đụng chạm đến ta
Biết lo tính, biết phòng xa,
Khoan dung ngay thẳng hẳn là sống lâu.

Nước chân chính, lòng trời cũng thuận,
Quan thanh liêm dân hẳn yên lòng
Vợ hiền là phúc nhà chồng,
Các con hiếu thảo thì lòng cha yên.

Dẫu có tài giỏi chớ nên khoe khoác,
Nhiễu sự sao bằng được an nhàn.
Bốn mùa ấm lạnh xuềnh xoàng,
Nói năng thận trọng rõ ràng được yên.
Của dễ được tất nhiên dễ mất,
Được vất vả thì mất khó khăn.
Làm thong thả việc chắc ăn
Việc đời muôn sự khó khăn ban đầu.
Người xưa nói những câu triết lý:
Vào núi bắt hổ dễ như chơi,
Còn khi mở miệng dạy người,
Khó khăn nhiều lắm, liệu lời đắn đo.
Quân tử cần ăn no uống đủ,
Không cầu kỳ cốt giữ bình yên.
Trò tìm thầy học dễ tìm,
Thầy tìm trò tựa mò kim đáy hồ.

Việc chia chác chẳng lo ít ỏi,
Chỉ đáng lo cái tội không đều.
Không lo hoàn cảnh túng nghèo,
Chỉ lo xã hội nhiều điều bất công.
Quá nham hiểm bởi lòng tham lắm.
Quá nhẫn tâm lòng hẳn quá tàn.

Lời bình: 

An Phận thể hiện triết lý sống an phận và chấp nhận hoàn cảnh hiện tại. Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng việc sống an phận, chấp nhận và hài lòng với những gì mình có là một cách sống hạnh phúc và bình yên. Bài thơ khuyến khích sự tự tại và sự yên bình trong tâm hồn.

Bài mở đầu

Lượng Đức Thánh rộng như biển cả,
Truyền dậy cho thiên hạ điều hay.
Làm điều thiện hưởng phúc dầy,
Bất nhân thất đức có ngày tiêu vong.
Mềm dẻo tốt hơn cương cường,
Lưỡi mềm còn mãi, răng thường gẫy đi.
Chớ cậy ta dài mà chê người ngắn,
Đừng dối lòng đừng oán đất trời.
Lặng im mà ngẫm sự đời,
Tình người thoang thoảng, vơi vơi thì bền.

Đừng quên bạn nghèo hèn xưa cũ,
Vợ cháo rau xin chớ phụ tình.
Vật ngon, ăn quá bệnh sinh,
Vui chơi quá mức, ắt thành tai ương.

Giàu sang lắm nhiều đường bổng lộc,
Cây tái trồng hẳn gốc bị thương.
Buổi sáng còn cuốc ruộng nương
Biết đâu chiều đã công đường có khi.
Làm tướng đâu phải vì dòng dõi,
Thân nam nhi trí phải tự cường.

Lời bình: 

Bài mở đầu là tác phẩm giới thiệu các quan điểm của Nguyễn Bỉnh Khiêm về cuộc sống và triết lý của ông. Bài thơ mở ra các chủ đề quan trọng mà ông sẽ thảo luận trong các tác phẩm khác, phản ánh tinh thần và tầm nhìn của ông về các vấn đề xã hội và triết lý nhân sinh.

Giới điêu toa

Một mình ăn mặc hết bao,
Gây làm chi bấy hỡi điêu?
Kiếm chước dệt thêu: không hoá có,
Tìm điều đặt bỏ: ít nên nhiều.
Phải chăng rối lý khôn bề đoán,
Kiện cáo xui người đến nỗi xiêu.
Phép nước ví dù còn lánh được,
Tội trời khôn thể trốn đâu nào.

Lời bình: 

Giới điêu toa  đề cập đến các quan điểm và tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này cung cấp cái nhìn tổng quát về các chủ đề mà tác giả quan tâm và suy nghĩ, thể hiện sự khái quát và tổng hợp tri thức của ông.

Thế gian biến đổi

Thế gian biến cải vũng nên đồi,
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi.
Còn bạc, còn vàng, còn đệ tử,
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
Xưa nay đều trọng người chân thật,
Ai nấy nào ưa kẻ đãi buôi.
Ở thế mới hay người bạc ác,
Giàu thì tìm đến, khó thì lui.

Lời bình: 

Trong Thế gian biến đổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh sự thay đổi không ngừng của thế giới và cuộc sống. Ông cho rằng sự biến đổi là bản chất của cuộc sống và khuyến khích việc thích ứng với những thay đổi đó. Bài thơ thể hiện sự chấp nhận và linh hoạt trong đối diện với những biến động của cuộc đời.

An phận thì hơn

Giàu ba bữa khó hai niêu,
An phận thời hơn hết mọi điều.
Khát uống trà mai hơi ngột ngột,
Sốt kề hiên trúc gió hiu hiu.
Giang sơn tám bức là tranh vẽ,
Hoa cỏ tư mùa ấy gấm thêu.
Thong thả hôm rằm sớm thức,
Muôn vàn đã đội đức trời Nghiêu.

Lời bình: 

An phận thì hơn là bài thơ khuyến khích việc sống hài lòng với hoàn cảnh hiện tại và chấp nhận số phận. Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng việc sống an phận và không cố gắng thay đổi mọi thứ sẽ giúp con người sống hạnh phúc và thanh thản hơn. Bài thơ phản ánh triết lý về sự chấp nhận và yên bình.

Chức phận làm con

Phận làm con phải thông đạo hiếu,
Phận làm dân phải hiểu chữ trung.
Trên ra lệnh, dưới phục tùng,
Cha làm việc tốt, con cùng làm theo.

Của cải nhiều dùng lâu cũng hết,
Chữ hiếu trung hưởng mãi vô cùng.
Bàn mưu tư lợi thì đừng,
Bàn điều chân chính, nên cùng tham gia.

Làm tốt chớ ba hoa kể lể,
Hoa sớm nở, thì hoa dễ sớm tàn.
Cẩn thận đáng giá ngàn vàng,
Phải suy nghĩ kỹ hãy làm mới hay.

Người tốt hay xắn tay làm phúc,
Giúp ai không lợi dụng người ta.
Người biết lỗi, sửa thì tha,
Trị người có tội, chớ mà quá nghiêm.

Dạy điều thiện, đừng nên tham quá,
Để người học có khả năng theo
Khoan hòa sẽ được tin yêu,
Siêng năng cần mẫn ắt nhiều thành công.

Nói thận trọng thì không sợ lỗi,
Làm thận trọng đỡ hối về sau.
Thế lực dù mạnh đến đâu,
Nếu đem dùng hết, ắt sau hại mình.

Hoặc cậy thế tạo thành phúc lộc,
Hẳn rằng sau cũng chẳng ra gì.
Cứ đường chính đạo mà đi,
Hiếu, Trung, Nhân, Nghĩa nghĩ suy mà làm.

Lời bình: 

Chức phận làm con là một bài thơ thể hiện quan điểm của Nguyễn Bỉnh Khiêm về vai trò và trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ. Ông nhấn mạnh sự hiếu thảo và nghĩa vụ của con cái, cho rằng đó là nền tảng của đạo đức và sự tôn trọng trong gia đình. Bài thơ ca ngợi phẩm hạnh và trách nhiệm của con cái đối với gia đình.

Giới bất võng địa cầu

Phúc địa chi cho kẻ cưỡng cầu,
Được chăng run rủi bởi cơ mầu.
Ở lành chẳng rắp hay nên gặp,
Nẻo dữ tuy tìm lại phải âu.
Quý Nộ phân kim ai khéo bấy,
Cao Biền ưa thuỷ phép sai đâu.
Ngẫm xem dám […] nữa,
Phúc địa chi cho kẻ cưỡng cầu.

Lời bình: 

Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện quan điểm về việc giới hạn của con người trong thế giới rộng lớn thông qua bài thơ. Ông chỉ ra rằng mặc dù con người có những khát vọng lớn lao, nhưng cũng cần nhận thức và chấp nhận sự hạn chế và thực tế của cuộc sống. Bài thơ khuyến khích sự khiêm tốn và thực tế trong đối diện với thế giới.

Các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nếu còn thắc mắc Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác giả của bài thơ nào thì dưới đây là tuyển tập những tác phẩm thơ được viết bằng chữ Hán của ông:

Lan

Cửu uyển xuân nùng tiên thái độ,
Mãn đình xạ tập khách y thường.
Vị báo chủ nhân cần trưởng tránh,
Ư thanh phong hậu hữu huyền sương.

Tạm dịch:

Chín luống hoa, trời xuân đượm phong độ cõi tiên,
Đầy sân hương thơm quyện áo quần khách đến thăm.
Báo giùm chủ nhân chú ý tự ngăn ngừa,
Vì sau gió xuân sẽ có sương đông.

Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Lan

Lời bình: 

Lan là bài thơ thể hiện sự ngưỡng mộ và tình yêu của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với loài lan. Với vẻ đẹp thanh nhã và mùi hương quyến rũ, loài lan trở thành hình ảnh tượng trưng cho sự thanh cao và tinh khiết trong thơ của ông. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của hoa lan mà còn phản ánh tâm trạng của tác giả về sự thanh tịnh và sự tôn trọng đối với thiên nhiên.

Cảm hứng

Thái hoà vũ trụ bất Ngu Chu,
Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu,
Uyên ngư tùng tước vị thuỳ khu.
Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã,
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu,
Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.

Lời bình: 

Trong Cảm hứng, Nguyễn Bỉnh Khiêm chia sẻ nguồn cảm hứng của mình trong việc sáng tác và cuộc sống. Bài thơ thể hiện sự kết nối sâu sắc giữa cảm xúc cá nhân và nguồn cảm hứng từ thiên nhiên, cuộc sống hàng ngày và triết lý nhân sinh. Tác giả khuyến khích việc tìm kiếm cảm hứng từ những điều giản dị xung quanh và sự hòa quyện giữa cảm xúc và tri thức.

Đông cúc

Nhất chủng diên niên quán lý tài,
Vãn hương độc hướng tuyết trung khai.
Mạc tiếu tranh phương thời thái vãn,
Tiên xuân khẳng nhượng nhất chi mai.

Tạm dịch:

Một giống lâu năm giồng ở trong quán,
Hương muộn chỉ hướng vào tuyết mới nở.
Chớ cười lúc giành tiếng thơm quá muộn,
Trước mùa xuân bằng lòng nhường một cành mai.

Lời bình: 

Đông cúc là bài thơ miêu tả vẻ đẹp của hoa cúc nở vào mùa đông. Trong bài thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng hình ảnh hoa cúc để thể hiện sức sống mãnh liệt và khả năng chịu đựng khó khăn của nó trong thời tiết khắc nghiệt. Bài thơ không chỉ là một lời ca ngợi vẻ đẹp của hoa mà còn phản ánh ý chí kiên cường và lòng dũng cảm.

Hạ cảnh

Nhật trường Tân quán tiểu song minh,
Phong nạp hà hương viễn ích thanh.
Vô hạn ngâm tình thuỳ hội đắc,
Tịch dương lâu thượng vãn thiền thanh.

Tạm dịch:

Ngày dài ở quán Trung Tân cửa sổ nhỏ sáng sủa,
Gió đượm hương sen, càng xa càng mát.
Tình thơ vô hạn, ai là người hiểu được,
Chiều tà, trên lầu, tiếng ve muộn màng vang lên.

Lời bình: 

Hạ cảnh là bài thơ về cảnh sắc mùa hè, với sự miêu tả sinh động về vẻ đẹp của mùa hè trong thiên nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện sự tươi mới, sôi động của mùa hè qua hình ảnh hoa trái, ánh sáng và hoạt động của con người. Bài thơ mang lại cảm giác vui tươi và sự hòa hợp với thiên nhiên trong mùa hè.

Khuê tình

Ngâm lạc Tây phong trận trận xuy,
Thâm khuê nhi nữ độc miên thì.
Hốt văn hàn khí xâm liêm mạc,
Thuỷ giác nhân tình hữu biệt ly.
Khứ mộng bất từ sa tái viễn,
U hoài hoạt động cổ bề ti.
Vô đoan điểm trích giai tiền vũ,
Tự hữu u nhân ngữ dạ trì..

Tạm dịch:

Tiếng ngâm buông xuống theo gió Tây thổi từng trận,
Ở chốn thâm khuê khi người thiếu phụ ngủ một mình.
Bỗng nghe hơi lạnh thấm vào rèm màn,
Mới biết tình người có nỗi biệt ly.
Mơ mộng ra đi, chẳng nề nơi quan ải sa trường diệu vợi,
U uất trong lòng dấy lên tiếng trống ở ngoài trận.
Bỗng đâu tí tách giọt mưa ở trước thềm,
Như có người mang niềm u uất thủ thỉ trong đêm dài.

Lời bình: 

Trong Khuê tình, Nguyễn Bỉnh Khiêm khám phá tình yêu và tâm trạng của người con gái trong cung cấm. Bài thơ diễn tả tình cảm và tâm tư của nhân vật nữ, thể hiện sự lãng mạn và cảm xúc sâu sắc. Bài thơ không chỉ phản ánh tình yêu mà còn cung cấp cái nhìn về cuộc sống và tình cảm của những người trong xã hội cổ đại.

Ngụ ý

Danh toại công thành hưu hĩ hưu,
Đẳng nhàn thế cố nhất hư châu.
Phong lai giang quán lương nghi hạ,
Nguyệt đáo thư lâu minh chính thu.
Hồng nhật đông thăng tri đại hải,
Bạch vân tây vọng thị thần châu.
Khê sơn diệc túc cung ngô lạc,
Nhẫn phụ tiền minh vạn lý âu.

Tạm dịch:

Như thế cũng gọi là công toại danh thành rồi đấy, thôi thế cũng nên thôi,
Việc đời phó mặc cho con thuyền vơi vơi nọ lênh đênh muốn đến đâu thì đến mà ta tìm lại cái thú vui của ta.
Khi cơn gió mát thổi vào cái quán chỗ ta ngồi bên sông nọ, là mùa hạ,
Lúc bóng trăng soi vào cái lầu chỗ ta ngồi xem sách kia, ấy chính mùa thu.
Ta trông thấy vầng hồng mọc lên ở đàng đông thì ta biết đó là nơi đại hải,
Ta trông thấy mây trắng phủ ngất ở đàng tây thì ta biết đó là chỗ thần chầu.
Ấy cái thú nước non như thế cũng đủ cho ta vui,
Vậy đàn bồ nông ngoài bể khơi muôn dặm mà trước ta đã thề cùng với chúng kết làm bạn “vong cơ”, thì nay ta nỡ lòng nào mà phũ phàng với thề xưa cho đặng.

Lời bình: 

Ngụ ý là bài thơ thể hiện sự tinh tế và sâu sắc trong việc truyền đạt ý tưởng và thông điệp. Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng hình ảnh và biểu tượng để gián tiếp diễn đạt những suy nghĩ và quan điểm của mình. Bài thơ khuyến khích việc tìm hiểu ý nghĩa ẩn sau những lời nói và hành động, đồng thời thể hiện trí tuệ và sự khôn ngoan của tác giả.

Phục quái

Hạ nhất dương vi thượng ngũ âm,
Ư sơ động xứ tế suy tầm.
Tĩnh quan vạn cổ sinh sinh ý,
Ứng kiến vô cùng thiên địa tâm.

Tạm dịch:

Một hào dương ít ỏi ở dưới, năm hào âm ở trên,
Từ lúc bắt đầu vận động hãy tìm hiểu kỹ càng.
Chú ý quan sát sinh ý mọi vật từ trước đến nay,
Sẽ thấy cái tâm vô cùng của trời đất.

Lời bình: 

Trong Phục quái, Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt câu hỏi về những điều kỳ quái và bất thường trong cuộc sống. Bài thơ thể hiện sự tò mò và sự tìm kiếm ý nghĩa trong những hiện tượng lạ lùng hoặc không giải thích được. Tác giả sử dụng ngôn từ sắc sảo để thể hiện sự phân tích và khám phá của mình về thế giới xung quanh.

Nhân thôn

Tổng tổng lâm lâm sinh chí phồn,
Sở cư xứ xứ hữu hương thôn.
Hào hoa hấp nhĩ tỉ lân hội,
Nhân hậu y nhiên mỹ tục tồn.
Tác tức tư đào Nghiêu nhật nguyệt,
Âu ca cộng lạc Thuấn kiền khôn.
Thái bình tể tướng ư tư hiển,
Quan cái tinh xu diệu lý môn.

Tạm dịch:

Nườm nượp sum suê sinh sản ra rất đông đúc,
Nơi nơi có người ở là có xóm làng.
Hào hoa tập hợp, xóm giềng kề bên nhau,
Nhân hậu vẫn thế, phong tục tốt đẹp còn nguyên.
Làm và nghỉ cùng thoải mái trong ngày tháng đời Nghiêu,
Hò và hát cùng vui vẻ trong trời đất đời Thuấn.
Quan tể tướng đời thái bình mở mày mở mặt ở đó.
Mũ lọng đi nhanh như sao, rực sáng cổng làng

Lời bình: 

Nhân thôn là bài thơ mô tả cuộc sống và sinh hoạt của người dân trong một ngôi làng. Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng hình ảnh và mô tả chi tiết để phản ánh cuộc sống bình dị, gắn bó và hòa hợp của cộng đồng làng quê. Bài thơ thể hiện lòng yêu quý đối với cuộc sống nông thôn và sự quý trọng những giá trị giản dị.

Thu thanh

Tiêu điều thu dạ trích hàn canh,
Ngọc luật hồi âm ám thổ thanh.
Đãn giác thụ gian minh tích tích,
Hốt kinh nguyệt hạ hưởng tranh tranh.
Sơ văn thú phụ sầu vô mị,
Tự xúc hàn tương nhạ bất bình.
Nghĩ tác Dĩnh Xuyên Âu Tử phú,
Khủng hoảng mô phỏng bị thời khinh.

Tạm dịch:

Đêm thu tiêu điều, giọt nước nhỏ điểm canh lạnh lùng,
Ống ngọc luật đồng vọng, âm thầm mà phát ra thành tiếng.
Chỉ nghe thấy trong cây tiếng kêu sột soạt,
Bỗng giật mình dưới trăng tiếng vang lanh canh.
Mới nghe, người vợ lính thú buồn rầu không ngủ,
Như xui con dế gợi nỗi bất bình.
Toan làm bài phú như Âu Tử đất Dĩnh Xuyên,
E rằng lại chỉ làm việc bắt chước bị người đời khinh bỉ.

Lời bình: 

Trong Thu thanh, Nguyễn Bỉnh Khiêm miêu tả cảnh sắc mùa thu và âm thanh của thiên nhiên trong mùa này. Bài thơ thể hiện sự yên bình và tĩnh lặng của mùa thu, với sự chú ý đến các chi tiết nhỏ nhặt như tiếng lá rơi và không khí mát mẻ. Tác giả mang lại cảm giác thư thái và bình yên qua hình ảnh mùa thu.

Cư ngạo đới sơn

Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh,
Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh.
Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực,
Trước cước trào vô quyển địa thanh.
Vạn lý Đông minh quy bả ác,
Ức niên Nam cực điện long bình.
Ngã kim dục triển phù nguy lực,
Vãn khước quan hà cựu đế thành.

Tạm dịch:

Nước biếc ngấm núi tiên trong đến đáy,
Như con ngao lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra.
Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời,
Đặt chân xuống, sóng không có tiếng cuốn đất.
Vạn dặm biển Đông quơ vào tay nắm,
Ức năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình.
Ta nay muốn thi thố sức phò nguy,
Cứu vãn lại quan hà, thành cũ của nhà vua.

Lời bình: 

Cư ngạo đới sơn thể hiện sự kiêu hãnh và tự hào của tác giả khi sống giữa thiên nhiên hùng vĩ. Nguyễn Bỉnh Khiêm mô tả sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên, thể hiện sự tự tại và lòng ngưỡng mộ đối với vẻ đẹp của núi non. Bài thơ thể hiện tinh thần tự do và sự tự mãn trong cuộc sống.

Du phổ minh tự

Loạn hậu trùng tầm đáo Phổ Minh,
Viên hoa dã thảo cựu nham quynh.
Bi văn bác lạc hoà yên bích,
Phật nhãn thê lương chiếu dạ thanh.
Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại,
Hương nhân do thuyết địa anh linh.
Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại?
Thức đắc vô hình thắng hữu hình.

Tạm dịch:

Sau khi loạn lạc lại tìm đến chùa Phổ Minh,
Vẫn hoa vườn cỏ nội với cửa đá cũ.
Văn bia mờ nhạt hoà trong làn khói biếc,
Mắt Phật lạnh lùng soi thấu đêm thanh.
Pháp giới phải ngang với tầm rộng lớn của trời,
Người làng vẫn nói đến sự anh linh của đất.
Vắng vẻ lặng lẽ, vạc xưa nay còn đâu?
Thế mới biết vô hình vẫn thắng hữu hình.

Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Du phổ minh tự

Lời bình: 

Trong Du phổ minh tự, Nguyễn Bỉnh Khiêm thảo luận về những chuyến du hành và những gì ông quan sát được từ các chuyến đi. Bài thơ thể hiện sự tò mò và khát vọng khám phá thế giới, đồng thời cung cấp cái nhìn về những trải nghiệm và suy ngẫm của tác giả từ các cuộc phiêu lưu.

Lưu đề Đoan quốc công

Tằng kí hưng triều thị đệ huynh,
Ngẫu lai tương phỏng tự giao tình.
Ân cần báo đạo vô tha ngữ,
Tự cổ thành công giới mãn doanh.

Tạm dịch:

Từng ghi nhớ là anh em cùng khuông phù triều đại,
Chợt đến thăm nhau bày tỏ tình thâm giao.
Ân cần nhắc nhở nhau không có câu nào khác,
Là xưa nay khi thành công cần ngăn ngừa sự tự mãn.

Lời bình: 

Lưu đề Đoan quốc công là bài thơ lưu niệm về một nhân vật lịch sử quan trọng, Đoan quốc công. Nguyễn Bỉnh Khiêm tôn vinh và ghi nhớ những đóng góp và công lao của Đoan quốc công, thể hiện sự kính trọng và lòng biết ơn đối với những người đã đóng góp cho sự phát triển của đất nước.

Dữ cao xá hữu nhân biệt hậu

Tương phùng loạn hậu lão tương thôi,
Khiển quyển ly tình tửu sổ bôi.
Dạ tĩnh Vân Am thuỳ thị bạn,
Nhất song minh nguyệt chiếu hàn mai.

Tạm dịch:

Sau lúc loạn ly gặp nhau thì đều đã già
Cùng nhau uống vài chén rượu để thắt chặt mối tình ly biệt
Đêm thanh vắng ở Am Mây biết lấy ai làm bạn
Chỉ vầng trăng sáng ngoài cửa sổ rọi bóng vào gốc mai lạnh

Lời bình: 

Dữ cao xá hữu nhân biệt hậu là bài thơ thể hiện sự chia tay và những cảm xúc liên quan đến việc xa rời nơi cũ để đến nơi mới. Nguyễn Bỉnh Khiêm miêu tả cảm xúc của mình khi rời khỏi một nơi quen thuộc và đi đến một địa điểm mới, thể hiện sự tiếc nuối và cảm giác chia tay.

Đào hoa phàm nhị thủ kỳ

Tiên chủng thuỳ tương quán lý tài,
Hảo xuân nhất độ hảo hoa khai.
Tuyết khê khê bạn ngư chu khách,
Nhất phiến tàn hồng nhạ đắc lai.

Tạm dịch:

Giống tiên ai đem đến trồng ở trong quán,
Một độ xuân tươi là một lần hoa thắm nở.
Ông khách thuyền chài bên dòng suối tuyết,
Thường đưa về mấy mảnh hoa tàn.

Lời bình: 

Trong Đào hoa phàm nhị thủ kỳ, Nguyễn Bỉnh Khiêm miêu tả vẻ đẹp của hoa đào và sự thay đổi của nó theo thời gian. Bài thơ thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp của hoa đào và sự nhạy cảm của tác giả đối với sự thay đổi và sự biến hóa của thiên nhiên.

Loạn hậu quy cố viên vịnh mai

Vạn tử thiên hồng đô thị xuân,
Đẳng nhàn khai tạ tổng phân phân.
Tuyết trung bất cải kiên trinh tháo,
Duy hữu hàn mai bạn chủ nhân.

Tạm dịch:

Muôn tía nghìn hồng đều là xuân cả,
Hãy xem: nở rồi tàn, rối bời bời.
Trong tuyết lạnh, không đổi tiết tháo, kiên trinh,
Chỉ có mai gầy là bạn với chủ nhân.

Lời bình: 

Loạn hậu quy cố viên vịnh mai là bài thơ phản ánh sự trở về của tác giả sau thời kỳ hỗn loạn. Nguyễn Bỉnh Khiêm mô tả sự trở lại của mình đến một nơi yên bình và quen thuộc, đồng thời cảm nhận sự thay đổi và tĩnh lặng sau những biến động. Bài thơ thể hiện sự trở về với cội nguồn và cảm giác an bình.

Lời kết

Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm tính giáo huấn và triết lý. Từng câu chữ như chất chứa nỗi lòng của một nhà Nho yêu nước, nhạy cảm với thời thế.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *