40+ Bài thơ Nguyễn Đình Chiểu trước và sau khi Pháp xâm lược

Thơ Nguyễn Đình Chiểu bình dị nhưng giàu sức gợi cảm và cực thu hút người đọc. Trong suốt sự nghiệp sáng tác, ông đã mang đến nhiều tuyệt tác khiến trái tim những người yêu thơ phải rung động, chẳng hạn như tập truyện thơ Lục Vân Tiên và Dương Từ Hà Mậu. Cùng Thepoetmagazine tìm hiểu các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu ngay sau đây.

Thơ Nguyễn Đình Chiểu giai đoạn đầu

Thơ Nguyễn Đình Chiểu trong những năm 50 của thế kỷ 19 xoay quanh tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Lục Vân Tiên và Dương Từ Hà Mậu là hai tuyệt tác truyện thơ xuất sắc phải kể đến ở giai đoạn này.

Để rõ hơn về phong cách thơ Nguyễn Đình Chiểu, mời bạn theo dõi chi tiết các tác phẩm sau:

1/ Hồi 01: Vân Tiên tạ thầy xin về đi thi

1. Trước đèn xem truyện Tây minh,
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le.
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Có người ở quận Đông Thanh,
Tu nhân tích đức, sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên,
Tuổi vừa hai tám, nghề chuyên học hành.

11. Theo thầy nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao.
Văn đà khởi phụng đằng giao
Võ thêm ba lược, sáu thao ai bì.
Xảy nghe mở hội khoa thi,
Vân Tiên vào tạ tôn sư xin về:
“Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
“Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần.
“Nay đà gặp hội phong vân,
“Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.

21. “Chí lăm bắn nhạn ven mây,
“Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa.
“Làm trai trong cõi người ta,
“Trước lo báo bổ sau là hiển vang.”
Tôn sư bàn luận tai nàn,
Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa.
Mây trời chẳng dám nói ra,
Xui thầy thương tớ xót xa trong lòng.
Sau dầu tỏ nỗi đục trong,
Phải toan một phép để phòng hộ thân.

31. “Rày con xuống chốn phong trần,
“Thầy cho hai đạo phù thần đem theo.
“Chẳng may mà gặp lúc nghèo,
“Xuống sông cũng vững, lên đèo cũng an.”
Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi:
“Chẳng hay mình mắc việc chi,
“Tôn sư người dạy khoa kỳ còn xa?
“Hay là bối rối việc nhà?
“Hay là đức bạc hay là tài sơ?

41. “Bấy lâu lòng những ước mơ,
“Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao?”
Nên hư chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.
Đặng cho rő nỗi sự tình,
Ngỏ sau ngàn dặm đăng trình mới an.
Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
Hỏi rằng: “Vạn lý trường đồ,
“Sao chưa cất gánh trở vô việc gì?

51. “Hay là con hãy hồ nghi,
“Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa?”
Vân Tiên nghe nói liền thưa:
“Tiểu sinh chưa biết nắng mưa buổi nào?
“Song đường tuổi hạc đã cao,
“Xin thầy nói lại âm hao con tường.”
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng,
Nhân cơ tàng sự dặn rằng:
“Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.

61. “Tuy là soi khắp mọi nơi,
“Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy.
“Sao con chẳng rõ lẽ nầy,
“Lựa là con phải hỏi thầy làm chi?
“Số con hai chữ khoa kỳ,
“Khôi tinh đã rạng, Tử vi thêm loà.
“Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
“Thỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tan.
“Bao giờ cho tới bắc phang,
“Gặp chuột ra đồng, con mới nên danh.

71. “Sau dầu Đặng chữ hiển vinh,
“Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai.
“Trong cơn bỉ cực thái lai,
“Giữ gìn cho vẹn việc ai chớ sờn.”
Vân Tiên vội vã tạ ơn,
Trăm năm dốc giữ keo sơn một lời.

Lời bình: 

Hồi này mở đầu câu chuyện Lục Vân Tiên, giới thiệu về nhân vật chính Vân Tiên, một người đầy lòng hiếu học, đạo đức và dũng cảm. Sau khi hoàn thành việc học, Vân Tiên xin phép thầy trở về nhà để dự thi, mong muốn thành công và đền đáp công ơn gia đình.

Qua việc này, Nguyễn Đình Chiểu khắc họa một hình mẫu thanh niên lý tưởng, không chỉ học tập vì danh lợi cá nhân mà còn vì lòng hiếu thảo và trách nhiệm với gia đình và xã hội. Nếu bạn thắc mắc Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của bài thơ nào thì chắc chắn không thể bỏ qua tập truyện thơ Lục Vân Tiên.

Thơ Nguyễn Đình Chiểu
Lục Vân Tiên là một trong những tập truyện thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Đình Chiểu

2/ Hồi 02: Vân Tiên lên đường gặp lũ sơn đài

Ra đi vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.
Tiên rằng: “Thiên các nhất phương,
“Thầy đeo đoạn thảm, tơ vương mối sầu.

81. “Quản bao thân trẻ dãi dầu,
“Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên.
“Bao giờ cá nước gặp duyên,
“Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay.
Kể từ lướt dặm tới nay,
Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương.
Đoái nhìn phong cảnh thêm thương,
Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa.
Chi bằng kiếm chốn lân gia,
Trước là tìm bạn sau là nghỉ chân.

91. Việc chi than khóc tưng bừng,
Đều đem nhau chạy vào rừng lên non.
Tiên rằng: “Bớ chú cõng con!
“Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?”
Dân rằng: “Tiểu tử là ai?
“Hay là một đảng sơn đài theo tao?”
Tiên rằng: “Cớ sự làm sao,
“Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời.”
Dân nghe tiếng nói khoan thai,
Kêu nhau đứng lại bày lời phân qua:

101. “Nhân rày có đảng lâu la,
“Tên rằng Đỗ Dự, hiệu là Phong Lai.
“Nhóm nhau ở chốn sơn đài,
“Người đều sợ nó có tài khôn đương.
“Bây giờ xuống cướp thôn hương,
“Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
“Xóm làng chẳng dám nói chi,
“Cám thương hai gã nữ nhi mắc nàn!
“Con ai vóc ngọc mình vàng,
“Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng.

111. “E khi mắc đảng hành hung,
“Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu.
“Thôi thôi chẳng dám nói lâu,
“Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình”
Vân Tiên nổi giận lôi đình,
Hỏi thăm: “Lũ nó còn đình nơi nao?
“Tôi xin ra sức anh hào,
“Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.”
Dân rằng: “Lũ nó còn đây,
“Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành.

121 “E khi hoạ hổ bất thành,
“Khi không mình lại xô mình vào hang.”
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy, tìm đàng chạy vô.
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ!
“Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
“Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.
“Trước gây việc dữ tại mầy,
“Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng.”

131. Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương giang.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng lập tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.

Lời bình: 

Trên hành trình trở về nhà, Vân Tiên gặp phải lũ sơn đài hung ác. Hồi này thể hiện lòng dũng cảm và sự quyết đoán của Vân Tiên khi một mình chống lại kẻ xấu để bảo vệ bản thân và những người vô tội.

Nguyễn Đình Chiểu qua đó muốn gửi gắm thông điệp về sự đối đầu giữa cái thiện và cái ác, với niềm tin rằng lòng dũng cảm và sự chính nghĩa sẽ luôn chiến thắng.

3/ Hồi 03: Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này?”
Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay,
“Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.

141. “Trong xe chật hẹp khôn phô,
“Cúi đầu trăm lạy, cứu cô tôi cùng.”
Vân Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la.
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
“Nàng là phận gái, ta là phận trai.
“Tiểu thư con gái nhà ai,
“Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ.
“Chẳng hay tên họ là chi?
“Khuê môn phận gái việc gì đến đây?

151. “Trước sau chưa hãn dạ nầy,
“Hai nàng ai tớ, ai thầy nói ra?”
Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga,
“Con này tỳ tất tên là Kim Liên.
“Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
“Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
“Sai quân đem bức thư về,
“Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
“Làm con đâu dám cãi cha,
“Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành!

161. “Chẳng qua là sự bất bình,
“Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
“Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
“Trước xe quân tử tạm ngồi,
“Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa:
“Chút tôi liễu yếu đào thơ,
“Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
“Hà Khê qua đó cũng gần,
“Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.

171. “Gặp đây đương lúc giữa đàng,
“Của tiền không có, bạc vàng cũng không.
“Ngẫm câu báo đức thù công,
“Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.”
Vân Tiên nghe nói liền cười:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
“Này đà rõ đặng nguồn cơn,
“Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
“Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

181. “Đó mà biết chữ thuỷ chung,
“Lựa là đây phải theo cùng làm chi.”
Nguyệt Nga biết ý chẳng đi,
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,
“Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?”
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha:
“Đông Thành vốn thiệt quê ta,
“Họ là Lục thị, tên là Vân Tiên.”

191. Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên,
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,
“Xin đưa một vật để cầm làm tin.
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết na:
“Vật chi một chút gọi là,
“Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
“Của này là của vất vơ,
“Lòng chê cũng phải, mặt ngơ sao đành!”

201 Vân Tiên khó nổi làm thinh,
Chữ ơn buộc lại chữ tình lây dây.
Than rằng: “Đó khéo trêu đây,
“Ơn kia đã mấy, của nầy rất sang.
“Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
“Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai.
“Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
“Nào ai chịu lấy của ai làm gì.”
Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,
“Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.

211. “Ai dè những đấng anh hùng,
“Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm.”
Riêng than: “Trâm hỡi là trâm!
“Vô duyên chi mấy ai cầm mà mơ?
“Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
“Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ.”
Vân Tiên ngó lại rằng: “Ừ,
“Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu.”
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền tả tám câu năm vần.

221. “Thơ rồi này thiếp xin dâng,
“Ngửa trông lượng rộng văn nhân thể nào?”
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào,
Ai dè sức gái tài cao bực nầy.
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ, cũng tày Từ phi.
Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ,
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai lại thua ai,
Vân Tiên hoạ lại một bài trao ra.

231 Xem thơ biết ý gần xa,
Mai hoà vận điểu, điểu hoà vận mai.
Có câu xúc cảnh hứng hoài,
Đường xa vọi vọi, dặm dài vơi vơi.
Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau ta đã cạn lời thời thôi.

Lời bình: 

Đây là một trong những đoạn nổi tiếng nhất của Lục Vân Tiên, khi Vân Tiên tình cờ gặp và cứu Kiều Nguyệt Nga khỏi tay bọn cướp. Tình tiết này không chỉ thể hiện lòng dũng cảm mà còn tôn vinh tình người, Vân Tiên sẵn sàng ra tay giúp đỡ người khác mà không màng đến việc đòi hỏi ân huệ. Kiều Nguyệt Nga, với lòng cảm kích, thề suốt đời nhớ ơn Vân Tiên.

Hồi này là biểu tượng cho lòng hiệp nghĩa và đức hy sinh.

4/ Hồi 01 – Dương Từ Hà Mậu

1. Trải xem mấy truyện chư gia,
Chuyên vì đạo học, soạn ra để đời.
Dị đoan xưa đã bời bời,
Lại thêm đạo Phật, đạo trời, lăng nhăng,
Thói đời nhiều việc băng xăng,
Đố ai biết đặng đạo hằng người ta.
Đua nhau kỉnh chuộng đạo tà,
Một câu “quả báo”, muôn nhà đều tin.
5. Nói rằng: Trời, Phật, sách in,
Tội về địa ngục, phước lên thiên đàng.
Có người về đạo Hoà Lan,
Năm đời truyền thói khoe khoang cầu hồn.
Họ Hà, tên Mậu, người khôn,
Ở đời Hậu Tấn, Long môn quê nhà.
Sáu mươi tuổi tác hầu già,
Tuy là giàu có, trong nhà không con.
Rạng giồi một tấm lòng son,
Của tiền bố thí, không còn so đo.
10. Vợ chồng giữ đạo bo bo,
Ơn trời ngỏ đặng chút cho phước lành.
Hôm mai luống những đọc kinh,
Amen! đức Chúa có linh chăng là.
Liễu Thơ là vợ họ Hà,
Chiêm bao nằm thấy nguyệt sa trên mình.
Tự nhiên có nghén thình lình,
Khiến ngươi Hà Mậu thấy tình sanh nghi.
Nói rằng: Khí huyết già suy,
Hay đâu chửa nghén, e khi bịnh gì?
15. Sai người tìm rước danh y,
Anh em đồng đạo, tên Kỳ họ Châu.
Châu Kỳ coi mạch hồi lâu,
Nói rằng: Chị mắc quỷ đầu thai đây.
Mậu rằng: Nhờ lượng ơn thầy,
Mạch kia đã hẳn, thuốc nầy ắt hay.
Kỳ rằng: Để hốt thang này,
Quỷ thai bịnh ấy từ đây trừ rồi.

Thuốc thang mấy tháng uống bồi,
Càng thêm lớn bụng, gần hồi sanh thai.
20. Họ Hà thấy vậy than dài:
Tuổi già còn hãy mang tai thế nầy?
Kỳ rằng: Đó chẳng biết đây,
Trải ba đời cũng làm thầy vừa ba.
Châu Phan xưa thật chú ta,
Trị thai có phép truyền gia rất mầu.
Liễu nương quỷ bịnh đã lâu,
Xin cầu thầy khác, ngõ hầu thay tay.
Ta nghe đồn phía Sơn tây,
Rằng non Tùng lãnh có thầy địa tiên.
25. Tên người là Lý Tri Niên,
Thường ngày luyện thuốc thần tiên Đan kỳ.
Ta xin ra sức đem đi,
Tới nơi cầu thuốc diệu y rõ ràng.
Mậu rằng: Ta đạo Hoà Lan,
Tiên là đạo khác, có màng chi nhau.
Kỳ rằng: Sách đặt có câu:
“Tế sanh hoạt mạng” sách đầu đạo y.
Làm thầy đâu có hẹp suy,
Bịnh đau thời cứu, đạo gì tại sao?
30. Ai ai cũng vốn đồng bào,
Sanh trong trời đất lẽ nào ghét nhau?
Họ Hà thấy vậy cũng sầu,
Gượng đi cùng bạn, lên cầu thầy tiên.
Trải qua mấy dặm sơn xuyên,
Phút đâu lố thấy gần miền Tùng san.
Đường đi đá mọc nghinh ngang,
Bụi cây rậm rạp, thạch bàn nhiều nơi.
Ngó lên trên đỉnh rạng ngời,
Mặt nhìn cảnh vật khác nơi phàm trần.
35. Mây bay, nước chảy, mấy từng,
Bóng tùng che núi, như vừng lọng xây.
Chim kêu, vượn hú, vang dầy,
Hiu hiu gió thổi, lá cây reo mừng.
Hai người đứng lại trông chừng,
Thấy tên đồng tử trong rừng bước ra.
Chào rằng: Hai gã đường xa,
Ai là tên Mậu, họ Hà, nói minh?
Họ Hà nghe nói thất kinh,
Ràng: Sao sớm biết tánh danh ta rày?
40. Đồng rằng: Có khách ngày nay đến nhà.
Ta vâng lời dạy thầy ta,
Ra đây đón rước, đem qua Thạch bàn.
Hôm nay là bữa thanh nhàn,
Thầy ta lên chốn Thạch bàn chầu tiên.
Hai người nghe nói đi liền,
Theo ngươi đồng tử vào miền Tùng san.
Ngó lên đỉnh núi Thạch bàn,
Thấy hai ông lão dựa ngang đánh cờ.
45. Tóc râu đều bạc phơ phơ,
Hình dung, cốt cách nhởn nhơ ai bì.
Có hai quyển sách chi chi,
Cùng hai chim hạc tương tuỳ một bên.
Tri Niên Hầu, đứng trên nền,
Thấy hai người khách dạo lên Ngọc hồ.
Hỏi rằng hai gã Gia Tô,
Đến đây lòng muốn hỏi, phô, việc gì?
Họ Hà đặt gối liền quì,
Thưa rằng: Cầu thuốc cứu nguy bịnh nhà.

50. Tri Niên chẳng kịp nói ra,
Hai ông trên đỉnh liền xoa cuộc cờ.
Cười rằng: Hà Mậu rất khờ.
Khéo nghe thầy tục tầm phơ nói quàng!
Liễu nương nghén đủ mười trăng,
Song sanh hai gái, Tuyết, Băng, trên đời.
Vinh hoa có số ở trời,
Số ngươi sau cũng đổi dời mới nên.
Mấy lời ta nói chớ quên,
Đừng mong sau thác đặng lên Thiên đàng.
55. Ông cha trước đã lầm đàng,
Thời sau con cháu tính toan lẽ gì?
Nói rồi cỡi hạc bay đi,
Họ Hà chưa hỏi việc chi đành rành.
Hai người là khách hữu tình,
Tri Niên mời lại gia đình cùng nhau.
Mậu rằng: Cầu thuốc vợ đau,
Tiên ông lại nói việc sau cũng kỳ!
Chẳng hay người học phép chi,
Cho nên mà biết thạnh suy việc người?
60. Niên rằng chẳng dấu chi ngươi,
Hai ông lão ấy thật người thiên công.
Phép hay biến hoá, thần thông,
Một ông Bắc đẩu, một ông Nam Tào.
Hai ông giữ sổ Thiên tào,
Mạng dân sanh tử đều vào trong tay.
Hai người về kíp ngày nay,
Tới nhà mới thấy lời hai ông truyền.
Họ Hà nghe nói về liền,
Tới nhà thấy vợ đến miền khai hoa,
65. Đẻ ra hai gái nõn nà,
Mùi hương thơm ngát, trong nhà đều kinh.
Mậu rằng: Tiên đạo chí linh,
Thinh không mà biết sự tình khắp nơi.
Kỳ rằng: Ta học đạo trời,
Xưa nay linh nghiệm có lời phương nao?
Muốn cho rõ việc âm hao,
Ngày sau ta phải trở vào Tùng san.

Thứ nầy đến thứ họ Dương,
Làm người chút biết văn chương gọi là.
70. Nam Khang vốn thật quê nhà,
Sánh cùng họ Đỗ, ở Trà Thạch khê.
Nương theo dân dã thú quê,
Lập vườn, làm ruộng, chuyên nghề làm ăn.
Họ Dương cùng vợ nguyện rằng:
Trăm năm xin giữ đạo hằng cùng nhau.
Đã năm mươi mấy tuổi đầu,
Không con nối nghiệp, nhữ sầu thon von.
Bao nhiêu chùa miễu cung son,
Ngõ nguyền cầu đặng chút con nối đời,
75. Liền ngày vái Phật, vái Trời,
Tấm lòng tin, cúng khắp nơi miễu chùa.
Của nhà có việc bán mua,
Ra ơn làm phước, hơn thua chẳng nài.
Phút đâu họ Đỗ thọ thai,
Tới kỳ sanh đặng hai trai một lần.
Phước đà liền nối gót lân,
Phận mình: giàu có, thanh bần, cũng ưng.
Người trong làng xóm đều mừng,
Ai hay lão bạng, có chừng sanh châu.
80. Nhớ “câu thiện ác đáo đầu”
Làm lành gặp phước, thế đâu có lầm.
Dương Từ lòng hỡi mừng thầm,
Hai trai tướng mạo khác tầm thường nhân.
Vẻ vang cốt cách tinh thần,
So trong trẻ nhỏ phàm dân ít bằng,
Họ Dương mới đặt tên rằng:
Dương Trân, Dương Bửu, hai thằng anh em.
Hai con đều đẹp mắt xem,
Việc trong gia đạo lại thêm bần hàn.
85. Dương từ khi ấy liệu toan,
Xuất gia đầu Phật, giữ an phận mình.
Đã đành một tấm lòng thành,
Còn con nối nghiệp, mới đành qui y.
Nay đà sinh đặng nam nhi,
Nam mô hai chữ “từ bi” thân già.
Bao nhiêu thế tục gần xa,
Nhân tình ấm lạnh, trải qua đã rồi.
Trong vòng danh lợi…thôi thôi!
Hoàng lương nửa gối, mấy hồi chiêm bao.
90. Sang giàu lòng chẳng ước ao,
Hoa tàn, mây nổi, nước xao, trăng lờ.
Hai con tuổi hãy còn thơ,
Hôm, mai, ấm, lạnh, cậy nhờ hiền thê.
Trong tay một chuỗi bồ đề,
Trăm năm xin cổi lời thề nước non.
Trả rồi nợ vợ nợ con,
Từ đây giữ vẹn lòng son tu hành.
Nói thôi quày quả đăng trình,
Nhắm nơi am tự một mình ra đi.
95. Thương thay hai gã hài nhi,
Cùng nàng Đỗ thị sầu bi muôn phần.
Than rằng: Chàng hỡi! Lương nhân!
Am vân đường cách cõi trần xa xa.
Hai con tuổi mới lên ba,
Có cha giống đứa không cha cũng kỳ!
Bao đành bỏ vợ con đi?
Cửa nhà bần bạc, cậy gì ngày sau?
May nhờ tấc cỏ ngọn rau,
Mẹ con lần lựa nuôi nhau tháng ngày.
100. Dương từ ở chốn am mây,
Cải tên, đặt hiệu: danh thầy Thiện trai.
Dốc lòng tầm dấu Như Lai,
Đã đành trốn cõi trần ai, không về.
Thị, phi, mặc thế khen chê,
Tương rau cũng đã an bề đi tu.
Sớm hôm chuông mõ, công phu,
Tụng kinh niệm kệ ở Phù Đồ Sa.

Bây giờ đến lúc họ Hà,
Vợ là Liễu thị đẻ ra con lành.
105. Quả nhiên hai gái song sanh,
Tiên ông có dạy đành rằng chẳng ngoa,
Nay đà giáp tháng bồng ra,
Mời anh em đến nhóm, mà đặt tên.
Bà con nội ngoại hai bên,
Một ông trưởng tộc: ngồi trên, dạy rằng:
Hài nhi gương mặt như trăng,
Đặt tên Xuân tuyết, Thu Băng, cho lành.
Họ Hà nghe nói giật mình,
Nhớ lời tiên dạy sự tình khăng khăng:
110. Bảo rằng: Nghén đủ mười trăng,
Song sanh hai gái tuyết, băng, trên đời.
Tiên ông nói chẳng sai lời,
Lại rằng: Thói tục đổi dời, lẽ chi?
Xui nên tấc dạ hồ nghi,
Gẫm trong mình lại muốn đi non Tùng.
Hỏi cho biết lẽ cát hung,
Trăm năm đặng rõ thuỷ chung việc mình.
Xảy vừa tối buổi du minh,
Châu Kỳ, bạn cũ, có tình viếng thăm.
115. Hỏi rằng: Hai trẻ giáp năm,
Gẫm lời tiên dạy có nhằm cùng chăng?
Mậu rằng: Xuân Tuyết, Thu Băng,
Tiên dạy hai chữ, khăng khăng nhớ lời.
Kỳ rằng: Ta trọn ba đời,
Trong nhà thờ đức Chúa Trời lâu nay.
Mấy đường hoạ, phước, rủi, may,
May nhờ, rủi chịu, thấy bày chi đâu.
Mậu rằng: Ta cũng thêm sầu,
Ông cha thưở trước tha cầu vụng toan.
120. Sách ghi chữ đạo là đàng,
Đàng đi nào phải một phang hẹp hòi.
Người đời há dễ không coi,
Đàng nào đi dễ, mà noi cho nhằm.
Ví dầu lỡ bước lỗi lầm,
Một đời cũng biết, huống năm ba đời?
Kỳ rằng: Đàng ở dưới trời,
Có nơi chánh bộ có nơi tha kỳ.
Đã đành hai chữ “tiền phi”,
Chẳng đi đàng chánh, lại đi đàng tà.
125. Phải đời con cháu vinh hoa,
Ai còn dám nói ông cha lầm đàng.
Muốn cho rõ máy hành tàng,
Phải tìm dấu trước, hỏi han sự tình.
Thị phi chẳng những việc mình,
Việc mình còn hãy bất bình nhiều nơi.
Bao nhiêu đạo ở dưới trời,
Thảy đều xưng thánh, khoe lời rằng hay.
Ví dầu một lũ chim bay,
Con nào trống mái, mấy tay biết rành.
130. Đạo ta dầu có hiển linh,
Trải xưa nay cũng một mình Gia Tô.
Đạo Tiên, đạo Phật, đạo Nho,
Cớ sao chẳng mộ, bo bo đạo trời,
Trời đâu nỡ để các nơi chê đành?
Cây cao biết mấy mươi ngành,
Còn noi một gốc, huống sanh làm người.
Mậu rằng: Tiên đạo tốt tươi,
Phen này ta nguyện theo ngươi đi tìm.
135. Làm người há chẳng bằng chim,
Chim còn biết chọn cây êm gởi mình.
Vén mây mới thấy trời xanh,
Tìm đàng phải dọn ngọn ngành gai chông.
Kỳ rằng ta muốn thẳng xông,
E đi rồi lại thẹn thùng nước non.
Học y đã mấy năm tròn,
Quỷ thai một bịnh, mạch còn nói sai.
Tiên ông mấy nắm tay ai?
Thinh không mà biết song thai mới kỳ
140. Trách chi mang tiếng tục y,
Khoe tài coi mạch, thật khi người đời,
Ta đi thời mắc Tiên cười,
Chi bằng ở lại khỏi người chê khen.
Anh nên tìm Lý tri Niên,
Theo người ắt đặng gặp Tiên non Bồng.
Sau dầu rõ nỗi đục trong,
Đó sao đây vậy, một lòng mà thôi.
Dặn rồi vội vã chơn lui,
Nhắm chừng tử lý về xuôi một bề.
145. Họ Hà trở lại hương quê,
Đay cơm, bầu nước, đề huề ra đi.
Đi vừa gặp lúc xuân kỳ,
Đoái nhìn cảnh vật một khi vui lòng.
Hữu tình thay ngọn gió đông,
Cành mai nở nhuỵ, lá tùng reo vang.
Cỏ thơm hớn hở bên đàng,
Như tuồng mừng khách Đông hoàng đến đây.
Líu lo chim nói trên cây,
Như tuồng chào hỏi khách này về đâu?
150. Hai bên cây mọc giao đầu,
Như tuồng đón rước, giàn hầu người sang.
Dưới khe nước chảy tợ đàn,
Như tuồng mừng bạn hương quan tách vời.
Trăm hoa đua nở, miệng cười,
Như tuồng mừng rỡ gặp người cố tri.
Mảng xem phong cảnh dị kỳ
Hay đâu lỡ bước, lại đi lầm đàng.
Xa xem hình dạng khác thường,
Cỡi lừa chầm chậm bỗng dường ngâm thơ.
155. Họ Hà dừng buớc đứng chờ,
Lắng nghe người ấy lời thơ ngâm rằng:

Thơ rằng:
Tam Hoàng, Ngũ Đế, dấu vừa qua,
Mối đạo, trời trao đức thánh ta.
Hai chữ “tín, thành” an các nước,
Một câu “trung hiếu” dựng muôn nhà,
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà.
Căm bấy! Loài ngu theo thói mọi!
Trời gần chẳng kính, kính trời xa.

Họ Hà nghe tiếng ngâm rồi,
Trong dạ bồi hồi, bước tới hỏi thăm.
Vó lừa đi tới xăm xăm,
May đâu lại nhằm ông Lý tri Niên.
Mậu rằng: Tôi thật hữu duyên,
Tìm tiên, mà lại gặp tiên giữa đàng,
Niên rằng: Chẳng ở nhân gian,
Việc chi lên chốn thâm san một mình?
160. Độc trùng, ác thú, không kinh,
Đàng chim, dấu thỏ, lộ trình xiết bao!
Mậu rằng: Xưa nhớ lời trao,
Phải lên nói lại âm hao cho tường.
Xin thầy chỉ vẽ mọi đàng,
Đem tôi lên chốn Thạch bàn ngày xưa.
Niên rằng: Trong cõi mây mưa,
Khôn mời Bắc Đẩu, khó thưa Nam Tào,
Hai ông vốn thật vì sao,
Người con mắt tục thấy sao đặng hoài?
165. Gần đây có núi Thiên thai,
Có chùa Linh diệu, có đài Âm dương
Trong chùa lại có hai hang,
Một đàng Bích lạc, một đàng Diêm la.
Có ông tiên trưởng, Thầy ta,
Hiệu là Tứ Thất, tên là lão Nhan.
Thường ngày luyện thuốc kim đan,
Một mình gồm đủ ba ngàn xuân thu.
Đảng nhàn một cõi thanh u,
Nay chơi sông thánh, mai du non thần.
170. Phép hay: trời đất thâu gần,
Sai đồng, đánh thiếp, có phần linh thông,
Theo ta lên đó thời xong,
Hỏi điều căn số, rõ trong sự tình.
Bao nhiêu những việc tiền trình.
Lòng tiên, một tấm, gương minh soi rồi.
Họ Hà nghe nói lòng vui,
Mang gói lần hồi, lên núi Thiên thai.

Họ Hà chuyện vãn còn dài,
Để nối đầu bài, nói chuyện họ Dương.
175. Từ chàng cách biệt gia hương,
Đã ba năm trường, ở chốn am mây.
Hôm mai chuông mõ vang dầy,
Chúng tăng đều gọi có thầy Thiện Trai.
Bao nhiêu thế tục gác ngoài,
Một xâu chuỗi hột mang vai, gìn lòng.
Qui hương ba thứ đã xong,
Mười lời giới cấm, cũng không phạm gì.
Ban sơ làm phận tu trì,
Năm nay lên chức thái sư một chùa.
180. Vô ra trong cõi Phù đồ,
Thấy người tài, sắc: nam mô Di Đà!
Ngày ngày kinh kệ ngâm nga,
Lăng Nghiêm, Viên Giác, cùng là Kim Cang
Phút lòng buồn bực chẳng an,
Dạo chơi ra chốn tam quan một hồi.
Am vân cảnh vắng nào vui,
Coi bao nhiêu lại ngậm ngùi bấy nhiêu.
Vội vàng trở lại hậu liêu,
Bạch cùng Hoà thượng xin điều vân du.
185. Hoà thượng cũng người học nhu,
Tên là Trần kỷ, ở Phù đồ sa.
Lắm phen ứng cử, đăng khoa,
Thi văn chẳng đỗ, lòn ra cửa thiền.
Giận đời nhiều việc đảo điên,
Làm thi khuyến thế, ngày liền ngâm chơi.

Thơ rằng:
Người xưa cầm đuốc dạo đêm chơi,
Nào có cưu chi cái việc đời,
Phụng Thuấn, lân Nghiêu, tuồng trước nát,
Hươu Tần, rắn Hán, thói sau dời.
Thánh hiền để dấu vài pho sách,
Tạo hoá theo mình mấy tấc hơi?
Trong cuộc phù sanh ai cũng thế,
Dầu hay, dầu dở, chẳng qua trời.

Họ Dương sắm sửa hành trang,
Lạy thày Hoà thượng, lên đàng vân du.
Kìa non, nọ nước, mặc dầu,
Non nhân nước trí, nhiệm mầu thảnh thơi.
190. Người sanh ra ở trong trời,
Xưa qua, nay lại, nghĩ đời: “luận sau”.
Trong vòng danh lợi như nhau,
Hết vinh, đến nhục, sang giàu chi ai?
Có câu “xuân bất tái lai”,
Bóng già theo gót, biết nài chi đây.
Đã đành thiền trượng một cây,
Giới đao một lưỡi, từ rày thế gian.
Xưa nay trong cuộc gian nan.
Vật đều có chủ, ai toan chia giành?
195. Kìa kìa gió mát trăng thanh,
Tai nghe, mắt thấy, mới đành của ta.
Nguồn đào, cụm liễu, trải qua,
Tin xuân đưa: bướm, ong, hoa, dầy dầy.

Đi vừa xa chốn am mây,
Tới nơi Hà lãnh trời tây hầu chiều.
Ven gành một nhắm hắt hiu,
Tiếng ngư trong núi, bóng chiều ngoài khơi.
Bên non hầu khuất mặt trời,
Dương Từ thơ thẩn tìm nơi gởi mình.
200. May đâu gặp một tiểu sanh,
Cho trâu uống nước dưới gành Hà tây.
Ngồi cầm ống quyển trong tay,
Thổi rồi lại hát, hát hay lại cười.
Dương Từ bước tới xem chơi,
Gẫm ba câu hát, thật lời thạch kim.

Hát rằng:
Buổi trời Nghiêu, bóng chiều ngao ngán,
Ngày tối rồi chờ sáng cũng lâu.
Tiếng chim oanh đổ canh mái bắc,
Ai đi đồng kéo tắt trời tây.
Cõi nhân gian nhiều đàng lầm lỗi,
Gặp trời chiều, khó nỗi đi xa.

Hát rồi lại thổi ống chơi,
Gẫm trong thú vị, thảng thơi hơn thiền.
Dương Từ bước tới hỏi liền:
Ba câu hát ấy, ai truyền cho ngươi?
205. Tiểu sanh nghe hỏi nực cười,
Đáp rằng: Vốn thật có người dạy ta.
Gần đây vài dặm chẳng xa,
Có thầy đạo sĩ tu đà nhiều năm,
Lập am ở chốn tây lâm,
Tháng ngày thong thả, đờn cầm, ca thi.
Thuốc thang, phù chú, ai bì,
Người đau tới đó, bịnh chi cũng lành.

Dương Từ nghe nói đành rành,
Xăm xăm bước tới đầu gành Tây lâm.
210. Đến nơi trời đã tối dầm,
Đứng xa ngoài cửa, nghe ngâm thi rằng:

Thi rằng:
Biết ân phụ tử, nghĩa quân thần,
Nhờ có Trời sanh đức Thánh nhân.
Nét mực tu kinh ngăn đứa loạn,
Dấu xe hành đạo rạch trong trần.
Trăm đời còn cám lời than phụng,
Muôn thuở đều thương tiếng khóc lân.
Phải đặng bút Châu biên sách Hán,
Mọi nào dám tới cạo đầu dân!

Thơ rồi lại khảy đàn cầm,
Như tuồng mừng bạn tri âm tới nhà,
Tử Kỳ xưa gặp Bá nha,
Ngón đờn “lưu thuỷ” nay mà còn đây.
Dương Từ gõ cửa kêu thầy,
Rằng: Ta lỡ tối, xin thầy độ ta.
Đạo nhân nghe gọi bước ra,
Chào rằng: Thiền khách đâu mà đến đây?
215. Lều tranh, giường đá, chiếu mây,
Khô nai, cơm bắp, rượu chay, tạm dùng!
Từ rằng: Lời dám hỏi ông:
Ở trong am tự sao không Phật thờ?
Sĩ rằng: Lòng chẳng ước mơ,
Bởi vì chữ Phật sánh vừa chữ nhân,
Đường qua tây vực chẳng gần,
Cõi di, cõi hạ trời phân rõ ràng.
Ta từng coi sách nhà Đàng (Đường),
Thấy lời “Phật biểu” họ Hàn biết tin.
220. Phật nhân, sống cũng chẳng nhìn,
Huống chi hình vẽ, tượng in thờ gì?
Từ rằng: Phật vốn từ bi!…
Sĩ rằng: nào có ích gì dân phong.
Thấy câu ngôn ngữ bất thông
Dầu cho linh nghiệm cũng dòng Man Di
Từ rằng: Thầy học đạo chi?
Sĩ rằng: Thiên hạ thiếu gì đàng xưa.
Lẽ đời như chiếc thuyền đưa,
Mặc ai đi sớm về trưa, chẳng màng!
225. Kìa là họ Lão, họ Trang,
Họ Dương, họ Mặc, họ Hàn, họ Thân.
Các nhà xưa cũng cổ nhân,
Khai đường mở ngõ, trong trần nhiều nơi.
Có nghe các họ đua bơi,
Không nghe họ Phật ở đời trung nguyên.
Từ rằng: Biết đạo nào chuyên?
Sĩ rằng: Xưa có sách hiền soạn câu:
Một bầu trời đất như châu
Mặt người kim cổ, chèo đâu thì chèo.
230. Từ rằng khó biết phương theo,
Sĩ rằng: Lựa phải xuống đèo, lên non.
Vua tôi, chồng vợ, cha con,
Anh em, bầu bạn, vuông tròn mới xong.
Chẳng tin, coi một ngày ròng:
Đi đâu cho khỏi đạo trong cương thường?
Ta xưa cũng khách thơ đường,
Mày xanh có chí hiển dương trên đời,
Ghét đời thúc quí đua bơi,
Sợ trời nên phải tìm nơi ẩn mình,
235. Vốn không học thói Lan đình,
Xúm nhau thầm thĩ phẩm bình cổ câm.
Cũng không học thói Trúc lâm,
Rủ nhau uống rượu hôn trầm ngày đêm.
Gió, trăng, bầu bạn anh em,
Sớm nghe tiếng dế, tối xem bóng thiềm.
Mộ riêng một cảnh thanh điềm,
Sẵn hoa dưới hố, sẵn chim trên cành.
Hươu, nai, khỉ, dộc đua tranh,
Vật trong trời đất mặc tình xem chơi.
240. An, nguy có phận ở trời,
Người đời đừng mắc nhơ đời thì thôi.
Dương Từ nghe nói rẽ ròi,
Một đêm chẳng ngủ, luống ngồi lo âu.
Nghĩ rằng mình đã đi tu,
Hẵng như lời ấy: công phu lỡ làng!
Cương thường để mặt ai toan,
Đạo ta giữ vẹn, nào can phạm gì?
Xảy vừa trời sáng, hầu đi,
Hỏi rằng: Huý tự, tên gì dạy tôi?
245. Sĩ rằng: Trọn đạo thời thôi,
Người đời lựa phải trau dồi tánh danh?
Trời cao đất rộng, thinh thinh,
Non xanh, nước biếc, đã đành phui phai.
Hỏi thời ta phải nói ra:
Ba ngàn thế giới, ta là vô danh.
Từ rằng: Đâu thật có danh?
Sĩ rằng: Linh diệu đã đành chùa tiên.
Dương Từ vội vã đi liền,
Ngồi lâu lại sợ cửa thiền mắc chê.
250. Trải qua mấy dặm lâm, khê,
Hiu hiu gió thổi, phê phê nhành tùng.
Đào hoa, liễu yếu, song song,
Một vầng mây bạc bóng lồng phau tuôn.
Giận đời đại sĩ dể duồng Phật gia.
Đi vừa đến suối Kim ba,
Thấy một ông già xuống tắm mà chơi.
Tắm rồi mát mẻ thảnh thơi,
Hát một vài lời, nghe rất êm tai.

Hát rằng:
Tắm nước trong, rửa lòng đã sạch,
Cám thương người làm khách trần ai!
Gió xuân qua, mình ta đã mát,
Cám thương người phiêu lạc tha hương!
Gẫm rừng nhu, công phu ngơ ngáo,
Tuổi già rồi, thế đạo còn xa!

Lời bình: 

Dương Từ Hà Mậu là một tác phẩm triết lý đạo đức sâu sắc. Hồi 01 của tác phẩm giới thiệu về nhân vật Dương Từ, một người thông minh, tài giỏi nhưng dễ bị lôi kéo vào những cám dỗ tội lỗi.

Qua nhân vật này, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện sự phản ánh về con đường đời đầy rẫy những thử thách, nơi con người phải biết phân biệt đúng sai để tránh lạc lối.

Thơ của Nguyễn Đình Chiểu
Một hồi trong Dương Từ Hà Mậu

5/ Hồi 02 – Dương Từ Hà Mậu

255. Hát rồi tay chống gậy lê,
Vai mang bầu rượu, lần về cõi tây.
Dương Từ đứng dưới bóng cây,
Hỏi rằng: Lão trượng làm thầy chi chăng?
Lão rằng theo thói làm ăn,
Người con mắt tục, ai rằng thầy ai?
Từ rằng: Tán, kiệu, mão, đai,
Ngôi cao, quyền trọng, đố ai không thầy?
Lão rằng: Ta ở chốn nầy,
Sáu mươi mấy tuổi, biết thầy nào đâu.
260. Thánh xưa, trước mặt khôn cầu!
May còn người đạo ở đầu Tây lâm.
Dương Từ nghe chữ “Tây lâm”.
Hỏi rằng: Phải kẻ đờn cầm, ca thi?
Chẳng hay người ấy tên chi?
Chẳng phen Sào Phủ, cũng bì Hứa Do.
Lão rằng: Khắp chốn giang hồ,
Ai ai chẳng biết Huyền Hồ tiên sinh?
Thấy ngươi ta cũng bất bình:
Cớ sao cạo tóc, làm hình thầy tu?
265. Từ rằng cám Phật ân sâu,
Không con mà lại cho cầu đặng con.
Lão rằng: Cầu Phật đặng con,
Xưa ngươi Bá Đạo sao còn lo sau?
Cầu con mà phải cạo đầu,
Xưa ông Tử Hạ còn sầu làm chi?
Từ rằng: Trót đã qui y,
Việc ta, ta biết, can gì tới ai?
Dốc lòng tìm dấu Như Lai,
Trước sau giữ một lòng trai chẳng sờn.
270. Gặp đây xin hỏi trượng nhân,
Cảnh chùa nào tốt, chỉ bần tăng đi?
Lão rằng: Chùa chẳng thiếu chi,
Hàn sơn, Lam thuỷ ít bì Thiên thai.
Thiên thai xa chốn trần ai,
Có chùa Linh diệu, có đài Âm dương.
Trong chùa lại có hai hang,
Một đàng Bích lạc, một đàng Diêm vương.
Thiên sư lòng muốn du phương,
Đông nam phía ấy là đường đi lên.
275. Dương Từ khăng khắng chẳng quên,
Tạ ân lão trượng, lòng bền ra đi.

Ngày xuân con én trì trì,
Tưởng câu “thuỷ tú, sơn kỳ” thêm vui.
Khói tan, ngút sạch, như giồi,
Miệng hang, khe đá, nặc mùi chi lan.
Rỡ ràng chín chục thiều quang,
Gió thanh, mây lặng, vẻn vang một trời.
Mảng coi phong cảnh nơi nơi,
Ác vàng chen núi, khó dời đường chim.
280. Trong non nhà cửa khôn tìm,
Dương Từ vào miễu, một đêm nằm nhờ.

Miếu môn vắng vẻ như tờ,
Tối tăm, chẳng biết trong thờ thần chi.
Họ Dương vừa giấc ngủ đi,
Chiêm bao lại thấy quân tuỳ bắt ngang.
Quân rằng Vâng lịnh Phán quan,
Chữ đề trong thẻ, đòi chàng hỏi tra.
Họ Dương hồn gượng theo ra,
Vào nơi công phủ: một toà nghiêm trang.
285. Ngồi trên thấy một ông quan,
Trước bàn hương án bày hàng bút nghiên.
Có người thơ lại ngồi biên,
Hai bên treo trống, treo chiêng, rõ ràng.
Trước sân lỗ bộ hai hàng,
Tả ban, hữu vệ, đứng giàn hầu xa.
Quân bèn dẫn họ Dương ra,
Trước sân cẩm thạch quì mà nghe tra.
Quan rằng: Thằng sãi bôn ba,
Tối nằm cửa miếu vậy mà hỏi ai?
290. Dám xưng rằng hiệu Thiện Trai,
Người trong Hoa hạ, hay người man di?
Tóc râu là dạng nam nhi,
Của cha mẹ đúc, can gì cạo đi?
Tổ tiên chút đã đền chi,
Vùa hương bát nước, nào khi phụng thờ?
Áo cơm còn nợ sờ sờ,
Lá rau con cá, ở nhờ đất vua.
Trốn xâu, trốn thuế, vô chùa,
Trong đời những sãi: thời vua nhờ gì?
295. Vợ chồng sao bỏ nhau đi?
Lời nguyền dường ấy dám khi quỷ thần!
Ba giềng chẳng đặng một phần,
Như vầy cũng tiếng là thân con người.
Để bây sống cũng nhơ đời,
Truyền quân đao phủ dẫn nơi pháp đình.
Họ Dương khiếp vía hồn kinh,
300. Dương Từ thức dậy nửa đêm,
Nghĩ thôi mới biết một điềm chiêm bao.
Gẫm trong cớ sự ngán ngao,
Cát, hung, chưa rõ lẽ nào thân sau.
Vầng ô vừa lố khỏi đầu,
Dương Từ vào miễu thấy câu chữ đề,
Ngó lên trên biển ngạch đề,
Rằng: Đường Hàn tử Xương Lê chi thần.
Than rằng: Đã hiển thành thần,
Ngay vua, nào nại tấm thân mất còn.
305. Lại xem đôi liễn sơn son,
Hai câu tương đối, treo còn tới nay.

Liễn rằng:
Một sách “Đạo Nguyên” loà mắt thánh;
Ba tờ “Phật Biểu” chát tai vua.

Dương Từ than thở, khen hay,
Người ngay lại có liễn ngay để đời.
Lòng son một tấm thấy trời,
Những đoàn gian nịnh đổi dời sao xong.
Cho hay người đặng chữ “trung”,
Dầu sau muôn kiếp, sắc phong, miễu thờ.
Vái rằng: Bần sãi ngẩn ngơ,
Lỡ đàng nên mới tạm vơ miễu thần.
310. Tạ ơn, bốn lạy kính dâng,
Chấp chi bần sãi, lạc chừng vân du.
Từ nay khỏi cửa công hầu,
Chim trời cá nước, mặc dầu ngưỡng chiêm.
Đi rồi nghĩ lại giận thêm,
Rằng đêm trong miễu thấy điềm chiêm bao.
Ghi lòng vàng đá, chớ nao,
Những điều mộng huyễn, nghĩ nào mà tin.
Đi hơn mười dặm đứng nhìn,
Đường về tây bắc cảnh in quê nhà.
315. Nghĩ mình từ thuở xuất gia,
Tới nay kể đã đặng ba năm trường.
Người: Thời chê lỗi cương thường,
Thần: Thời bắt tội, lỗi đường hiếu trung,
Biết tu mấy kiếp cho xong!
Làm người rất thẹn đứng trong cõi người!
Tu chi trời đất hổ ngươi,
Thần hờn, quỷ giận, sĩ cười, dân chê.
Tưởng đi, rồi lại tưởng về,
Về: Thời lại hổ bồ đề trong tay.
320. Tương, dưa, rau, muối, cơm chay,
Công phu uổng phí xưa nay cúng dường.
Đi: Thời lại sợ lầm đường.
Thế gian đàm tiếu mọi đường thị phi.
Dùng dằng: lỡ ở, lỡ đi,
Bàn lui, bàn tới, lẽ gì chưa xong.

Xảy vừa tới chốn tang trung,
Thấy tam kỳ lộ trong lòng sanh nghi.
Một mình đứng giữa tam kỳ,
Ngó nam, ngó bắc, đường đi chưa rành,
325. May đâu thấy một cổ đình,
Ở bên đường cái, hiệu “Thanh Phong Đình”.
Trong đình không thấy thần linh,
Để cho thương khách lộ trình nghỉ ngơi.
Dương Từ vào đó xem chơi,
Thấy câu liễn đối, thật lời cổ nhân.

Liễn rằng:
Đường đi ba ngã người Châu khóc;
Tơ trắng hai màu gã Địch than,

Dương Từ xem liễn đối rồi,
Trong lòng ngẫm nghĩ một hồi giải ra.
Giải rằng: đường có ngã ba,
Một qua bắc khứ, một qua năm hành.
330. Bàn rằng: Tơ trắng sạch mình,
Màu vàng cũng đặng, màu xanh chớ từ.
Làm người: nay thật, mai hư,
Lòng không quyết một, cũng như liễn nầy.
Hỡi ôi! chí dốc chơi mây,
Mùi thiền đã nếm bấy chầy cũng nên.
Giữ lòng kim thạch cho bền,
Chớ nghe lời tục, mà quên đạo mình.
Giã ơn câu liễn trong đình,
Khiến ta quyết một lòng thành đi tu.
335. Từ đây mới dứt dạ sầu,
Dốc tròn cửa Phật, chẳng âu tiếng người,

Thiên thai chùa ấy gần vời,
Dương Từ đón khách hỏi nơi cho rành.
Phút đâu trên đám dâu xanh,
Gió đưa tiếng hát, như hình có ai.

Hát rằng:
Đoái sông Nghiêu buổi chiều lặng sóng,
Lúc sang giàu dù lọng nghinh ngang.
Bến Hà châu đôi chim cưu đậu,
Buổi nghiêng nghèo có bậu, có qua.
Ngọn gió đưa một ngày một khác,
Ta nhớ người câu hát thể tần.
Bến đò xưa bạn đưa đã trống,
Xảy nhớ người thổi ống phụng sanh.

Dương Từ nghe tiếng hát rân,
Chơn bước lại gần, dựa nhánh dâu coi.
Thấy hai con gái mang gùi,
Hái dâu đã rồi, sắm sửa hồi trang,
340. Dương Từ nhắm vóc hai nàng,
Chừng vài mươi tuổi, dung nhan tầm thường.
Hỏi rằng: Kỳ lộ nhiều phương,
Lên chùa Linh diệu biết đường nào đi?
Đáp rằng: Hoà thượng hỏi chi?
Ta là phận gái, biết gì chùa đâu.
Để tằm, lo việc hái dâu,
Kéo tơ, dệt lụa, phận đầu nữ công,
Thầy tu muốn hỏi đường thông,
Phải tầm bà vãi, tây đông mới tường.
345. Ta nghe con gái nhà Khương,
Trẻ toan đĩ điếm, già đương tu trì
Có câu: “lão kỹ vi ni”
Mấy đường chay, mặn, cũng đi nếm rồi”
Nói thôi mang giỏ về xuôi,
Dương Từ còn đứng ngậm ngùi thở than.
Làm thân bà vãi gian nan,
Đã là đầu trọc, còn mang tiếng cười.

Gái kia chẳng chỉ đường nơi,
Đánh liều, phương nhắm phía trời đông nam.
350. Đi vừa tới Bạch vân Nham,
Có toà cổ miếu cổ, mây doanh bốn bề.
Ngó lên trên cửa chữ đề:
“Hiếu Từ” hai chữ, son phê chói loà.
Lại câu đối liễn treo ra,
Dương Từ trộm thấy, lòng đà sanh nghi.

Liễn rằng:
Đói rách lòng không hờn mẹ ghẻ;
Lạnh đau dạ chẳng trách cha lành.

Thấy câu liễn đối mà thương,
Cho hay: con thảo nhiều đường gian nguy.
355. Muốn vô coi tượng thờ chi,
Lại e linh ứng, như kỳ chiêm bao.
Trở ra, rồi lại trở vào,
Thấy câu liễn đối, đi sao cho đành!

Xảy nghe bên cụm cây xanh,
Có người đốn củi lanh chanh hát rằng:

Hát rằng:
Núi non đây nhiều cây nghinh ngáng.
Dọn trống đường nhờ cán búa ta.
Búa trong tay, liền ngày đốn củi,
Vui rừng trời tránh buổi loạn ly.
Cội cây yêm phải tìm núp bóng,
Mặc người đời dù lọng nghinh ngang,

Dương Từ nghe hát mấy lời,
Xăm xăm bước tới, thấy người tiều phu.
Hỏi rằng: Nhà cửa ở đâu?
Biết trong miễu ấy, công, hầu, bậc chi?
360. Tiều rằng: trong miếu Hiếu từ,
Thờ ông Mẫn tử thuở kỳ xuân thu.
Học theo đạo thánh ngày lâu,
Hiếu từ đức hạnh ở đầu tứ khoa.
Hết lòng thảo với mẹ cha,
Người ngoài cho đến trong nhà đều khen.
Thuở xưa đương lúc khó hèn,
Ấu thơ mẹ mất, cha bèn thú thê.
Từ ngày có mẹ ghẻ về,
Đẻ hai con nhỏ, cha kề ấp yêu.
365. Mẹ thương con ruột phần nhiều,
Ấm thân con ghẻ bỏ liều như không.
Đói, no, lành, rách, mặc lòng.
Ăn theo đày tớ, nằm cùng chăn trâu,
Tử Khiên không dạ oán sầu,
Phải sao hay vậy, trọn câu hiếu hoà.
Gặp khi cha khiến đẩy xa,
Thấy con áo rách, giận bà hậu thê.
Cha bèn vội vã trở về,
370. Trách bà mẹ ghẻ, toan bề để ra.
Tử Khiên than khóc, lạy cha.
Xin dung một mẹ, mới hoà ba con.
Rách, lành, chẳng sá một con,
Hai con thơ ấu, mẹ còn mới nên.
Thảo thân một tấm lòng bền,
Cảm tình, mẹ ghẻ chẳng quên con chồng.
Nhớ câu “hiếu để thành phong”.
Người trong nước Lỗ đều mong học đòi.
Sắc phong một thuở hẳn hòi,
“Hiếu Từ” hai chữ, dấu roi để đời.
375. Ta đây một họ cùng người,
Kêu bằng ông tổ ba mươi bốn đời,

Từ rằng: Xin hỏi vài lời,
Người ta vốn thật dòng người trâm anh.
Sao không ra lập công danh,
Noi theo nghiệp tổ, hiển vinh mà nhờ?
Tiều rằng trước mặt sờ sờ,
Xưa qua, nay lại, dễ chờ đợi chi?
Đưa theo hai chữ “tương khi”,
Trên quyền, dưới lợi, đoái gì thiên luân!
380. Nước thời chia bốn năm phần,
Can qua chẳng biết mấy lần đánh nhau.
Trong thời gian nịnh giụm đầu,
Ngoài thời dua mị, đua cầu tham quan.
Chánh ra dữ quá cọp vàng,
Lòng dùng độc quá hổ mang, thuồng luồng.
Bốn phương mọi rợ luôn tuồng,
Nay giành ải hổ, mai ruồng ải lang.
Nơi nơi trộm cướp dấy loàn,
Lê dân hết sức, của tan chẳng còn!
385. Cõi trong trời đất thon von,
Khói mây đen nghẹt, nước non đau sầu.
Biết đời tam đại là đâu,
Gặp khi thúc quí phải âu lánh mình.
Từ rằng bờ cõi thinh thinh,
Chẳng tham danh lợi, lánh mình chớ lo.
Ở trong tạo hoá một lò,
Thiếu chi nghề nghiệp, bo bo theo tiều?
Tiều rằng: Cửa thánh gương treo,
Dùng đời chẳng đặng, thời theo đời dùng?
Khéo khôn ắt có mỏi lòng,
Mỏi lòng rồi lại mắc vòng hoả tai.
Thử coi con thú vật ngoài,
Như voi như cọp, mấy ai dám bì?
Voi kia cao lớn đen sì,
Cặp ngà vô dụng: can chi luỵ mình
395. Cọp kia nanh vuốt như binh,
Tấm da vô dụng: ai rình đâm chi?
Lấy trong việc ấy mà suy,
Những nghề đời dụng, ra gì xưa nay!
Ta nhờ cán búa trong tay,
Theo nơi rừng bụi, tháng ngày thảnh thơi.
Bữa dùng một gánh củi trời:
Cá, cơm, rượu thịt, tháng ngày cũng no.
Giữa câu”phù ngưỡng” bo bo,
Kỉnh thờ trên dưới, miễn cho xong mình.
400. Xin đừng hổ với thần linh,
Cùng người đừng thẹn, uổng sanh trong đời.
Xin đừng khi dối lẽ trời,
Cũng đừng trốn lánh việc đời thời xong.

Dương Từ nghe nói hổ lòng,
Khen rằng: Lão trượng thật lòng hiền xưa.
Ta đà lánh cõi mây mưa,
Cớ trêu tấc dạ, lại ưa mùi thiền.
Thiên thai dốc kiếm chùa tiên,
Chưa thông đường sá, dám phiền chi ta.
405. Tiều rằng: Có chỉ nam xa,
Chớ lo đạo lỗi, lo ta lầm đàng.
Đây đi xuống bến Châu giang,
Ngang qua sông ấy, lên đàng Thiên thai.

Dương Từ vội vã trở hài,
Từ biệt non đoài, nương gậy thiền đi.
Dưới trời nhiều vật so my,
Nghĩ ra nhiều thói dị kỳ mà kinh.
Những người ngay thẳng đều vinh,
Thân tuy đã mất mà danh hãy còn.
410. Bảng vàng, thẻ bạc, chữ son,
Bao nhiêu vinh hiển, là con nhà hiền.
Tiều phu là đứa không tiền,
Gẫm trong lời nói có duyên hơn vàng.
Hỡi ôi! mấy kẻ giàu sang,
Mảng tham vui sướng, quên màng thân sau.

Dương Từ đi đến sông Châu,
Ngẩn ngơ nào biết đò đâu đưa mình.
Ngó lên trên khúc sông quanh,
Thấy bên vực thẳm có manh cô bồng.
415. Một người đứng giữa khoang lồng,
Khua chèo miệng hát, gió lồng tiếng vang.

Hát rằng:
Bến sông Châu, vực sâu, cá ở,
Thương người hiền gặp thuở loạn ly.
Nước vận quanh, bãi gành chảy cạn,
Thấy anh hùng hoạn nạn khá thương!
Chiếc thuyền câu, đậu đâu nên đó,
Nước ly loàn, giàu có màng chi?

Dương Từ nghe tiếng hát kỳ,
Bước lên trên vực, coi thì thể nao.
Mình hơn tám thước rất cao,
Mặt đen râu quắn, khác nào võ phu.
Dương Từ bước xuống ngư chu,
Xin đưa qua bến, sẽ âu hoàn tiền.
Ngư rằng: Người ở chùa chiền,
Đi đâu nên nỗi, mà phiền ta đưa?
420. Nhắm hình chẳng phải người xưa;
Lánh nơi hoạn nạn, tới trưa lỡ làng.
Ta nghe trong chốn Lư giang,
Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên.
Lại nghe đình trưởng dừng thuyền,
Chở ông Hạng Vũ qua miền Ô giang.
Hai người vì bởi lánh nàn,
Một lo rửa oán, hai toan rửa thù.
Sợ đời bắt kẻ tóc râu,
Nào ai bắt đứa trọc đầu làm chi?
425. Nói rồi ra lẽ thị phi,
Dễ đưa qua đó, tiếc gì công ta.

Cầm chèo thong thả đưa qua,
Dương Từ, đến bến, tính ra tiền đò.
Ngư rằng: Lòng chẳng bo bo,
Phòng tham tiền bạc so đo với người.
Trót đà làm phải trên đời,
Ngàn vàng chẳng báu, một lời rất sang.
Từ rằng: Ta tiếc cho chàng,
Chẳng phen lương đống, cũng trang anh hùng.
430. Nghe rằng nước Tấn chinh đông,
Cầu đặng võ sĩ ra công can thành.
Cớ sao chẳng xuống Tây kinh,
Phò vua giúp nước, lập danh để đời?
Cá tôm đặng mấy mươi lời,
Theo nghề chài lưới, quên nơi sang giàu?
Ngư rằng lời khéo phỉnh nhau,
Ai từng khát nước gối đầu bờ ao?
Người nay có khác xưa nào,
Đất dày thăm thẳm, trời cao mù mù.
435. Bốn mùa thành quách làm xâu,
Dân gầy, nước ốm, mỡ, dầu, cũng khô,
Thấy đời danh lợi biến phô,
Khác nào con chấu nhảy vô vòng đèn.
Từ rằng: Xưa sách còn khen,
Công thành danh toại, ai bèn chi ai?
Ngư rằng: Xưa đấng hiền tài,
Lập thân há chẳng biết tài bảo thân.
Dầu vinh cũng tiếng nhân thần
Trâu cày ngựa cỡi, cái thân ra gì?
440. Chớ ăn lộc nước đời suy,
Bẫy chim, lưới thỏ, e khi mắc nàn.
Trối ai ra sức muông săn,
Một mai hết thỏ, chúng ăn tới mình.
Sao bằng một cõi an sanh,
Sông sâu vực thẳm, ai giành chi đây?
Sẵn dòng chèo quế một cây,
Thuyền mang một chiếc, đỡ ngày hôm mai.
Theo sông khúc vắn khúc dài,
Năm ba sợi nhợ, một vài cần tre.
445. Đêm trăng ngày gió, bạn bè,
Vui câu hát xướng, buồn ve rượu đào.
Thả trôi gành hạc, bãi ngao,
Thú vui non nước, mặc dầu nghinh ngang.
Cá tôm sẵn lộc trời ban,
Phận đà no đủ, còn màng của chi?

Nói rồi thong thả chèo đi,
Dương Từ khen đó tính ky lâu dài.
Than rằng: Thương đứng anh tài,
Sanh không gặp thuở, khó nài thân sau:
450. Hỡi ai lộc trọng quyền cao!
Thú hèn cũng có anh hào, chớ khinh.

Họ Dương từ thuở đăng trình,
Trải chơi non nước sự tình biết bao.
Đi hơn nửa tháng lao đao,
Đến nay mới thấy đường vào Thiên thai,
Thiên thai một cảnh an bài,
Dương Từ mới tới, ở ngoài động môn.

Lúc nầy người ở động môn,
Tên là Hà Mậu, trí khôn, người hiền.
455. Theo cùng ông Lý tri Niên,
Từ non Tùng lãnh vào miền Thiên thai
Đi đà hơn nửa tháng dài,
Phút đâu lố thấy gần ngoài động môn.
Tri Niên, lừa thả bên non,
Cùng ngươi Hà Mậu đều lòn cửa hang,
Hai người ra khỏi cửa hang,
Đến nơi động khẩu gặp chàng họ Dương.

Họ Hà, họ Lý, họ Dương,
Ba người gặp hỏi, mới tường tánh danh.
460. Niên rằng: Tiên cảnh rất linh,
Họ Dương ngươi hãy ở đành lại đây.
Chờ ta tới trước am mây,
Lên chùa Linh diệu thăm thầy Lão nhan.
Dương Từ nghe nói vội vàng,
Thưa rằng xin đó đem đàng ta đi.
Niên rằng: ngươi vốn thiền sư,
Tới nơi tiên cảnh cầu chi chăng là?
Từ rằng: nghe tiếng đồn xa,
Rằng chùa Linh diệu một toà ở đây.
465. Niên rằng: Linh diệu chùa này,
Vốn không thờ Phật mà lây tới thiền.
Từ rằng không Phật, có Tiên,
Xin cho đặng thấy, phỉ nguyền chơi mây.
Niên rằng: Hai gã ở đây,
Để ta tới trước Động Mây một giờ.
Lâu, mau, sao vậy cũng chờ,
Cho tin xuống rước kịp giờ sẽ hay.
Niên rằng: Đường lên trên thầy,
Mây tuôn mù mịt đá vầy nhỏ to.

470. Dương Từ Hà Mậu đều lo,
Ngồi trong cửa động lò mò hỏi nhau.
Mậu rằng: Tiếc đó đi tu,
E khi cửa Phật công phu lỡ làng.
Ta nghe Phật ở Tây phang,
Vốn người mọi rợ, luân thường chẳng ưa.
Lại nghe tam đại đời xưa,
Dân an, nước trị, Phật chưa bày hình,
Đến năm đời Hán Vĩnh Bình,
Sứ qua Thiên Trúc rước kinh Phật về,
475. Tới sau Lương Vũ rất mê,
Lập chùa tượng cốt, chuyên nghề sử trai.
Nguỵ, Trần, Tề, Tống đến nay,
Đời đời nào cũng trọng thầy sa môn.
Trên vua đến dưới dân thôn,
Đua nhau kính trọng một môn phù đồ,
Quì hương, chẩn tế, nam mô.
Tới lui tăng đạo, ra vô Phật đường,
Bao nhiêu theo đạo Tây phương.
Phước lành chưa thấy, tai ương tới mình,
480. Trên thời nghiêng nước nghiêng thành,
Dưới thời nhà cửa tan tành xiết bao!
Phật linh mấy cứu ai nào,
Người na sao hãy lòn vào Thích gia?
Từ rằng: Ngươi chớ giấu ta,
Đạo nào nên trọng, nói mà nghe chơi?
Mậu rằng; Ta trọng đạo Trời,
Tới nay đã đặng năm đời Gia tô.
Từ rằng: “Theo đạo Gia tô
Chuyện không sách vở, nói phô miệng tày.
485. Chúa Trời đã có đức hay,
Sao giăng thập ác, chân tay đinh xiềng?
Chúa Bà đã có đức hiền,
Sao đầu đội máu, đít liền ngồi chông?”
Họ Hà nghe nói động lòng,
Nước mắt ròng ròng, rằng: “chớ nói chơi!
Cám ơn đức Chúa trên trời,
Thương dân dưới đời, chịu tội cho dân.
Cám ơn nước Thánh muôn phần,
Có tội mấy lần, đều rửa sạch trơn”.
490. Từ rằng: “Trời một Ngọc Hoàng,
Ở trên thiên hạ, sửa sang muôn đời.
Ngươi xưng rằng: “Đức Chúa Trời”,
Trời sao lại mắc vào nơi cực hình?
Chẳng hay ai bắt tội tình,
Có trời nào nữa, hay mình Du di,
Ngươi rằng: “nước Thánh rửa đi”,
Sao không rửa trước để chi khổ mình?
Du di đã mắc cực hình,
Còn ai làm Thánh luyện bình nước cho?
495. Tội dân Trời đã chịu cho,
Làm vua trong nước nào lo trị đời?”.
Mậu rằng: “Trời cứu con Trời,
Ai không về đạo, tội thời trối thây”.
Từ rằng: “Nghe nói tiếng nầy,
Chúa Trời hẵn ở nước Tây rõ ràng.
Dân đều về đạo Hoà Lan,
Đời còn phải sắm khám đàng nhốt ai?

Ta nghe bên huyện Tôn Nhai
Có người đạo trưởng mang tai ngồi tù.
500. Nào bình nước Thánh để đâu,
Không đem rửa tội, để cầu người lo?
Lấy trong việc ấy mà so,
Trời đông, nam, bắc, khác đò trời Tây”.

Lời bình: 

Hồi 02 tập trung vào quá trình Dương Từ bị cám dỗ và xa rời đạo đức, lạc vào những tư tưởng tà ác. Đây là hồi mà Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh đến những nguy cơ mà con người phải đối mặt trong cuộc sống, đặc biệt là khi họ không đủ bản lĩnh để giữ vững giá trị đạo đức của mình.

Thông điệp về sự tự giác và lòng kiên định được tác giả truyền tải một cách rõ ràng.

6/ Hồi 03 – Dương Từ Hà Mậu

502. Họ Hà đương gẫm lời hay,
Phút đâu chim hạc lại bay xuống liền.
Hoá ra đồng tử có duyên,
Tay cầm hai trái đào tiên, miệng cười.
Bảo rằng: Hai trái, hai người,
Ăn rồi mới biết là người dại khôn.
505. Ngày nay đã tới hoàng hôn,
Hai người đi khỏi động môn hành trình.
Theo ta tới Bích Phong Đình,
Ở trong hang đá nghỉ mình một đêm.
Rạng mai có kẻ xuống tìm,
Đem lên Vân động, mựa hiềm đợi trông.
Tiểu đồng dạy bảo vừa xong,
Hoá ra chim hạc, thinh không bay về.
Hai người mắt thấy lòng ghê,
Khen rằng: Tiên đạo có bề thần linh.

510. Phỏng chừng đương lúc sơ canh,
Ngó ra thấy bóng trăng thanh bên trời.
Băng luân một tấm lộng khơi,
Non sông muôn nước bóng ngời lòng soi.
Hai người lẳng lặng ngồi coi,
Ngó ra cửa động, bóng soi như ngày.
Vẳng nghe có tiếng vang dầy,
Rần rần ngựa gió, xe mây chật đàng,
Trước đi kiệu bạc, tán vàng,
Trong che phủ phất, ngoài giàn quạt tiêu.
515. Đèn ngân, đuốc ngọc, rất nhiều,
Loà nơi cửa động, hương thiêu nực nồng.
Ngỡ là Thiên tử ngự phong,
Gẫm trong nghi vệ, cũng đồng thần tiên.
Họ Hà xem thấy sợ liền,
Than rằng: Mối đạo linh thiêng như vầy!
Anh tu cũng tiếng ông thầy,
Theo làm tôi Phật, bấy chầy thấy không?
Từ rằng: Cốt mộc, cốt đồng,
Tượng hình, đúc tượng, ngồi không trên bàn.
520. Ta thường sớm tối đèn nhang,
Thấy ma, thấy quỷ, chàng ràng trêu ngươi.
Phật không thấy nói thấy cười,
Thấy không đi đứng cùng người thế gian.
Chạnh lòng ta mới hỏi chàng:
Lâu nay về đạo Hoà lan thấy gì?
Mậu rằng thấy bức ảnh ghi…
Thấy cây thập ác, thấy kỳ đọc kinh.
Bảy ngày thấy bữa du minh,
Thấy nhà chung nhóm, thấy hình Cha Tây.
525. Thường thường thấy phát bánh mì,
Thấy ban nước Thánh, thấy khi dọn người.
Trót đà bị chúng chê cười,
Vậy nên phải tới gặp người tiên tri.
Từ rằng: Gặp kẻ tiên tri,
Ta xin hỏi đạo từ bi cho tường.
Hai người ngồi hãy đương bàn,
Nghe chùa Linh diệu chuông vàng sớn rung.
Xảy vừa tới lúc hừng đông,
Tri Niên đã xuống Bích Phong Đình rồi.
530. Nói rằng gặp tiết giao bôi,
Chư tiên hội yến vào hồi canh ba.
Mậu rằng: Chiều bữa hôm qua,
Có người đồng tử cho ta ăn đào.
Chẳng hay duyên cớ làm sao,
Khiến ta ăn đào, tránh chốn động môn.
Niên rằng: Nơi cửa động môn,
Ngày lành, tháng tốt, để: buồn, tiên chơi.
Hai người lòng dục chưa rời,
Còn con mắt tục, dòm người chẳng linh.
535. Có ăn hai trái đào xinh,
Rửa lòng nhân dục, trong mình mới an.
Chư tiên nay đã hồi loan,
Ta xin dẫn lộ hai chàng đi lên.

Dương Từ Hà Mậu đi liền,
Tới nên Vân động ngửa lên xem trời,
Thấy ngươi đồng tử truyền lời,
Rằng: Ba người hãy tạm nơi động này.
Tôn sư giấc mộng đương say,
Chờ khi thức dậy, mới hay lẽ nào.
540. Hai người ở động mây cao,
Nhìn xem cảnh vật biết bao nhiêu tình.
Kỳ hoa, thoại thảo, xanh xanh,
Châu cầm ngọc thú, rập rình vui thay!
Nền chùa cao quá vầng mây,
Bên thềm đá gấm, bóng cây im lìm.
Ngó vô mấy bức châu liêm,
Mấy từng thơ hoạ, trang nghiêm muôn phần.
Ngó ra non núi mấy từng,
Hình long dạng phụng, bên chưn đứng chầu,
545. Đông, tây, son đỏ hai lầu,
Chuông vàng, khánh bạc, giàn hầu rất ngoa.
Cúi xem về cõi giới ba,
Một bầu trời đất giống là nửa châu.
Từ rằng: Có chí vân du,
Đến đây mới đặng khỏi hầu bụi nhơ.
Niên rằng: Ta thuở ấu thơ,
Có lòng tầm đạo bây giờ thảnh thơi,

Phút đâu đồng tử ra mời,
Rằng: Tôn sư dậy, ngồi nơi hiên đào.
550. Ba người khép nép bước vào,
Tới nơi hiên đào nghe tiếng ngâm thi,

Thi rằng:
Dốc tầm đạo, phải ở đâu xa?
Gội tấm lòng người, có giải ra,
Theo nghĩa; bao đành làm phản nước?
Có nhân: nào nỡ phụ tình nhà?
Xưa nay đều chuộng đường trung hiếu,
Sách vở còn ghi lẽ chánh tà.
Năm phẩm rừng Nho săn sóc lấy,
Ấy là đạo vị ở lòng ta.

Ba người nghe tiếng ngâm rồi,
Vào trước chỗ ngồi, quì xuống vòng tay.
Tri Niên lạy trước, lời bày,
Thưa rằng: Ngây dại xin thầy dạy phô.
Lão Nhan biết lũ mê đồ,
Hỏi rằng: Hà Mậu nói phô việc gì?
Mậu rằng: Tôi thật ngu si,
Chẳng hay đời trước có chi lầm đàng?
555. Thầy rằng: mê đạo Hoà lan,
Trong tấm lòng chàng ước việc gì nên!
Mậu rằng: Lòng chẳng dám quên,
Một lời sau thác đặng lên Thiên đàng.
Lão Nhan giẹp chuyện hoà lan,
Hỏi rằng: Kìa gã họ Dương thưa gì?
Mấy năm học đạo từ bi,
Vân du đã chán, việc gì đến đây?
Từ rằng: Vì việc chơi mây,
Mang lời phải quấy, thêm ngầy trong tai.
560. kiếp sau là kiếp lâu dài,
Biết theo đạo Phật trọn bài cùng chăng?
Sư rằng: Kinh Phật, trọng tăng,
Tấc dạ nằng nằng tin tưởng việc chi?
Từ rằng: Theo đạo từ bi,
Nhớ ngày sau thác, đặng kỳ siêu thăng.

Lão nhan ngồi ngẫm nghĩ rằng;
Hai đường đều muốn chữ “thăng lên trời”.
Ta nay nói cũng uổng lời,
Chi bằng cho thấy lẽ trời mới tin.
565. Dặn rằng: Hai gã lòng bền,
Đều mong sau thác đặng lên nhà trời.
Chùa đây có ngõ lên trời.
Chi bằng bước tới xem chơi một hồi.

Hai người nghe nói mừng vui,
Phút quên mình sống, còn ngồi dương gian,
Thưa rằng: Đây có Thiên đàng,
Hai tôi xin tới du quan vài giờ.
Sư rằng: Hồn sạch phách nhơ,
Xác phàm còn sống, khó mơ lên trời.
570. Ta nghe trong phép chúa Trời,
Cầu hồn cũng đặng về nơi Thiên đàng.
Lại nghe có phép Địa Tạng Vương,
Siêu hồn sãi vãi về phương tây trời.
Hai ngươi nay muốn lên chơi,
Xác phàm ở lại, hồn dời mới xong.
Ta đây có phép thần thông,
Xuất hồn rồi lại ra công hoàn hồn.
Hai ngươi lại trước đài môn,
Giờ lành ta sẽ xuất hồn cho thăng.

575. Lại kêu ông Lý dặn rằng:
Rừng y gắn vó chi bằng cổ nhân,
Hôm nay là bữa lương thần,
Sửa sang vị thuốc, lo phần luyện đan,
Tri Niên việc thuốc đã an,
Ở chùa Linh diệu thanh nhàn coi chơi.

Dương Từ, Hà Mậu vâng lời,
Theo người đồng tử tới nơi Dương Đài.
Dương Đài có tấm bia bài,
Đề câu “Thiên thượng khả giai rõ ràng.
580. Hai chàng bước tới xem tường,
Từng từng mây giợn bốn phương trên trời
Mậu rằng: Theo đạo chúa Trời,
Thiên đàng đành dể trọn đời mới lên.
Phen này hồn sống đặng lên,
Tìm ông cha trước, cầu xin đem về.
Đặng cho thiên hạ thấy ghê,
Còn chi người tục nói nghề phải chăng.
Từ rằng: Giận tiếng lăng nhăng,
Nó chê ông Phật là thằng man di.
585. Lên trời dầu thác cũng đi,
Tìm cho thấy Phật xin trừ phép linh.
Phép chi đặng phá miễu linh,
Bắt người đạo sĩ mới đành dạ ta.
Phút đâu đồng tử bưng ra,
Mâm đào lại với bình trà dâng cho.
Bảo rằng ăn uống cho no,
Xuống khe tắm gội, rồi cho lên trời.
Hai người đều phải nghe lời,
Ăn no tắm mát, ngồi chơi nửa giờ.
590. Tôn sư coi đã gần giờ,
Tới đài, cầm viết vẽ tờ bùa linh.
Dạy rằng: Giờ ngọ, chữ canh,
Mộng sàng hai gã đem mình nằm an,
Kim đan cho uống hai hoàn,
Linh phù hai đạo, sứ mang theo mình.
Tôn sư đốt lá bùa linh,
Hoàng cân Lực sĩ hiện hình chờ sai.
Lại biên một cái tín bài,
Đề rồi tên họ của hai người phàm.
595. Dạy rằng: Chờ hết canh tam,
Chín trời đi khắp, rồi đam trở về.
Tín bài đã có phù đề,
Cầm đưa các cửa đặng bề đi thông.

Các lời dạy bảo vừa xong,
Hai chàng Lực sĩ thinh không tàng hình,
Tôn sư lại niệm chú linh,
Cấp như luật lịnh âm binh đứng hầu.
Mây đen, khói mịt, ngút mù,
Gió, mưa, sấm, sét, giây lâu mới tàn.
600. Hai người nằm lại mông sàng,
Thiu thiu nhắm mắt ngủ an một buồng,
Tôn sư đã đốt phù giồn,
Dương Từ, Hà Mậu, xuất hồn ra đi,

Hai người đều xuất hồn đi,
Đều theo Lực sĩ một khi lên trời.
Hai ngươi hồn đến cõi trời,
Thấy trong cảnh vật khác nơi cõi người.

Trời đông một cửa xanh ngời,
Có tấm biển trời, hai chữ “Thanh Thiên”.
605. Hai cung Chấn, Tốn, đoàn viên,
Mộc Tinh, các phủ, đóng liền, giăng giăng.
Đi đường Giáp, ất, thẳng băng,
Có thần gìn giữ, tên rằng Thanh Long.

Hai chàng trình tín bài xong,
Đem nhau tìm kiếm, hỏi dòng họ xưa.
Áo xanh quân đóng như mưa,
Cầm cờ xuân lịnh rước đưa Thành Hoàng.
Mới hay thứ nhất Thiên đàng,
Thật vua Thanh đế, ngôi vàng chánh đông.
610. Giữ gìn muôn việc hoá công,
Nhờ ơn gây dựng, vun trồng mùa xuân.
Hai chàng vội vã dời chân,
Trời đông chẳng thấy, qua tầng trời nam.

Trời nam một cõi ly tam,
“Xích Thiên” hai chữ, bảng đam rõ ràng.
Cung Ly rực rỡ nghiêm trang,
Hoả tinh các phủ sửa sang chói loà.
Bính, Đinh, hai ngã vào ra,
Có thần Châu tước hỏi tra ngăn ngừa.
615. Hai chàng đem tín bài thưa,
Hỏi thăm tin tức, cũng chưa thấy gì.
Quân hầu áo đỏ giàn đi,
Cầm cờ hạ Lịnh oai nghi rõ ràng.
Mới hay thứ nhị Thiên đàng,
Phần vua Xích Đế sửa sang mùa hè.
Trời nam tìm dấu vắng hoe,
Đem nhau một bè, qua chốn trời tây.

Trời tây hai cửa dầy dầy,
“Bạch Thiên” hai chữ, bảng vầy treo ra.
620. Kiều, Đoài, hai cửa chói loà,
Kim Tinh các phủ vô ra rần rần.
Tới lui trong cửa Canh, Tân,
Có thần Bạch Hổ giữ phần cấm ngăn.
Hai chàng đi tới trình bằng.
Cứ theo việc trước, hỏi phăng đi tìm.
Thấy quân trắng áo, trắng xiêm,
Cầm cờ Thu Lịnh bài nghiêm các toà.
Mới hay là cõi thứ ba,
Phần vua Bạch đế, ở toà tây thiên.
625. Đem nhau vội vã đi liền,
Trời tây khỏi miền, trời bắc lại đi.

Bắc thiên một cửa đen sì,
“Hắc Thiên” hai chữ, bảng ghi chẳng lầm.
Một toà cung Khảm tối tăm,
Thuỷ tinh các phủ ở sâm si cùng.
Hướng đi Nhâm, Quí, nhiều sông,
Có thần Huyền Vũ tuần phòng đứa gian.
Hai chàng thưa gởi đã an,
Đi qua khỏi cửa tìm đàng người quen.
630. Thấy quân mặc áo màu đen,
Cầm cờ Đông Lịnh đua chen đầy đường.
Thứ tư đây thật Thiên đường,
Phần vua Hắc đế sửa sang việc trời.
Trót đà tìm khắp mọi nơi,
Ông cha chẳng thấy, lại đời trung thiên.

“Trung Thiên” hai chữ bảng vàng,
Chói loà một cửa, bốn phang đều hầu,
Hai cung Khôn, Cấn, làu làu,
Thổ Tinh các phủ liền nhau một vàng.
635. Đàng Xà, Câu Trận, hai thần,
Giữ phần Mồ, Kỷ, là phần tuần tra.
Hai chàng trình tín bài qua,
Cứ theo việc trước vậy mà hỏi han.
Thấy quân mặc áo màu vàng,
Cầm cờ Tứ Quí đóng giàn khắp nơi.
Thứ năm đây một cõi trời,
Phần vua Hoàng đế sửa vời trung ương,

Dương Từ, Hà Mậu, hai chàng,
Hỏi người Lực sĩ mọi đàng cơ quan.
640. Rằng: Đi năm cửa Thiên đàng,
Cớ chi không thấy Hoà lan người nào?
Cũng không Phật tổ ra vào,
Hoặc là còn ở trời nào nữa chăng?
Hoàng cân, Lực sĩ đáp rằng:
Một trời thật có chín tầng âm dương.
Tới đây mới đặng năm phương,
Hãy còn bốn cửa Thiên đương ở cao,
Hai người muốn rõ âm hao,
Phải tìm cho khắp, lẽ nào mới hay.
615. Nói rồi vội vã đem đi,
Hiều Thiên mau bước cấp kỳ lại qua.
“Hiều Thiên” hai chữ bảng ra,
Sáng trong một cửa chói loà muôn phương.
Thái âm sánh với Thái Dương.
Hai cung dành sẵn hào quang mặt trời
Kim ô một bóng chói ngời,
Theo đường Hoàng Đạo khắp trời xưa nay.
Máy xây làm việc ban ngày,
Có thần giữ cửa hiệu rày Thiên Ôn.
650. Hai chàng trình tìn bài xong,
Cứ theo đường trước tìm dòng cổ nhân.
Tim thôi thấy những thánh thần,
Thiên đường đây thật về phần Dương Quân.
Xiết bao trong dạ bâng khuâng,
Cùng Thiên lố thấy, lại gần đường qua.

“Cùng thiên” hai chữ chói loà,
Quế hương một cửa, hơi ra đầm đầm.
Thiếu Dương sánh với Thiếu Âm.
Hai cung đồ sộ sáng dầm vâng trăng.
655. Một vầng Bạch Thố bóng giăng.
Non sông bóng giợn, soi bằng lòng gương.
Có quan tuần giữ bốn phương,
Thiên Anh chữ đặt, đón đường hỏi tra.
Hai chàng trình tín bài ra,
Cứ theo việc trước, hỏi bà con thân.
Hỏi ra thấy những thánh thần,
Thiên đường đây thật về phần âm quân.
Trong lòng chi xiết bâng khuâng,
Thương Thiên chốn ấy phải lầm đường qua.

660. “Thương Thiên” hai chữ chói loà,
Băng xăng một cửa ra vô rập rình.
Quyết Âm sánh với Dương Minh,
Hai cung lồng lộng, ngôi tinh, ngôi thần
Bao nhiêu sấm sấm sét nổ rân,
Mây đen, sương trắng, băng xăng cõi này.
Có thần Viêm Hoả ở đây,
Hôm mai giữ cửa ngăn rày hỏi tra.
Hai người trình tín bài ra,
Cứ theo việc trước, hỏi qua việc mình.
665. Tìm thôi gặp những thần linh,
Thiên đường đây thật ngôi Tinh chánh vì.
Ngẩn ngơ, ngao ngán, lòng nghi,
Huyền Thiên lố thấy, kíp đi tìm đàng.

“Huyền Thiên” hai chữ sơn vàng,
Các phương chầu chực, nhộn nhàng vào ra.
Tử Vi rực rỡ một toà,
Ngọc Hoàng Đại đế thật là cõi đây.
Đền, đài, lầu các, doanh xây,
Sân lân, gác phụng, nền qui, lầu rồng,
670. Thiên Bồng, Thiên Tuế hai ông,
Ra vô chầu chực có ông tuần phòng.

Hai chàng xem thấy nớp lòng,
Trên trời đếm những là dòng thần linh.
Khắp nơi han hỏi sự tình,
Thảy đều chẳng gặp quen mình là ai.
Cùng nhau than vắn, thở dài,
Còn nơi nào nữa, toan bài hỏi han!
Thương thay hai gã gian nan,
Chín trời đã khắp, phải toan lẽ gì?

675. Đã không thấy Phật từ bi,
Cũng không thấy Chúa Giu di trên trời.
Họ Hà khi ấy buông lời,
Nói rằng: “Tiếc bấy năm đời công phu!”
Đọc kinh, xem lễ bấy lâu,
Tưởng ông cha đã lên chầu trời cao.
Đến nay lên chốn Thiên tào
Hai ông Tiên ấy lời trao rất bền.
Khiến ta chử dạ chưa quên,
Đừng mong sau thác đặng lên Thiên đàng.”
680. Đến nay mới biết rõ ràng,
Trung Nguyên sánh với Hoà Lan khác trời.

Dương Từ vừa mới buông lời,
Nói rằng: “Cho đáng cái đời Thầy Tu”
Phút đâu trên chốn tây lầu,
Nổ ba tiếng sấm, nhóm chầu các cung.
685. Áo, xiêm, đai, mão, lạnh lùng!
Tinh quân các vị rùng rùng tới nơi,
Hai người đứng nép coi chơi,
Những người chầu chực nhà trời là ai?
Thấy đi có tấm thẻ bài,
Đề rằng “Khổng tử Đại Tài Thánh Vương”.
Ngồi trong kiệu ngọc, tàn vàng,
Một ông Khổng tử dung nhan tốt lành.
Theo sau biết mấy thần linh,
Coi trong thẻ bạc, đề danh Đại Hiền,
690. Dương Từ coi thẻ khen liền:
Hèn chi vua chúa chính chuyên miếu thờ.
Cho hay muôn nước đều nhờ,
Đạo ông Khổng Tử làm bờ chăn dân.
Trong đời biết chữ nhân luân,
Biết đường trị loạn, muôn phần nhờ ai?
Nhớ câu “kế vạng khai lai”,
Thật ông Khổng tử đại tài thánh vương.
Đâu đâu cũng kính, cũng nhường,
Môn đồ cũng đặng hiển dương muôn đời.
695. Như vầy mới gọi đạo trời,
Trời sanh đức thánh thay lời dạy dân.

Dương Từ vừa dứt tiếng phân,
Phút đâu lại thấy vị thần đi sau.
Một người cỡi ngựa, tốt râu,
Đến gần nhìn thật Quan Hầu thuở xưa.
Vội vàng quì lạy, liền thưa:
Mừng nay gặp Phật, khác xưa cõi phàm.
Nam mô hai chữ già lam,
Xin thương bần sãi ở am chầy ngày!
700. Quan Hầu cỡi ngựa đi ngay,
Châu Thương đứng lại tỏ bày căn duyên.
Hỏi rằng: Người ở cửa thiền,
Việc chi tới chốn huyền thiên làm gì?
Từ rằng: Ông vội quên đi,
Am mây bần sãi tu trì nhiều công.
Nhang đèn, liền đốt bàn ông,
Nay làm ra Phật sao không đoái hoài?
Châu thương nổi sặc cười dài,
Nói rằng: Thần, Phật, khác loài nhau xa.
705. Quan Hầu vốn thật chúa ta,
Tấm lòng trung chánh ai mà dám đương!
Tiếng khen muôn nước đều nhường.
Trời phong làm chức Thành Hoàng Đại Vương.
Từ rằng: Ông thật Thành Hoàng,
Ở trong chùa ấy thờ ông Quan nào?
Đáp rằng: Vì thuở Hán trào,
Có ông Phổ Tịnh kết giao đồng làng.
Chúa ta hiển thánh ngọc hoàng,
Hoà thượng lòng nhớ, thở than bạn lành.
710. Già lam hai chữ thơm danh,
Mới đặt bài vị tụng kinh siêu hồn.
Khiến nên thiên hạ tiếng đồn,
Vẽ hình, tượng cốt, nhiều môn phù đồ.
Chúa ta chẳng phải đi tu,
Trong mình giữ vẹn tóc râu tốt lành.
Nói cho sãi rõ sự tình,
Nhắm coi Thần, Phật, hai hình khác nhau.

Nói rồi quày ngựa đi mau,
Dương Từ lơ láo, dàu dàu mày châu.
715. Than rằng: Sự dĩ đáo đầu,
Biết khôn thôi đã tóc râu hết rồi!
Xiết bao chịu nỗi khúc nôi,
Đến nay mới biết lầm ôi! là lầm!
Nhớ lời đại sĩ Tây lâm,
Chúa le trong dạ, hổ thầm với va,

Chín trời nay khắp trải qua,
Giờ về đã tới từ ra trở về,
Hoàng cân Lực sĩ đề huề,
Dương Từ, Hà Mậu, ra về chưa xa.
720. Ra về khỏi bến Ngân hà,
Gặp ông Thái ất tuần tra đón đường.
Lăm le bắt trót hai chàng,
Tuốt gươm linh kiếm phòng toan chém đầu.
Hoàng cân Lực sĩ quì tâu,
Tín bài có chữ, xin cầu khoan dung.
Thái Ất coi tín bài xong,
Cười rằng: Lũ dại khéo mong lên trời.
Trời đâu cho sãi lên chơi,
Cho quân tả đạo tới nơi dòm hành!
725. Lão Nhan là vị tiên linh,
Há không rõ đặng sự tình Phong đô?
Phong đô cõi ấy ra vô,
Nhóm nhau những đạo tăng đồ thiếu ai.
Tha bây về động Thiên thai,
Thưa cùng Từ Thất vẽ bày Phong đô.
Bày rồi hai chữ Phong đô.
Kíp đi, chẳng khứng nói phô rõ ràng.
Hoàng cân Lực sĩ vội vàng,
Kíp đem hai họ về đàng Đài dương.

730. Thứ nầy đến thứ sư đường,
Lão Nhan ngồi chốnĐài dương đợi chờ.
Đánh tay đã đủ chín giờ,
Đốt bùa, niệm chú, như xưa hoàn hồn.
Dương Từ, Hà Mậu hoàn hồn,
Giựt mình thức dậy, thấy Tôn sư ngồi.
Hai người tỉnh lại hỡi ôi!
Vội vàng xuống lạy một hồi tạ ân.
Tôn sư đứng dậy lui chân,
Trở về hậu viện dưỡng thần thảnh thơi.
735. Hỏi rằng: Hai gã lên trời,
Tầm đà thấy đạo ở nơi cửa nào?
Thưa rằng: Chẳng có âm hao,
Cũng không tông tích nơi nao đặng tường.
Cho hay chín cõi thiên đường,
Ngôi thần, ngôi thánh, phô trương đã rành.
Hai tôi có gặp thần linh,
Rằng Tôn sư rõ sự tình Phong đô.
Vẽ rồi hai chữ Phong đô,
Kíp đi không khứng nói pho rõ ràng.
740. Hai tôi nghe nói chưa tường,
Xui thầy chỉ vẽ mọi đường Phong đô.

Sư rằng: Nơi chốn Phong đô,
Cầm cân phước tội, trị đồ hung hoang.
Tục kêu rằng chốn Diêm quan,
Ở miền âm phủ sửa sang việc đời.
Hai người trước đã lên trời,
Nay tìm xuống đất mỏm hơi, nhọc mình
Thưa rằng: Rõ đặng sự tình,
Dầu cho nhắm mắt, vong linh cũng đành,
745. Xin thầy thương kẻ ngu sanh,
Mở đường chỉ ngõ, hết tình thời thôi.
Tôn sư nghe nói thương ôi!
Đem hai họ ấy đến ngôi Dương đài.
Trong đài có tấm bia bài.
Đề câu “Địa quật hữu giai” rõ ràng.
Dưới đài có một cái hang,
Dòm vào lạnh lẽo, thấy đàng tối tăm.
Dương Từ, Hà Mậu lo thầm,
Phen này xuống đất nguyện tầm cho ra.
750. Bên hang có tấm đá hoa,
Khảm vào bốn chữ “Nam kha mộng sàng”.
Hai người lên đá nằm an.
Tôn sư làm phép ròng ban như lời.
Tạo Y quỷ sứ một người,
Cấp như luật định tới nơi ứng hầu.
Dặn rằng: Chớ khá ở lâu,
Mười giờ đi hết, đem nhau trở về.
Ban cho một cái thẻ đề,
Cầm đi các cửa đặng bề đi thông.
755. Tôn sư dặn bảo vừa xong,
Tạo Y quỷ sứ ra công đem đàng.
Dương Từ, Hà Mậu hai chàng,
Đi theo tên ấy xuống đàng âm ty.
Xuống vừa tới cõi âm ty,
Mặt nhìn cảnh vật khác thì nhân gian.
Mơ màng một cõi quan san,
Mây sầu gió thảm chàng ràng trêu ngươi.
Tạo Y trước dặn hai người,
Đàng đi âm phủ nhiều loài yêu ma,
760. Tay chơn mình mẩy người ta,
Đầu trâu mặt ngựa, tên là Dạ Xoa
Dạ Xoa giữ việc gian tà,
Người nào mắc tội cho tra hành hình.
Có quân ngăn đón lộ trình,
Tên là quỷ Tốt cái hình lạ thay!
Sớm đầu, vắn cẳng, dài tay,
Xủ tai, lồi mắt, mũi dài, răng to.
Cho hay nó thật hung đồ.
Thấy sao hay vậy, chó phô hỏi gì.
765. Có ta vâng lệnh đem đi,
Lòng nghi muốn hỏi việc gì, nói cho,

Phút đâu đi đến bến đò,
Bến đò đưa rước chẳng lo tốn tiền,
Bài đề hai chữ “Hoàng Tuyền”,
Người qua, kẻ lại, liền liền ngày đêm,
Người kêu “chín suối Cẩm diêm”.
Chín kia số hết suối thêm đò đầy.
Qua vừa khỏi bến đò nầy,
Thấy bầy chó dữ ngăn rày đường đi.
770. Xa xem vằn vện đen sì,
Hằm hằm đứng sủa dị kỳ rất hung,
Bên đường có thẻ bài phong,
Chữ cấm ba vòng rằng Ác Cẩu Thôn.
Có quân quỷ tốt đường mòn,
Người đi qua lại, ỷ khôn dám kề.
Tạo Y đưa cái thẻ đề,
Đem nhau tới đặng một bề đi xuôi.
Vừa đi vừa ghé mắt coi,
Thấy quân quỷ tốt giơ roi đánh người,
775. Dẫn ra một lũ vài mươi,
Kêu là thầy pháp dối người thế gian.
Người đau chẳng dụng thuốc thang,
Lòng tham tiền bạc bày đàn chữa chuyên,
Khoe khoang nhiều phép linh thiêng,
Phỉnh treo trang khoáng ăn tiền đứa ngu.
Bày đều đóng ấn vẽ phù,
Láo sai binh tướng bắt tù Diêm vương.
Nhà dân cúng đất lệ thường,
Dám kêu tên Đế ngũ phương ngán ngầm.
780. Làm cho người mắc lỗi lầm,
Ấy là loạn đạo tội dầm ngày sau.
Để bầy chó dữ đua nhau,
Xé thây lũ ấy nhai đầu ăn gan.
Hai người coi thấy liền than,
Đi qua khỏi cửa hỏi chàng Tạo Y,
Hỏi rằng: Thầy pháp tội chi?
Cho bầy chó dữ một khi hành hình,
Đáp rằng: thầy pháp nó khinh
Dối trong trời đất chư linh chẳng vì.
785. Đời xưa phép luật ai bì,
Trừ ma ếm quỷ, việc gì cũng hay.
Lão quân mất sách đến nay
Đời sau bắt chước liền bày phép xiên.
Nói rồi vội vã đi liền,
Khỏi nơi Ác cẩu gần miền Đạo san.

Đạo san địa phủ chữ vàng,
Bài dựng bên đàng ai thấy cũng kinh.
Núi non đá mọc như binh,
Bày ra sắc lẻm như hình phủ đao,
790. Có quân quỷ tốt lao xao,
Đón đường tra hỏi, ai nào dám qua,
Tạo Y đưa cái thẻ ra,
Đi qua cửa khác liếc mà xem coi,
Thấy quân quỷ tốt cầm roi,
Dẫn thầy địa lý hỏi đòi chứng tra.
Tra rồi dẫn các thầy ra,
Kể bao nhiêu tội cho va nghe cùng.
Nhà ai rủi mắc tang hung,
Phỉnh đi coi đất đặng mong ăn tiền.
795. Khoe khoang rằng học phép tiên,
Tầm long điểm huyệt chôn liền giàu sang,
Ai mà chẳng dụng địa bàn,
Chôn nhằm cuộc xấu, ắt mang tai trời.
Lấy câu phú quí dắt người,
Bày nơi ngũ quỷ, chỉ nơi lục thần.
Khiến cho thói chuộng lăng nhăng,
Coi thân cha mẹ rẻ bằng cỏ tranh.
Người thời ham chữ công danh,
Thác không mai táng, để dành thầy toan.
800. Người thầy ham việc giàu sang,
Nghe theo thầy tục để quàn lâu năm.
Nghĩ điều hoặc thế mà câm,
Tội kia đã đáng thây dầm Đạo san.
Dạ xoa đứng dưới Đạo san,
Bắt thầy địa lý quăng ngang trên hình,
Hai người coi thấy thất kinh,
Quăng lên lăn xuống, thân hình còn chi?
Hai người mắt thấy tai bi,
Mang lời đều hỏi Tạo y vội vàng:
805. Chẳng hay phong thuỷ mấy chàng,
Tội chi mắc phải Đạo san hành hình?
Đáp rằng: trong số tử sanh,
Là trời dành để, ai dành đặng đâu.
Từ xưa vua Vũ làm đầu,
Phép bày địa lý để âu trị đời.
Đến sau phong thuỷ các nơi,
Học đòi coi quẻ, đua bơi tài nghề,
Bày ra làm sách không xuê,
Ngũ phương định hướng, làm bề vọng khi.
810. Đua nhau cải số trời đi,
Khiến người tai nạn, gian nguy một dòng.

Nói rồi dời bước thẳng xông.
Dương Từ, Hà Mậu ra công hỏi tìm.
Đi vừa đến bến sông Diêm,
Thấy cái cầu chìm, không lót ván đi.
Bắc ngang qua một cái cây,
Dưới cầu những rắn hổ mây, mãng xà.
Có mồng, có tích, như hoa,
Ngóc đầu, ngóc cổ, lội ra dập dìu.
815. Bài đề là “Nại hà Kiều”,
Ai mà có phước thời dìu dắt qua.
Ai mà có tội đem ra,
Quỷ xô xuống đó, mảng xà cắn thây.
Có quân quỷ tốt đông dầy,
Đón người qua lại cầu này hỏi tra.
Tạo Y đưa cái thẻ ra,
Quỷ đều vâng lịnh dắt qua khỏi cầu.
Dạ Xoa chẳng biết ở đâu,
Dẫn ra một lũ trọc đầu đem đi.
820. Đương Từ trông thấy lòng nghi,
Khuyên nhau chậm bước đặng khi xem tường.
Bốn phương thầy sãi rõ ràng,
Cổ gông, tay trói, lang thang áo quần.
Quỷ đi cầm thẻ rao rân,
Nói rằng thầy sãi sao thân điếm đàng.
Kể từ sống ở dương gian,
Sợ xâu, trốn thuế, tìm đàng đi tu;
Vô chùa làm chước cạo đầu,
Trốn vua theo Phật, trông cầu rảnh tay,
825. Ghe phen cúng vái làm chay,
Liền ngồi chẩn tế đặt bày việc ra.
Cho đi phổ khuyến người ta,
Bán rao tiếng Phật khắp nhà chúng sanh.
Bày đường nói kệ, nói kinh,
Mõ chuông cửa Phật rập rình ra vô.
Miệng thời niệm chữ Nam mô,
Mắt xem gắm ghé mấy cô đi chùa.
Áo cơm khỏi tốn tiền mua,
No lòng ấm cật lại đua thói xằng.
830. Tham câu sắc dục ai bằng,
Lòng lang dạ cáo, lăng nhăng trọn đời.
Khi buồn cô vãi đỡ chơi,
Khi vui vợ khách, cùng nơi thanh lầu.
Chẳng trừ thịt chó, thịt trâu,
Trối thây giới cấm! mặc dầu no say.
Ngoài am giả chước ăn chay,
Trong liêu rượu thịt ngày ngày liền xơi.
Ở đời lại quyết dối đời,
Trong mình chẳng sợ lẽ trời là chi.
835. Phui pha hai chữ luân di.
Một câu trung hiếu bỏ đi chẳng màng.
Đến nay thác xuống suối vàng,
Án tào sáng chép tội chàng khó nhiêu
Tra rồi đem tới Hà kiều,
Xô cho loài rắn xúm nhiều ăn thây.
Tiếng nghe la khóc vang dầy,
Dưới cầu sóng giợn, huyết đầy sông Diêm.

Dương Từ khó nỗi mắt xem,
Rằng: Ta còn phải đi tìm làm chi.
840. Thấy vầy cũng biết thị phi,
Đã đành trót phận qui y lầm đàng.
Xưa xem trong miễu họ Hàn.
Dẫn ra đi chém xem giàn như đây!
Tiếc công tu luyện nhiều ngày,
Bỏ nhà bỏ cửa tới đây mới tường.
Thôi thôi từ giã hai chàng,
Ta xin trở lại tìm đàng cố hương.
Tạo Y nghe nói liền can,
Rằng: Người muốn ở suối vàng ngẩn ngơ.
845.Thẻ cho đi trọn mười giờ,
Đây chưa đặng nửa, khó mơ trở về.

Lời bình: 

Hồi 03 miêu tả quá trình thức tỉnh của Dương Từ sau khi nhận ra những sai lầm của mình và quyết tâm quay về con đường chính đạo. Qua sự chuộc lỗi của Dương Từ, Nguyễn Đình Chiểu khẳng định rằng con người luôn có cơ hội sửa chữa sai lầm và hướng thiện, miễn là họ có sự quyết tâm và lòng trung thực với chính mình.

7/ Hồi 01 – Ngư Tiều y thuật vấn đáp

1. Ngày nhàn xem truyện “Tam công”
Thương người hiền sĩ sinh không gặp đời
Cuộc cờ thúc quí đua bơi
Mấy thu vật đổi sao dời, thương ôi!
5. Kể từ Thạch Tấn ở ngôi
U Yên mấy quận cắt bồi Khiết Đan
Sinh dân nào xiết bùn than
U Yên trọn, cũng giao bàn về Liêu
Theo trong người kiệt rất nhiều
10. Ôm tài giấu tiếng làm tiều, làm ngư
Nước non theo thú ẩn cư
Thờ trên nuôi dưới, nên hư mặc trời
Lại thêm Phật, Lão đua lời
Nghĩ lòng người với đạo đời thêm thương!
15. Nhà năm ba gánh cương thường
Phận ai nấy giữ, trọn giường thời thôi
Đời vương đời đế xa rồi
Nay Di mai Hạ biết hồi nào an!
Năm trăm vận ở sông Vàng
20. Nước còn đương cáu, không màng thánh nhân
Đã cam hai chữ “tỵ Tần”
Nguồn Đào tìm dấu, non xuân ruổi miền
Có tên rằng Mộng Thê Triền
Tuổi gần bốn chục, nhân duyên năm lần
25. Nhà nghèo ở núi Bạch Vân
Dẹp văn theo võ, tách thân làm tiều
Ngày ngày đốn củi rừng Nghiêu
Hái rau non Thuấn, phận nhiều lao đao
Đông Xuyên lại có người hào
30. Tên rằng Tử Phược họ Bào, làm ngư
Trong mình ba chục tuổi dư
Sinh con mười đứa bé thơ thêm nghèo
Ngược xuôi trên nước một chèo
Nay doi mai vịnh, nghề theo lưới chài
35. Họ Bào họ Mộng hoà hai
Trước theo nghề học đều tài bậc trung
Chẳng may gặp buổi đạo cùng
Treo kinh dẹp sử, lánh vòng loạn ly
Người nam kẻ bắc phân đi
40. Non sông rẽ bạn cố tri bấy chầy
Cách nhau mười mấy năm nay
Tình cờ lại đặng một ngày gặp đây
Ngư, Tiều mở tiệc vui vầy
Ngâm thi, uống rượu, đều bày chí xưa

Tiều ngâm thơ rằng:
Non xanh mấy cụm đội trời thu
Sưu thuế Tây Liêu chẳng đến đầu
Tên đã gác ngoài sân thúc quí
Mình liền dầm giữa suối Sào, Du
Vui lòng bạn cũ thi vài cuốn
Rảnh việc ngày nay rượu một bầu
Chút phận riêng nương hơi núi rạng
Trăm năm ra sức dọn rừng nhu (nho)

Ngư ngâm thơ rằng:
Nghênh ngang trên nước một thuyền câu
Chèo sóng buồm giong, trải mấy thu
Ngày xế tấm mui che gió Tấn
Đêm chầy bếp lửa chói trời U
Mặc tình sở ngộ đời trong đục
Vui thú phù sinh bến cạn sâu
Trăm tuổi trọn nhờ duyên cá nước
Dù lòng ngao ngán giữa dòng nhu

45. Tiều rằng: sinh chẳng gặp thời
Thân đà đến ấy, nghĩ thôi thêm phiền
Lênh chênh chữ phận, chữ duyên
Lỡ Tiên, lỡ Phật, lỡ nguyền nho phong
Nhớ câu “quân tử cố cùng”
50. Đèn trăng, quạt gió, non sông phận đành
Ngư rằng: hai chữ công danh
Hoàng lương nửa gối, đã đành phôi pha
Thương câu “thế đạo đồi ba”
Ngày nay chưa biết mai ra lẽ nào!
55.Uống thêm vài chén rượu giao
Ngâm thi hoài cổ, để rao tiếng đời

Ngư, Tiều hoài cổ ngâm, ngụ ưu đạo ý (thử xướng, bỉ hoạ):
Từ thuở Đông Chu xuống đến nay
Đạo đời rậm rạp mấy ai hay
Hạ, Thương đường cũ gai bò lấp
Văn, Vũ nền xưa lúa trổ đầy
Năm bá mượn vay, nhân nghĩa mọn
Bảy hùng giành xé, lợi danh bay
Kinh Lân mong dẹp tôi con loạn
Sử Mã khôn ngăn mọi rợ bầy
Dùi mõ Mặc, Dương thêm chộn rộn
Tiếng chuông Phật, Lão rất vang ngầy
Lửa Tần, tro Hạng vừa nguôi dấu
Am Hán, chùa Lương lại réo dầy
Trong đám cửu lưu đều nói tổ
Bên đường tam giáo cũng xưng thầy
Khe Đào, động Lý nhiều đoàn trốn
Rừng Trúc, đình Lan lắm bạn say
Phép báu Thi, Thư dòng mọt nát
Màu xuê Lễ, Nhạc nhiễm sương bay
Mấy dòng biển nghiệt chia nguồn nước
Trăm chặng rừng hoang bít cội cây
Hơi chính ngàn năm về cụm núi
Thói tà bốn biển động vầng mây
Ngày nào trời đất an ngôi cũ
Mừng thấy non sông bặt gió tây

Lời bình: 

Hồi 1 mở ra bối cảnh của cuộc gặp gỡ giữa Ngư và Tiều, hai nhân vật tượng trưng cho sự đơn sơ và trong sáng của cuộc sống. Ở hồi này, Nguyễn Đình Chiểu đã khéo léo lồng ghép vào cuộc đối thoại triết lý về y đức và cách trị bệnh.

Tác giả nhấn mạnh đến tấm lòng của người thầy thuốc, không chỉ chữa bệnh bằng kiến thức y học mà còn bằng sự thấu hiểu và lòng từ bi. Ngôn ngữ mộc mạc nhưng sâu sắc, hồi 1 là khởi đầu cho chuỗi triết lý nhân sinh trong các hồi sau.

Đây là một trong các bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu được yêu thích nhất hiện nay.

Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu
Truyện thơ Ngư Tiều vấn đáp y thuật của Nguyễn Đình Chiểu

8/ Hồi 02 – Ngư Tiều y thuật vấn đáp

Thơ rồi Ngư mới hỏi Tiều:
Việc nhà con vợ ít nhiều đặng hay?
Tiều rằng: Triền rất chẳng may,
60. Năm lần cưới vợ, còn nay một người.
Nằm hoài biếng nói, biếng cười,
Rề rề đau máu, da tươi bàu nhàu.
Bốn người trước thác theo nhau,
Người đau sản hậu, người đau thai tiền,
65. Khiến thêm nghèo khổ cho Triền,
Bán bao nhiêu củi về tiền thuốc thang,
Thầy hay thời ở xa đường,
Tin theo thầy tục, giúp phương hại người.
Ngư rằng: Phược cũng như người,
70. Hôm mai lận đận về mười đứa con.
Chí lăm nuôi đặng vuông tròn,
Chung tư trập trập, nhà còn phúc ghi.
Nào hay tạo hoá tiểu nhi,
Rủ bầy con nít đều đi bỏ mình.
75. Đứa thời đau chứng cấp kinh,
Đứa thời cam tích, bụng bình rĩnh ra,
Đứa thời hai mắt quáng gà,
Đứa thời túm miệng, khóc la rốn lồi,
Đứa thời đau bụng lãi chòi,
80. Đứa thời iả kiết, rặn lòi trôn trê,
Đứa thời sài ghẻ, nóng mê,
Đứa thời hoa trái, độc về hông, vai.
Rủ nhau thỉnh thoảng chết hoài,
Đứa đôi ba tháng, đứa vài ba năm.
85. Trời đà hao tốn tiền trăm,
Thương con chạy bậy, lầm nhằm thuốc nhăng.
Đến nay còn sót hai thằng,
Nhờ trời khoẻ mạnh, đặng ăn chơi thường.
Cảm ơn kẻ sĩ du phương,
90. Dắt ta, điềm chỉ vào đường Y lâm.
Thê Triền nghe nói mừng thầm,
Hỏi rằng: Thầy ở Y lâm tên gì?
Ngư rằng: Chưa biết tên chi,
Nghe người nói đó là kỳ Nhân Sư.
95. Tiều rằng: Chữ gọi Nhân Sư,
Tiên hay là Phật, bậc gì công phu?
Ngư rằng: Vốn thật thầy nhu (nho),
Lòng cưu gấm nhiễu, lại giàu lược thao.
Nói ra vàng đá chẳng xao,
100. Văn ra dấy phụng, rời giao tưng bừng.
Trong mình đủ chước kinh luân,
Thêm trau đạo đức, mười phân rõ ràng,
Chẳng may gặp thuở nước loàn,
Thương câu “dân mạc” về đàng Y lâm.
105. Ẩn mình chôn ngọc, vùi câm (kim),
Người con mắt tục coi lầm biết đâu.
Ta nhân bệnh trẻ đi cầu,
Có nghe du sĩ đọc câu thơ rằng:

Du sĩ độc nhân sư thi:
Xe ngựa lao xao giữa cõi trần,
Biết ai thiên tử, biết ai thần?
Nhạc thiều tiếng dứt khôn trông phụng,
Sử Lỗ biên rồi khó thấy lân!
Khoẻ mắt Hi Di trời ngũ quý,
Mỏi lòng Gia Cát đất tam phân
Công danh chi nữa, ăn rồi ngủ,
Mặc lượng cao dày xử với dân.

Tiều rằng: Mừng gặp hiền nhân,
110. Nghe bài thơ ấy, thật trân bảo đời!
Bấy lâu những tưởng không người,
Nào hay hang trống còn dời tiếng rân.
Thi danh trước có Đường thần.
Tài như Lý, Đỗ muôn phần khá thương.
115. Thấy nay cũng nhóm văn chương,
Vóc dê, da cọp khôn lường thực hư,
Tiếc thay đời có Nhân Sư,
Lại theo bốn chữ “vô như chi hà”.
Nhớ xưa tiếng đại hiền ra,
120. “Rằng trời muốn trị, bỏ ta, ai dùng?”
Thôi thôi ngươi hãy gắng công,
Đem ta tới chỗ, học cùng Nhân Sư.
Ngư rằng: Nhắm chốn Đan Kỳ,
Éo le khúc nẻo, đường đi chẳng gần.
125. Nhiều non, nhiều núi, nhiều rừng,
Nhiều đèo, nhiều ải, nhiều chừng động hang.
Chút công khó nhọc chẳng màng,
Phần lo hóc hiểm một đàng Nhân Khu.
Nhân Khu ải ấy ở đầu,
130. Nẻo lành, nẻo dữ, cạn sâu khôn lường.
Tiều rằng: Ta dốc tìm phương,
Xin phân cho rõ cái đường Nhân Khu.
Ngư rằng: Một ải Nhân Khu,
Lấy da bao thịt, làm bầu hồ lô.
135. Trở thông chín nẻo ra vào,
Mười hai kinh lạc chia đào dọc ngang.
Ngoài thời sáu phủ Dương Quan,
Trong thời năm tạng, xây bàn Âm Đô.
Hai bên tả hữu vách tô,
140. Có non nguyên khí, có hồ huyết quan.
Có nơi hồn phách ở an,
Có ngôi thần chủ, sửa sang việc mình.
Rước đưa có đám thất tình,
Có vườn ngũ vị nuôi hình tốt tươi.
145. Lại nghe du sĩ trao lời,
Rằng trong ải ấy lắm nơi hiểm nghèo,
Có làng Lục Tặc nhóm theo,
Chia phần đón ngách, giữ đèo Tam Thi.
Hôm mai rũ quến nhau đi,
150. Xui lòng nhân dục, nhiều khi lang loàn,
Hoặc theo bên động Bì nang,
Thắm trêu hoa mẫu mơ màng gió xuân.
Hoặc theo bên động Tôn Cân,
Nhem thèm cho sãi về dân, bỏ chùa,
155. Thêm bầy quỉ quái theo lùa,
Nhóm non Thập Ác, tranh đua khuấy đời,
Ngửa xem ngoài cửa sáng giăng,
190. Thấy trên biển ngạch chữ rằng “Tam Công”.
Bước vô trong miếu lạnh lùng,
Thấy treo ba bức song song hoạ đồ.
Nhân Sư ngồi giữa xem đồ,
Thấy ta han hỏi, dở hồ linh đan.
195. Lấy ra thuốc đỏ hai hoàn,
Cho về cứu trẻ khỏi cơn tai nàn.
Ta nhân một thuở vội vàng,
Gặp thầy chưa kịp hỏi han việc gì.
Tiếc thay đã đến Đan Kỳ,
200. Mùi thơm chưa dính chút chi vào mình.
Tiều rằng: Xin hỏi nhân huynh,
Trước quen du sĩ, tính danh cũng tường?
Ngư rằng: Kẻ sĩ du phương,
Tên Châu Đạo Dẫn, đem đường cho ta.
205. Đang khi bối rối việc nhà,
Nào rồi hỏi việc trải qua cùng chàng.
Chỉ nghe Đạo Dẫn thở than,
Rằng bầy Lục Tặc, biết toan lẽ nào!
Tiều rằng: Lục Tặc làm sao?
210. Xin phân sáu ấy, âm hao cho rành,
Ngư rằng: Tai mắt nhiều tinh,
Tai tham tiếng nhạc, mắt giành sắc xinh.
Mũi thời tham vị hương hinh,
Miệng thời tham béo, ngọt, thanh, rượu, trà,
215. Vóc thời muốn bận sô sa,
Bụng thời muốn ở cửa nhà thếp son.
Cho hay Lục Tặc ấy còn,
Khiến con người tục lần mòn hư thân.
Tiều rằng: Nghe tiếng ngọc phân,
220. Chạnh lòng muốn tách cõi trần chơi mây.
Phải chi gặp Đạo Dẫn đây,
Ta xin theo dấu, tìm thầy Nhân Sư.
Ngư rằng: Phược nguyện đem đi,
Anh về sắm sửa lễ nghi sẵn sàng.
225. Vả nay vừa tiết xuân quang,
Hẹn năm ngày nhóm hành trang cho rồi
Thê Triền từ tạ, chân lui,
Về nhà thấy vợ ngùi ngùi đau rên,
Nhờ ơn nhạc mẫu ở bên,
230. Dặn dò gửi vợ, lại lên họ Bào.
Thứ này hai họ nghĩa giao,
Sắm đồ hành lý những bao, những hồ.
Bao thời đựng cá tôm khô,
Hồ thời đựng rượu, trường đồ thẳng xông,
235. Trải qua bờ liễu, non tùng,
Trời hiu hiu thổi gió đông đưa mình,
Mặt nhìn trong tiết Thanh minh,
U Yên đất cũ, cảnh tình trêu ngươi,
Trăm hoa nửa khóc nửa cười,
240. Như tuồng xiêu lạc gặp người cố hương.
Cỏ cây gie nhánh đón đường,
Như tuồng níu hỏi Đông hoàng ở đâu?
Bên non đá cụm cúi đầu,
Như tuồng oan khúc, lạy cầu cứu sinh.
245. Líu lo chim nói trên cành,
Như tuồng kể mách tình hình dân đau.
Gió tre hiu hắt theo sau,
Như tuồng xúi dục đi mau tìm thầy.
Dưới non suối chảy kêu ngầy,
250. Như tuồng nhắn hỏi sự này bởi ai?
Hai người nhìn thấy than dài,
Cho hay non nước nhiều loài trông xuân,
Mưa sầu gió thảm biết chừng nào thanh!
255. Mảng xem cảnh cũ thương tình,
Nào hay lạc nẻo lộ trình ải xưa.
Cùng nhau ngơ ngẩn ngày trưa,
Lại may gặp bạn cỡi lừa ngâm thơ.
Hai người dừng gót đứng chờ,

260. Lắng nghe du sĩ lời thơ ngâm rằng:
Trời đông sùi sụt gió mưa tây,
Đau ốm lòng dân cậy có thầy,
Phương cũ vua tôi gìn trước mắt,
Mạng nay già trẽ gửi trong tay.
Trận đồ tám quẻ còn non nước,
Binh pháp năm mùi sẵn cỏ cây.
Hỡi bạn Y lâm ai muốn hỏi,
Đò xưa bến cũ có ta đây.

Lời bình: 

Trong hồi 2, câu chuyện tiếp tục phát triển với những luận điểm về y thuật và trách nhiệm của người thầy thuốc. Nguyễn Đình Chiểu dùng hình ảnh Ngư và Tiều để ẩn dụ cho những đối tượng khác nhau trong xã hội, đặc biệt là sự phân biệt giữa người giàu và người nghèo khi tiếp cận y học.

Lời văn sắc bén, tác giả phản ánh rõ nét sự bất bình đẳng trong việc chữa bệnh thời bấy giờ, đồng thời khẳng định vai trò không thể thiếu của lòng nhân đạo trong ngành y.

9/ Hồi 03 – Ngư Tiều y thuật vấn đáp

Ngâm rồi thoạt thấy Tiều, Ngư,
Vội vàng Đạo Dẫn truỵ lư cười ngầm.
Chào rằng: này kẻ tri âm!
Ngày nay lại đến Y lâm cầu gì?
265. Ngư rằng: Đem bạn cố tri,
Đồng lòng tìm đến Nhân Sư học hành.
Dẫn rằng: Hai chữ “phù sinh”
Người non, kẻ nước, phận đành tiều, ngư.
Bấy lâu sao chẳng tầm sư,
270. Đến nay lại có công dư học nghề?
Tiều rằng: Thời vận bất tề,
Thêm lầm thầy thuốc làm bê việc nhà.
Ngư rằng: Ta nghĩ giận ta,
Bởi thương con vợ mới ra hết tiền.
275. Dẫn rằng: Trong cõi trần duyên,
Hay người chưa trả rồi tiền nợ vay.
Người xưa ba chuyến gãy tay,
Tức mình học thuốc, mới hay làm thầy,
Tiều rằng: Mấy cụm rừng y,
Đều noi đường cái Hiên Kỳ trổ ra.
285. Một ngày suối chảy một xa
Rốt dòng lại có chính tà khác nhau.
Ngư rằng: Cách trở bấy lâu,
Đường đi ngày trước lạc đâu khôn tầm.
Dẫn rằng: Đây thật Y lâm,
290. Nhân khu ải khỏi, nào lầm chớ e!
Ngư rằng: Dặm cũ vắng hoe,
Mình tuy có thấy, không nghe biết gì.
Dẫn rằng: Đó chớ vội đi,
Ngày nay chưa gặp Tôn Sư ở nhà.
295. Đến am Bảo Dưỡng theo ta,
Nghỉ chơi vài bữa, rồi qua Đan Kỳ.
Ngư, Tiều theo Đạo Dẫn đi,
Ở am Bảo Dưỡng một khi vui vầy.
Ba người kết bạn đông tây,
300. Chuyện trò sách thuốc, lối này hỏi nhau.
Ngư rằng: Trước ải Nhân Khu,
Mười hai kinh lạc, cạn sâu chưa tường,
Dẫn rằng: Ba âm, ba dương,
Ba ba số bội, chia đường hai bên,
305. Tay chân tả hữu hai bên,
Âm dương đều sáu, dưới trên buộc ràng.

Thập nhị kinh lạc ca (Bài ca về mười hai kinh lạc)
Dịch nghĩa:
Kinh Thủ Thái dương thông với ruột non,
Kinh Túc Thái dương thông với bọng đái,
Kinh Thủ Dương minh thông với ruột già,
Kinh Túc Dương minh thông với dạ dày,
Kinh Thủ Thiếu dương thông với tam tiêu,
Kinh Túc Thiếu dương thông với mật,
Kinh Thủ Thái âm thông với phổi,
Kinh Túc Thái âm thông với lá lách,
Kinh Thủ Thiếu âm thông với trái tim,
Kinh Túc Thiếu âm thông với thận,
Kinh Thủ Quyết âm thông với màng tim,
Kinh Túc Quyết âm thông với gan.

Hựu hữu ca (Lại có bài ca rằng)
Dịch nghĩa:
Kinh Thái dương thuộc thuỷ, úng với Thìn, Tuất,
thông với ruột non, bọng đái,
Kinh Dương minh thuộc kim, ứng với Mão, Dậu,
thông với ruột già, dạ dày,
Kinh Thiếu dương thuộc hoả, ứng với Dần, Thân,
thông với tam tiêu và mật,
Kinh Thái âm thuộc thổ, ứng với Sửu, Mùi,
thông với phổi và lá lách,
Kinh Thiếu âm thuộc hoả, ứng với Tý, Ngọ,
thông với tim và thận,
Kinh Quyết âm thuộc mộc, ứng với Tỵ, Hợi,
thông với màng tim và gan.

Ngư rằng: Kinh lạc là tiêu,
Chỗ nào khí huyết ít nhiều biết đâu.
Dẫn rằng: Khí huyết nhân khu,
310. Ta từng coi sách, thấy câu ca rằng:

Thập nhị kinh lạc khí huyết đa thiểu ca
(Bài ca về khí huyết nhiều ít của mười hai kinh lạc)
Dịch nghĩa:
Nhiều khí, nhiều huyết, anh nên nhớ:
Kinh Thủ Dương minh tức ruột già, và
Kinh Túc Dương minh tức dạ dày.
Ít huyết, nhiều khi, có sáu kinh:
Tam tiêu, mật, thận, tim, lá lách, và phổi.
Nhiều huyết, ít khí chia ra bốn kinh:
Bọng đái, ruột non, màng, tim và gan.

Lời bình: 

Hồi 3 đi sâu hơn vào các vấn đề triết lý về y thuật và cuộc sống. Nguyễn Đình Chiểu sử dụng đối thoại giữa hai nhân vật để làm rõ hơn tư tưởng của mình về y học và đạo đức.

Ông khuyến khích việc hành nghề y phải vì cái tâm trong sáng, không vì lợi nhuận cá nhân. Đây là bài học đạo đức mà tác giả muốn gửi gắm, vừa đậm tính triết lý vừa thiết thực với cuộc sống.

10/ Hồi 04 – Ngư Tiều y thuật vấn đáp

Ngư rằng: Kinh lạc nhiều đàng,
Người đau nhiều chứng, biết toan lẽ nào?
Dẫn rằng: Chớ hỏi thầy cao,
bệnh nào thuốc nấy đem vào đường kinh.
315. Tiều rằng: Xin hỏi tiên sinh,
lệ trong năm tạng, ghi hình trạng sao?
Dẫn rằng: Tổ có lời rao:
Tạng can thuộc mộc, cây rào mùa xuân.
Sắc xanh, con mắt là chừng,
320. Hoa ra giáp móng, dày gân buộc lèo.
Giấu hồn, đựng máu, tiếng kêu,
Vị toan, nước mắt, mạch nêu chữ Huyền.
Quyết âm kinh túc ấy truyền,
Hợp cùng phủ đảm, ngôi liền ngoài trong.
325. Tạng tâm thuộc hoả, mạch Hồng,
Mùa hè, sắc đỏ, chừng trong lưỡi này.
Giấu thần, nuôi máu, ở đây,
Đắng mùi, tiếng nói, nước vầy buồn hôi.
Thiếu âm kinh thủ phải rồi,
330. Hợp cùng ngoại phủ, rằng ngôi tiểu trường.
Tạng tỳ thuộc thổ sắc vàng,
Vượng theo tứ quý, đều tàng ý vui.
Miệng chừng, nước dãi, ngọt mùi,
Tiếng ca, mạch Hoãn, hay nuôi thịt hình.
335. Thái âm kinh túc đã đành,
Hợp cùng phủ vị, ngôi giành trung châu.
Tạng phế thuộc kim, mạch Phù,
Vị cay, sắc trắng, mùa thu, phách ròng.
Giấu hơi, nuôi khắp da, lông,
340. Mùi chừng, tiếng khóc, nước trong mũi thường.
Thái âm kinh thủ cho tường,
Hợp cùng ngoại phủ đại trường ấy thông.
Tạng thận thuộc thuỷ, mùa đông,
Sắc đen vị mặn, chi dùng nuôi xương,
345. Tiếng rên, nước nhỏ hôi ươn,
Hai tai chừng đó, giữ phương mạch Trầm.
Phần về kinh Túc Thiếu âm,
Hợp bàng quang phủ, gìn cầm hoá nguyên.
Tiều rằng: Nam tạng đã biên,
350. Kìa như sáu phủ, xin liền nói ra.
Dẫn rằng: Cái mật người ta,
Tượng theo xuân mộc, kinh là thiếu dương.
Đảm ngoài làm phủ cho can,
Tóm vào muôn mối, việc toan lo lường.
355. Mấy chiều ruột nhỏ tiểu trường,
Tượng theo hạ hoả, thái dương kinh cầm.
Ở ngoài làm phủ cho tâm,
Nước trôi đem xuống đặng dầm nguồn sinh.
Vị là kinh Túc Dương minh,
360. Đựng theo đất chứa, việc mình uống ăn,
Bao nhiêu nước, xác chứa ngăn,
Phát ra các chỗ, chịu bằng quan ty.
Ở ngoài làm phủ cho tỳ,
Cái bao tử ấy thật ghi công dày.
365. Đại trường ruột lớn liền đây,
Dương minh kinh thủ, tượng vầy thu câm (kim).
Ngôi theo nhờ phế hơi cầm,
Vật ăn bã xác xuống hầm phẩn ra,
Bàng quang thật bọng đái ta,
370. Tượng theo đông thuỷ, kinh là thái dương.
Ngôi theo ngoài chốn thận hương,
Hoá hơi nước xuống, làm đường niệu tân.
Tam tiêu phủ ấy ba tầng,
Kiêm trên, giữa, dưới, gọi rằng tam tiêu.
375. Trên thâu ăn uống, nạp nhiều,
Giữa chia trong đục, dưới điều gạn ra.
Làm đường nước xác trải qua,
Nhờ ba hơi ấy tiêu hoà máu, hơi.
Trước sau bủa khắp ba hơi,
380. Thiếu dương kinh thủ thật nơi dinh người.
Tiều rằng: Kinh lạc mười hai,
Tạng phủ mười một biết hài thế sao?
Dẫn rằng: Trước có lời rao:
Quyết âm kinh thủ, tâm bào lạc nêu.
385. Tâm bào cùng phủ tam tiêu,
Trong ngoài hai ấy chia đều âm, dương.
Muốn làm thầy đặng chữ “lương”,
Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư.
Rồi đây hỏi lại Nhân Sư,
390. Xin phân chứng thực, chứng hư cho rành.
Ngư rằng: Kìa bến Ngũ Hành,
Chia ra nẻo khắc, nẻo sinh làm gì?
Dẫn rằng: Trên, dưới hai nghi,
Có năm hành ấy, hoa ky (cơ) xây vần.
395. Mộc, kim, thuỷ, hoả, thổ phân,
Sinh: phần ấy tốt, khắc: phần ấy hư.
Muốn cho rõ lẽ nên hư,
Coi lời sinh khắc tổ sư ca rằng:

Ngũ hành tương sinh ca
(Bài ca về ngũ hành tương sinh)
Dịch nghĩa:
Mộc sinh hoả chừ, hoả sinh thổ,
Thổ sinh kim chừ, kim sinh thuỷ,
Thuỷ sinh mộc chừ, năm mối sinh,
Trong khoảng trời đất đều tốt lành.

Ngũ hành tương khắc ca
(bài ca về ngũ hành tương khắc)
Dịch nghĩa:
Mộc khắc thổ chừ, thổ khắc thuỷ,
Thuỷ khắc hoả chừ, hoả khắc kim,
Kim khắc mộc chừ, năm mối khắc,
Trong khoảng trời đất thảy tai ương.

Lời bình: 

Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục khai thác sâu về triết lý nhân sinh, với hình tượng thầy thuốc phải biết từ bi, nhân ái và hết lòng vì bệnh nhân. Câu chuyện nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học hỏi, không chỉ là y thuật mà còn là tri thức về con người và xã hội.

Tác giả thông qua hình ảnh Ngư và Tiều để truyền đạt những bài học về sự giản dị, lòng trung thực và ý nghĩa của việc sống có ích cho xã hội.

11/ Hồi 05 – Ngư Tiều y thuật vấn đáp

Ai mà rõ lẽ ngũ hành,
400. Việc trong trời đất dữ lành trước hay.
Trên thời mưa móc, gió mây,
Dưới thời non nước, cỏ cây muôn loài.
Giữa thời nhà cửa, đền đài,
Năm hành tóm việc ba tài nhỏ to.
405. Ví dù tạo hoá mấy lò,
Hoá công mấy thợ, một pho ngũ hành.
Muốn coi phép ấy cho tinh,
Đồ thư Hà Lạc, Dịch kinh rõ bàn.
Ngư rằng: Nơi ải Thiên Can,
410. Có non Ngũ Vận để toan việc gì?
Chưa hay chủ vận là chi?
Lại thêm khách vận, sách ghi rộn ràng?
Dẫn rằng: Mười chữ thiên can,
Anh em thứ lớp, rõ ràng chẳng sai.
415. Anh em một gái, một trai,
Âm dương chia khác, lâu đài năm phương,
Giáp, Ất: mộc, ở đông phương,
Bính, Đinh: hoả, ở nam phương tỏ tường.
Mậu, Kỷ: thổ, ở trung ương,
420. Canh, Tân: kim, ở tây phương ấy thường.
Nhâm, Quý: thuỷ, ở bắc phương,
Đều rằng chủ vận, sử đương việc trời.
Năm ngôi chủ vận chẳng dời,
Ngôi nào theo nấy, có lời thơ xưa.

Chủ vận thi
(Bài thơ về chủ vận)
Dịch nghĩa:
Mộc vận bắt đầu từ tiết Đại hàn;
Hoả vận bắt đầu từ ba ngày trước tiết Thanh minh;
Thổ vận bắt đầu từ ba ngày sau tiết Mang chủng;
Kim vận bắt đầu từ sáu ngày sau tiết Lập thu;
Thuỷ vận bắt đầu từ chín ngày sau tiết Lập đông;
Hết vòng rồi trở lại từ đầu, muôn năm vẫn như vậy.

425. Năm nhà đều có túc duyên,
Vợ chồng phối hợp, tách miền theo nhau.
Anh Giáp, chị Kỷ cưới nhau,
Hoá ra vận thổ, trước sau chẳng lầm.
Ất, Canh hợp lại hoá câm,
430. Đinh, Nhâm hợp lại hoá trầm mộc cây.
Bính, Tân hoà thuỷ nước đầy,
Anh Mồ, chị Quý hoá vầy hoả quang.
Muốn coi năm hoá tạo đoan.
Gọi rằng khách vận, này chàng nghe thơ.

Khách vận thi
(Bài thơ về khách vận)
Dịch nghĩa:
Giáp Kỷ hoá ra thổ, Ất Canh hoá ra Kim,
Đinh Nhâm hoá ra mộc, tất cả thành rừng,
Bính tân hoá ra thuỷ, chảy đi cuồn cuộn,
Mậu Quý hoá ra hoả, bốc lên thành ngọn lửa ở phương Nam.

Lời bình: 

Hồi 5 kết lại bằng một triết lý sâu sắc về nhân sinh và vai trò của con người trong việc xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái. Nguyễn Đình Chiểu khẳng định rằng, nghề y không chỉ đơn thuần là chữa bệnh mà còn là một sứ mệnh cao cả, đòi hỏi sự cống hiến và lòng yêu thương con người.

Những bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu giai đoạn sau

Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu ở giai đoạn sau, khi thực dân Pháp chiếm Gia Định có gắn bó mật thiết với đời sống của người dân. Ông lên án mạnh mẽ quân Pháp, phê phán triều đình và ca gợi tinh thần dùng cảm, nghĩa khí của những anh hùng dân tộc.

Với số lượng tác phẩm đồ sộ, không ngoa khi nhận xét đây là giai đoạn cao trào, rực rỡ nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông.

1/ Chạy giặc

Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?

Lời bình: 

Chạy giặc là một trong những bài thơ hay của Nguyễn Đình Chiểu phản ánh sự hoảng loạn và đau thương của người dân Nam Kỳ trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Qua những câu thơ khắc họa cảnh chạy loạn, Nguyễn Đình Chiểu đã tả lại sự tàn bạo của thực dân xâm lược, đồng thời gửi gắm nỗi đau xót trước sự mất mát quê hương.

Bài thơ không chỉ là tiếng nói của tác giả mà còn là của cả dân tộc trong hoàn cảnh khốn cùng. Ngôn ngữ mộc mạc, chân thật, nhưng đậm chất bi tráng, bài thơ đã trở thành một áng thơ yêu nước tiêu biểu trong văn học Việt Nam.

Tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu
Chạy Giặc

2/ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Hỡi ơi!
Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.

Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Khá thương thay:
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.

Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.

Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.

Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.

Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.

Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.

Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.

Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?

Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.

Ôi thôi thôi!
Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Ôi!
Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.

Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.

Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.

Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.

Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.

Lời bình: 

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm văn học yêu nước nổi bật của Nguyễn Đình Chiểu, ca ngợi sự anh dũng của các nghĩa sĩ nông dân đã hi sinh trong trận chiến chống Pháp. Bài văn tế không chỉ là sự tưởng nhớ, mà còn là sự tôn vinh tinh thần yêu nước, sẵn sàng hi sinh vì độc lập dân tộc.

Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng ngôn ngữ bi tráng, hào hùng, kết hợp với lối viết tế đậm tính truyền thống, khiến bài văn tế trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc của văn học yêu nước Việt Nam thế kỷ 19.

3/ Từ biệt cố nhân

Vì câu danh nghĩa phải đi ra,
Day mũi thuyền nan dạ xót xa.
Người dễ muốn chi nương đất khách,
Trời đà khiến vậy mến vua ta.
Một phương thà tránh đường gai gốc,
Trăm tuổi cho tròn phận tóc dạ.
Chén rượu ấm lòng xin cạn chén,
Nhớ nhau ngày khác biết sao mà.

Lời bình: 

Bài thơ thể hiện nỗi đau đớn và tiếc nuối của Nguyễn Đình Chiểu khi phải chia tay người thân và bạn bè trong thời kỳ biến loạn. Với những hình ảnh buồn bã, u sầu, bài thơ không chỉ phản ánh tâm trạng của tác giả mà còn là tiếng lòng của bao người trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc.

Thơ Nguyễn Đình Chiểu luôn mộc mạc, chân chất, nhưng đằng sau đó là những tâm sự sâu kín, đầy ý nghĩa về tình nghĩa và lòng trung thành.

4/ Điếu Trương Định bài 01 – 05

Hồi 01 

Trong Nam tên họ nổi như cồn,
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn.
Dấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷ,
Hơi gươm thêm rạng thể hoàng môn.
Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ,
Cái ấn bình tây đất vội chôn.
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ,
Lâm dâm ba chữ điếu linh hồn.

Hồi 02 

Linh hồn nay đã tách theo thần,
Sáu tỉnh còn roi dấu tướng quân.
Mực sở lãnh binh lờ mắt giặc,
Son bằng ứng nghĩa thắm lòng dân.
Giúp đời dốc trọn ơn nam tử,
Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần.
Ốc ngỡ tướng tinh rày trổ mặt,
Giúp xong nhà nước buổi gian truân.

Hồi 03 

Gian truân kể xiết mấy nhiêu lần,
Vì nước đành trao một tấm thân.
Nghe chốn Lý Nhân người sảng sốt,
Nhìn cồn Đa Phước kiểng bâng khuâng.
Bát cơm Kê Lữ chi sờn buổi,
Mảnh áo Mông Nhung chẳng nệ phần.
Chí dốc ra tay nâng vạc ngã,
Trước sau cho trọn chữ quân thần.

Hồi 04 

Quân thần còn gánh nặng hai vai,
Lỡ dở công trình hệ bởi ai?
Trăm đám mộ binh vầy lớn nhỏ,
Một gò cô luỹ chống hôm mai.
Lương tiền nhà ruộng ba mùa trước,
Thuốc đạn ghe buôn bốn bể ngoài.
May rủi phải chăng trời cũng biết,
Một tay chống chỏi mấy năm dài.

Hồi 05 

Năm dài những mảng ngóng tin vua,
Nín nhục thầm toan lẽ được thua.
U kế năm hàng còn chỗ đoái,
Ngô Tôn trăm chước đợi ngày đua.
Bày lòng thần tử vài lời sớ,
Giữ mối giang san mấy điệu bùa.
Phải đặng tuổi trời cho mượn số
Cuộc nầy ngay vạy có phân bua.

Lời bình: 

Chuỗi năm bài thơ điếu Trương Định là tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện sự thương tiếc cho một vị anh hùng dân tộc đã hi sinh vì sự nghiệp chống Pháp. Mỗi bài thơ đều mang nặng tình cảm kính trọng và ngưỡng mộ của ông đối với Trương Định, người đã từ bỏ quan lộc để trở thành thủ lĩnh của phong trào kháng chiến.

Bài thơ sử dụng ngôn ngữ bi thiết, hào hùng, thể hiện nỗi đau xót trước cái chết của Trương Định nhưng đồng thời cũng ca ngợi tinh thần bất khuất, ý chí đấu tranh của ông. Những bài điếu này không chỉ là tiếng khóc cho một người anh hùng, mà còn là tiếng gọi thức tỉnh lòng yêu nước trong lòng dân tộc.

5/ Điếu Phan Công Tòng bài 01 – 05

Hồi 01

Thương ôi! người ngọc ở Bình Đông
Lớn nhỏ trong làng thảy mến trông.
Biết đạo khác bầy con mắt tục
Dạy dân nắm giữ tấm lòng công.
Đặng danh vừa rạng bề nhà cửa,
Vì nghĩa riêng đền nợ núi sông.
Một trận trải gan trời đất thấy,
So xưa nào thẹn tiếng anh hùng.

Hồi 02 

Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây
Một giấc sa trường phận cũng may.
Viên đạn nghịch thần treo trước mắt,
Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay.
Đầu tang ba tháng trời riêng đội,
Lòng giận nghìn thu đất nổi dày.
Tiếc mới một sồng ra đặt trụm.
Cài xên, con rã, nghĩ thương thay!

Hồi 03 

Thương thay! Tạo vật khuấy người ta,
Năm đổi làm Tây, chính lại tà.
Trống nghĩa bảo an theo sấm rạp,
Cờ thù công tử guộng mây qua.
Én vào nhà khác toan nào kịp,
Hươu thác tay ai vọi hỡi xa!
Trong số nên hư từng trước mắt,
Người ôi! trời vậy tính sao ra.

Hồi 04 

Sao ra nhảy nhót giữa vòng danh,
Son đóng chưa khô ấn đốc binh.
Đuốc gió nhẹ xao đường thuỷ thạch,
Cỏ hoa ngùi đọng cửa trâm anh,
Trên giồng lửa cháy cờ tam sắc,
Dưới gảnh đèn lờ bản thất tinh.
Dẫu khiến nghe can vùng đất hiểm,
Chờ trời nào đến tủi vong linh

Hồi 05 

Vong linh sớm gặp buổi đời suy
Trăm nét cân đo ít lỗi nghì.
Bóng bọt hình hài vừa lố thấy,
Ngút mây phú quý bỗng tan đi.
Sinh năm mươi tuổi ăn chơi mấy,
Quan bảy tám ngày sướng ích chi.
E nỗi dạ đài quan lớn hỏi,
Cớ sao xếu mếu cỏi Ba Tri.

Lời bình: 

Các bài điếu Phan Công Tòng của Nguyễn Đình Chiểu là những lời tri ân và tưởng nhớ đối với một nhân vật lịch sử khác của phong trào chống Pháp. Phan Công Tòng là người đã cùng với các nghĩa sĩ nông dân đấu tranh cho độc lập dân tộc. Sự hi sinh của ông để lại một dấu ấn sâu đậm trong lòng tác giả.

Qua các bài điếu, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện lòng kính trọng đối với lòng dũng cảm và tinh thần bất khuất của Phan Công Tòng. Ngôn ngữ thơ của ông, mặc dù giản dị, nhưng lại chứa đựng nhiều xúc cảm và ý nghĩa sâu sắc, không chỉ đối với nhân vật mà còn đối với cả dân tộc trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước.

Lời kết

Thơ Nguyễn Đình Chiểu mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với vận mệnh đất nước. Dù sáng tác ở giai đoạn trước hay giai đoạn sau khi thực dân Pháp chiếm Gia Định, các tác phẩm của ông đều đề cao tấm lòng nhân nghĩa, đồng thời thể hiện tinh thần yêu nước thương dân.

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *