Tổng hợp những bài thơ Nguyễn Du nổi tiếng
Thơ Nguyễn Du thay cho lời nói của những người nông dân thuộc tầng lớp thấp cổ bé họng, bị áp bức, vùi dập xuống đáy xã hội. Từ những tác phẩm thơ chữ Nôm đến chữ Hán, ông đều khắc họa hiện thực và sự bất công trong xã hội phong kiến xưa.
Điểm qua các tác phẩm của Nguyễn Du
Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du (1765 – 1820) được tôn vinh là Danh nhân Văn hóa Thế giới với nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học nói riêng và văn hóa xã hội nói chung. Các bài thơ của Nguyễn Du luôn được xem như di sản văn hóa, từng câu từng chữ trong thơ mang đậm giá trị nghệt thuật, nhân văn.
Nhờ tài năng sử dụng ngôn ngữ giàu cảm xúc và tinh tế, thơ Nguyễn Du chứa đựng những bài học về đạo đức, về sự cảm thông đối với con người bất hạnh. Ông chẳng ngại lên án bất công trong xã hội phong kiến, đồng thời khắc họa chân thực nỗi bất hạnh của con người trong thời kì đó.
Dưới đây là các tác phẩm của Nguyễn Du thuộc thể loại thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán:
Thơ chữ Nôm
- Truyện Kiều (3254 câu).
- Văn chiêu hồn (184 câu).
Thơ chữ Hán
- Thanh Hiên thi tập (78 bài).
- Nam Trung tạp ngâm (40 bài).
- Bắc Hành tạp lục (132 bài).
Một số bài thơ Nguyễn Du bằng chữ Nôm
Dưới đây là tuyển tập một số đoạn thơ bằng chữ Nôm trong tuyệt tác Truyện Kiều giúp bạn hiểu hơn phong cách sáng tác của Nguyễn Du:
Truyện Kiều: Hồi 1
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
5. Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình có lục còn truyền sử xanh.
Rằng: năm Gia Tĩnh triều Minh,
10. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung,
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.
15. Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
20. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
25. Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
30. Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.
35. Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Lời bình:
Hồi 1 mở đầu với lời giới thiệu về gia đình Thúy Kiều và những nhân vật chính của câu chuyện. Nguyễn Du sử dụng ngôn ngữ tinh tế để miêu tả vẻ đẹp và đức hạnh của Thúy Kiều, Thúy Vân, và Kim Trọng. Đoạn thơ nổi bật với lối tả người thông qua tả cảnh, tạo nên sự so sánh tuyệt vời giữa hai chị em. Ẩn sau đó là dự cảm về số phận bấp bênh của Thúy Kiều, người mang sắc đẹp và tài năng, nhưng cũng đồng thời chịu nhiều đau khổ.
Truyện Kiều: Hồi 2
Ngày xuân con én đưa thoi,
40. Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh, trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
45. Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
50. Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
55. Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đường,
Dầu dầu ngọn cỏ, nửa vàng nửa xanh,
Rằng: Sao trong tiết Thanh minh,
60. Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
Vương Quan mới dẫn gần xa:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài của, hiếm gì yến anh.
65. Phận hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân, thoắt gẫy cành thiên hương
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi
Thuyền tình vừa ghé đến nơi,
70. Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ!
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên bấy là mình với ta.
75. Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút ước gọi là duyên sau.
Sắm sanh nếp tử, xe châu,
Vùi nông một nấm, mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn, ác tà,
80. Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
Lòng đâu sẵn món thương tâm
Thoạt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa:
Đau đớn thay, phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
85. Phũ phàng chi bấy Hoá công!
Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay! Thác xuống làm ma không chồng!
Nào người phượng chạ, loan chung,
90. Nào người tiếc lục tham hồng là ai?
Đã không kẻ đoái, người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Hoạ là người dưới suối vàng biết cho.
95. Lâm râm khấn khứa nhỏ to
Sụp ngồi, vài gật trước mồ, bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một và bông lau.
Rút trâm sẵn dắt mái đầu
100. Vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần,
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra
Lại càng ủ dột nét hoa
Sầu tuôn đứt nối, chân sa vắn dài!
105. Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt, khóc người đời xưa!
Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
110. Thấy người nằm đó, biết sau thế nào?
Quan rằng: Chị nói hay sao,
Mỗi lời là một vận vào khó nghe!
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngã, dậm về còn xa.
115. Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem, ắt thấy hiển linh bây giờ.
Một lời nói chửa kịp thưa,
120. Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay,
Ào ào đổ lộc, rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều
Dè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành
125. Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển, mới là chị em.
Đã lòng hiển hiện cho xem,
130. Tạ lòng, nàng lại nối thêm vài lời
Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây, lại vạch một bài cổ thi.
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
135. Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau lưng theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu dòn,
140. Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh, cành giao
145. Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,
150. Văn chương nết đất, thông minh tính trời
Phong tư tài mạo tuyệt vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa
Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.
155. Trộm nghe thơm nức hương lân,
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm dấu, thầm yêu chốc mòng.
May thay giải cấu tương phùng,
160. Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan, thu cúc, mặn mà cả hai
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
165. Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn
Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo
Dưới dòng nước chảy trong veo,
170. Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Lời bình:
Hồi 2 kể về cuộc gặp gỡ định mệnh giữa Thúy Kiều và Kim Trọng trong lễ Thanh minh. Không chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ, đây còn là dấu hiệu khởi đầu cho mối tình say đắm nhưng đầy trắc trở. Nguyễn Du tả cảnh mùa xuân và lễ hội thật tươi vui, sống động, nhưng lại đặt trong đó nỗi lo về tương lai bấp bênh của tình yêu đôi lứa, với những dự báo về sự xa cách và đau thương.
Truyện Kiều: Hồi 6
Trông chừng khói ngất song thưa
Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng
Tần ngần dạo ngót lầu trang
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về
575. Hàn huyên chưa kịp giãi giề
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao:
Người nách thước, kẻ tay đao,
Đầu trâu, mặt ngựa, ào ào như sôi
Già giang một lão một trai
580. Một dây vô lại buộc hai thâm tình
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh
Rụng rời khung cửi, tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham
585. Điều đâu bay buộc ai làm?
Này ai đan giậm, giật giàm bỗng dưng?
Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất tại thằng bán tơ.
Một nhà hoảng hốt, ngẩn ngơ
590. Tiếng oan dậy đất, án ngờ loà mây
Hạ từ van lạy suốt ngày,
Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan lọ người!
595. Mặt trông đau đớn rụng rời
Oan này còn một kêu trời nhưng xa
Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền?
600. Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao?
Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình, bên hiếu, bên nào nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành
605. Quyết tình, nàng mới hạ tình:
Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!
Họ Chung có kẻ lại già,
Cũng trong nha dịch, lại là từ tâm,
Thấy nàng hiếu trọng tình thâm
610. Vì nàng, nghĩ cũng thương thầm xót vay
Tính bài lót đó luồn đây,
Có ba trăm lượng, việc này mới xuôi,
Hãy về tạm phó giam ngoài,
Dặn nàng qui liệu trong đôi ba ngày.
615. Thương lòng con trẻ thơ ngây
Gặp cơn vạ gió, tai bay bất kỳ.
Đau lòng tử biệt sinh ly!
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên!
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn
620. Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân
Sự lòng ngỏ với băng nhân
Tin sương đồn đại, xa gần xôn xao
Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
625. Hỏi tên rằng: Mã Giám Sinh;
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
Trước thầy, sau tớ, xôn xao
630. Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
635. Ngại ngùng dín gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày
Mối càng vén tóc bắt tay
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai
Đắn đo cân sắc cân tài
640. Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa
Bằng lòng khách mới tuỳ cơ dặt dìu
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.
645. Mối rằng: Đáng giá nghìn vàng,
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lân ngã giá vàng ngoài bốn trăm
Một lời thuyền đã êm dầm
650. Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi
Định ngày nạp thái vu quy
Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong!
Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà
655. Thương tình con trẻ cha già
Nhìn nàng, ông những máu sa, ruột dầu
Nuôi con những ước về sau
Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi
Trời làm chi cực bấy trời!
660. Này ai vu thác, cho người hợp tan?
Búa rìu bao quản thân tàn,
Nỡ đày doạ trẻ, càng oan khốc già
Một lần sau trước cũng là
Thôi thì mặt khuất, chẳng thà lòng đau!
665. Theo lời càng chảy dòng châu
Liều mình, ông đã gieo đầu tường vôi
Vội vàng kẻ giữ người coi
Nhỏ to, nàng lại tìm lời khuyên can:
Vẻ chi một mảnh hồng nhan
670. Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?
Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành
675. Lòng tơ dầu chẳng dứt tình
Gió mưa âu hẳn tan tành nước non
Thà rằng liều một thân con
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây
Phận sao đành vậy cũng vầy
680. Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh
Cũng đừng tính quẩn lo quanh
Tan nhà là một, thiệt mình là hai.
Phải lời ông cũng êm tai
Nhìn nhau giọt ngắn, giọt dài ngổn ngang
685. Mái ngoài họ Mã vừa sang
Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao
Trăng già độc địa làm sao!
Cầm dây chẳng lựa, buộc vào tự nhiên!
Trong tay đã sẵn đồng tiền
690. Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì,
Họ Chung ra sức giúp vì!
Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong
Việc nhà đã tạm thong dong
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về
Lời bình:
Hồi 6 tập trung vào giai đoạn Thúy Kiều hy sinh bản thân để cứu gia đình. Sau khi biết cha bị oan, Kiều đã quyết định bán mình chuộc cha. Đoạn này thể hiện rõ tấm lòng hiếu thảo và đức hy sinh của Kiều, đồng thời cũng phản ánh sự bất lực của con người trước những bất công xã hội. Nguyễn Du dùng ngôn ngữ cảm động để miêu tả tâm trạng Kiều, từ đau đớn đến quyết tâm hy sinh vì nghĩa lớn.
Truyện Kiều: Hồi 7
695. Một mình nàng, ngọn đèn khuya
Áo dầm giọt lệ, tóc se mái sầu
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi
700. Vì ta khắng khít cho người dở dang
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa!
Trời Liêu non nước bao xa,
Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà tự tôi!
705. Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai
Nợ tình chưa trả cho ai
710. Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan!
Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn
Dầu chong trắng dã, lệ tràn thấm khăn
Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
715. Cơ trời dâu bể đa đoan
Một nhà để chị riêng oan một mình
Cớ gì ngồi nhẫn tàn canh
Nỗi riêng còn mắc với tình chi đây?
Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
720. Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong
Hở môi ra cũng thẹn thùng
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai!
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa:
725. Giữa đường đứt gánh tương tư
Giao loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kỳ
730. Hiếu tình có lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non
Chị dầu thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
735. Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dầu em nên vợ, nên chồng,
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
740. Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau, dầu có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này;
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
745. Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan
Bây giờ trâm gãy bình tan
750. Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân!
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
755. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!
Cạn lời, hồn ngất máu say
Một hơi lạng ngắt, đôi tay lạnh đồng
Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng
760. Một nhà tấp nập, kẻ trong người ngoài
Kẻ thang, người thuốc bời bời
Mới giầu cơn vựng, chưa phai giọt hồng
Hỏi: Sao ra sự lạ lùng?
Kiều càng nức nở, mở không ra lời
765. Nỗi nàng, Vân mới rỉ tai:
Chiếc vành này với tờ bồi ở đây…
Này cha làm lỗi duyên mày,
Thôi thì nỗi ấy sau này đã em!
Vì ai rụng cải, rơi kim
770. Để còn bèo nổi, mây chìm vì ai?
Lời con dặn lại một hai
Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng!
Lạy thôi, nàng lại rén chiềng:
Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi
775. Sá chi thân phận tôi đòi
Dẫu rằng xương trắng quê người, quản đâu!
Xiết bao kể nỗi thảm sầu!
Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
780. Quản huyền đâu đã giục người sinh ly
Đau lòng kẻ ở, người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm
Trời hôm, mây kéo tối rầm
Dầu dầu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương
785. Rước nàng về đến trú phường,
Bốn bề xuân toả, một nàng ở trong
Ngập ngừng thẹn lục e hồng
Nghĩ lòng, lại xót xa lòng đòi phen
Phẩm tiên rơi đến tay hèn
790. Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai!
Biết thân đến bước lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung!
Vì ai ngăn đón gió đông
Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi
795. Trùng phùng dầu hoạ có khi
Thân này thôi có còn gì mà mong!
Đã sinh ra số long đong,
Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?
Trên yên sẵn có con dao
800. Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn
Phòng khi nước đã đến chân,
Dao này thì liệu với thân sau này.
Lời bình:
Hồi 7 miêu tả cảnh Kiều bị lừa bán vào lầu xanh. Ở đây, Nguyễn Du đã khắc họa sâu sắc nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Kiều khi phải đối mặt với thực tại tàn khốc. Lời bình về sự bất công và tàn bạo của xã hội phong kiến đã được lồng ghép khéo léo qua những dòng thơ, khiến người đọc cảm nhận được sự oan nghiệt mà số phận đã sắp đặt cho Kiều.
Truyện Kiều: Hồi 8
Đêm thu một khắc một chầy,
Bâng khuâng như tỉnh như say một mình
805. Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một đứa phong tình đã quen
Quá chơi lại gặp hồi đen
Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa
Lầu xanh có mụ Tú Bà,
810. Làng chơi đã trở về già hết duyên
Tình cờ chẳng hẹn mà nên
Mạt cưa mướp đắng, đôi bên một phường
Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề
815. Dạo tìm khắp chợ thì quê
Giả danh hầu hạ, dạy nghề ăn chơi
Rủi may, âu cũng sự trời
Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên
Xót nàng chút phận thuyền quyên
820. Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn
Mẹo lừa đã mắc vào khuôn
Sính nghi rẻ giá, nghinh hôn sẵn ngày
Mừng thầm cờ đã đến tay
Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng
825. Đã nên quốc sắc, thiên hương
Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa!
Về đây nước trước bẻ hoa
Vương tôn, quý khách, ắt là đua nhau
Hẳn ba trăm lạng kém đâu
830. Cũng đà vừa vốn, còn sau là lời.
Miếng ngon kề đến tận nơi
Vốn nhà cũng tiếc, của trời cũng tham
Đào tiên đã bén tay phàm
Thì vin cành quít cho cam sự đời
835. Dưới trần mấy mặt làng chơi,
Chơi hoa, đã dễ mấy người biết hoa!
Nước vỏ lựu, máu mào gà
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên
Mập mờ đánh lận con đen,
840. Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền, mất chi?
Mụ già hoặc có điều gì
Liều công mất một buổi quỳ mà thôi
Vả đây đường sá xa xôi
Mà ta bất động, nữa người sinh nghi.
845. Tiếc thay một đoá trà mi!
Con ong đã mở đường đi lối về
Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương
Đêm xuân một giấc mơ màng
850. Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ
Giọt riêng tầm tã tuôn mưa
Phần căm nỗi khách, phần dơ nỗi mình
Tuồng chi là giống hôi tanh!
Thân nghìn vàng để ô danh má hồng!
855. Thôi còn chi nữa mà mong
Đời người thôi thế là xong một đời!
Giận duyên, tủi phận, bời bời
Cầm dao, nàng đã toan bài quyên sinh
Nghĩ đi nghĩ lại một mình:
860. Một mình thì chớ, hai tình thì sao?
Sau dầu sinh sự thế nào
Truy nguyên chẳng kẻo luỵ vào song thân
Nỗi mình âu cũng giãn dần
Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi!
865. Những là đo đắn ngược xuôi
Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường
Lầu mai vừa rúc còi sương
Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi
Đoạn trường thay lúc phân kỳ
870. Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh
Bề ngoài mười dặm trường đình
Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo
Ngoài thì chủ khách dập dìu
Một nhà huyên với một Kiều ở trong
875. Nhìn càng lã chã giọt hồng
Rỉ tai, nàng mới giải lòng thấp cao:
Hổ sinh ra phận thơ đào,
Công cha, nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
Lỡ làng nước đục, bụi trong
880. Trăm năm để một tấm lòng từ đây
Xem gương trong bấy nhiêu ngày
Thân con chẳng kẻo mắt tay bợm già:
Khi về, bỏ vắng trong nhà,
Khi vào dùng dắng, khi ra vội vàng
885. Khi ăn, khi nói lỡ làng
Khi thầy, khi tớ, xem thường, xem khinh
Khác màu kẻ quý, người thanh
Ngắm ra cho kỹ, như tình con buôn
Thôi con, còn nói chi con,
890. Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người!
Vương bà nghe bấy nhiêu lời
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên
Vài tuần chưa cạn chén khuyên
Mái ngoài, nghỉ đã giục liền ruổi xe
895. Xót con lòng nặng chề chề
Trước yên ông đã nằn nì thấp cao:
Chúng thân yếu liễu thơ đào
Dớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi
Từ đây góc bể chân trời
900. Nắng mưa thui thủi, quê người một thân
Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng
Cạn lời khách mới thưa rằng:
Buộc chân, thôi cũng xích thằng nhiệm trao
905. Mai sau dầu đến thế nào
Kìa gương nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần!
Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay
Trông vời, gạt lệ, phân tay
910. Góc trời thăm thẳm, ngày ngày đăm đăm.
Nàng thì dặm khách xa xăm
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây
Vi lô san sát hơi may
Một trời thu để riêng ai một người
915. Dặm khuya ngất tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Rừng thu từng biếc chen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.
Lời bình:
Hồi 8 mô tả tình cảnh đau khổ của Kiều khi phải sống trong lầu xanh. Tuy nhiên, giữa đám mây đen của cuộc đời, Kiều vẫn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình. Nguyễn Du tả Kiều như một “bông sen trong bùn”, dù ở môi trường nào, Kiều vẫn tỏa sáng với vẻ đẹp và tài năng, nhưng đồng thời vẫn bị giam cầm bởi định mệnh và những quy luật khắc nghiệt của xã hội.
Truyện Kiều: Hồi 9
Những là lạ nước, lạ non
920. Lâm Chuy vừa một tháng tròn tới nơi
Xe châu dừng bánh cửa ngoài
Rèm trong đã thấy một người bước ra
Thoạt trông lờn lợt màu da
Ăn gì cao lớn, đẫy đà làm sao?
925. Trước xe lơi lả han chào
Vâng lời, nàng mới bước vào tận nơi
Bên thì mấy ả mày ngài
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi
Giữa thì hương lửa hẳn hoi
930. Trên treo một tượng trắng đôi lông mày
Lầu xanh quen thói xưa nay
Nghề này thì lấy ông này tiên sư
Hương hoa hôm sớm phụng thờ
Cô nào xấu vía, có thưa mối hàng
935. Cởi xiêm, lột áo chán chường
Trước thần, sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm
Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,
940. Cứ lời lạy xuống, mụ thì khấn ngay:
Cửa hàng buôn bán cho may
Đêm đêm hàn thực, ngày ngày nguyên tiêu
Muôn nghìn người thấy cũng yêu
Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai
945. Tin nhạn vẩn lá thư bài
Đưa người cửa trước, rước người cửa sau!
Lạ tai nghe chửa biết đâu
Xem tình ra cũng những màu dở dang
Lễ xong hương hoả gia đường
950. Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay
Dạy rằng: Con lạy mẹ đây,
Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia.
Nàng rằng: Phải bước lưu ly,
Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh
955. Điều đâu lấy yến làm anh
Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?
Đủ điều nạp thái vu quy;
Đã khi chung chạ, lại khi đứng ngồi
Giờ ra thay bậc đổi ngôi
960. Dám xin gửi lại một lời cho minh.
Mụ nghe nàng nói hay tình
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên:
Này này sự đã quả nhiên
Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi!
965. Bảo rằng: Đi dạo lấy người
Đem về rước khách kiếm lời mà ăn
Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân
Buồn mình trước đã tần mần thử chơi
Màu hồ đã mất đi rồi
970. Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
Con kia đã bán cho ta
Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây
Lão kia có giở bài bây,
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe?
975. Cớ sao chịu tốt một bề
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!
Phải làm cho biết phép tao!
Chập bì tiên, rắp sấn vào ra tay
Nàng rằng: Trời thẳm đất dày
980. Thân này đã bỏ những ngày ra đi!
Thôi thì thôi có tiếc gì!
Sẵn dao tay áo, tức thì giơ ra
Sợ gan, nát ngọc liều hoa
Mụ còn trông mặt, nàng đà quá tay
985. Thương ôi, tài sắc bậc này
Một dao oan nghiệt, dứt dây phong trần!
Nỗi oan vỡ lở xa gần
Trong nhà người chật một lầu như nêm
Nàng thì bằn bặt giấc tiên
990. Mụ thì cầm cập, mặt nhìn hồn bay
Lời bình:
Hồi 9 kể về cuộc gặp gỡ giữa Kiều và Thúc Sinh. Tình cảm của Thúc Sinh đối với Kiều là sự pha trộn giữa sự ngưỡng mộ và thương xót. Dù Thúc Sinh yêu thương Kiều và muốn giải cứu nàng, nhưng sự yếu đuối và thiếu dũng khí của anh đã khiến mối tình này đầy bi kịch. Nguyễn Du thông qua đó cũng phê phán sự bất công của xã hội đối với phụ nữ và tình yêu chân chính.
Truyện Kiều: Hồi 10
Vực nàng vào chốn hiên tây
Cắt người coi sóc, rước thầy thuốc men
Nào hay chưa hết trần duyên
Trong mê đường đã đứng bên một nàng
995. Rỉ rằng: Nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao!
Số còn nặng nghiệp má đào
Người dầu muốn quyết, trời nào đã cho?
Hãy xin hết kiếp liễu bồ
1000. Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau.
Thuốc thang suốt một ngày thâu
Giấc mê nghe đã giầu giầu vừa tan
Tú Bà chực sẵn bên màn
Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần:
1005. Một người đễ có mấy thân!
Hoa xuân đương nhuỵ, ngày xuân còn dài
Cũng là lỡ một lầm hai
Đá vàng sao nỡ ép nài mây mưa!
Lỡ chân trót đã vào đây
1010. Khoá buồng xuân để đợi ngày đào non
Người còn thì của hãy còn
Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà
Làm chi tội báo oan gia
Thiệt mình mà hại đến ta hay gì?
1015. Kề tai mấy nỗi nằn nì
Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi
Vả trong thần mộng mấy lời
Túc nhân âu cũng có trời ở trong
Kiếp này nợ trả chưa xong
1020. Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau?
Lặng nghe thấm thía gót đầu
Thưa rằng: Ai có muốn đâu thế này
Được như lời thế là may
Hẳn rằng mai có như vầy được chăng?
1025. Sợ khi ong bướm đãi đằng
Đến điều sống đục, sao bằng thác trong!
Mụ rằng: Con hãy thong dong
Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!
Mai sau ở chẳng như lời
1030. Trên đầu có bóng mặt rời rạng soi.
Thấy lời quyết đoán hẳn hoi
Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
1035. Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nủa cảnh, như chia tấm lòng
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
1040. Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
1045. Sân Lai cách mấy nắng mưa?
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
1050. Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
1055. Chung quanh những nước non người
Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.
Ngậm ngùi rủ bức rèm châu
Cách tường nghe có tiếng đâu hoạ vần
Một chàng vừa trạc thanh xuân
1060. Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh
Bóng nga thấp thoáng dưới mành
Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai
1065. Than ôi! Sắc nước hương trời!
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây!
Giá đành trông nguyệt trên mây
Hoa sao, hoa khéo đoạ đày bấy hoa?
Nỗi gan riêng giận trời già
1070. Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng?
Thuyền quyên ví biết anh hùng
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi!
Song thu đã khép cánh ngoài
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh
1075. Nghĩ người thôi lại nghĩ mình
Cám lòng chua xót, lạt tình chơ vơ
Những là lần lữa nắng mưa
Kiếp phong trần biết bao giờ là thôi?
Đánh liều nhắn một hai lời
1080. Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân
Mảnh tiên kể hết xa gần
Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài
Tan sương vừa rạng ngày mai
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang
1085. Trời tây lãng đãng bóng vàng
Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi
Mở xem một bức tiên mai
Rành rành “tích việt” có hai chữ đề
Lấy trong ý tứ mà suy:
1090. Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?
Chim hôm thoi thót về rừng
Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành
Tường đông lay động bóng cành
Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào
1095. Sượng sùng đánh dạn ra chào
Lạy thôi, nàng mới rỉ trao ân cần
Rằng: Tôi bèo bọt chút thân
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh
Dám nhờ cốt nhục tử sinh
1100. Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau!
Lặng ngồi lẩm nhẩm gật đầu:
Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng!
Nàng đà biết đến ta chăng
Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi!
1105. Nàng rằng: Muôn sự ơn người
Thế nào xin quyết một bài cho xong.
Rằng: Ta có ngựa truy phong
Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi
Thừa cơ lẻn bước ra đi
1110. Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn?
Dầu khi gió kép mưa đơn
Có ta đây cũng chẳng can cớ gì!
Nghe lời, nàng đã sinh nghi
Song đà quá đỗi, quản gì được thân
1115. Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu!
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu
Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn
Đêm thu khắc lậu canh tàn
1120. Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương
Lối mòn cỏ lợt mùi sương
Lòng quê đi một bước đường một đau
Lời bình:
Hồi 10 là bước ngoặt trong cuộc đời Thúy Kiều khi nàng gặp Hoạn Thư, vợ chính của Thúc Sinh. Cuộc gặp gỡ này đã mở ra chuỗi ngày đầy khổ ải cho Kiều. Hoạn Thư hiện lên với vẻ tinh quái, mưu mô, đại diện cho một tầng lớp phụ nữ bị xã hội phong kiến bóp méo, phải dùng những thủ đoạn tàn nhẫn để giữ gìn quyền lực và danh dự của mình. Kiều một lần nữa trở thành nạn nhân của sự ghen tuông và thù hận.
Truyện Kiều: Hồi 11
Tiếng gà xao xác gáy mau
Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng
1125. Nàng càng thổn thức gan vàng
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!
Một mình khôn biết làm sao
Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng
Hoá nhi thật có nỡ lòng
1130. Làm chi giày tía, vò hồng, lắm nau!
Một đoàn đổ đến trước sau
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời?
Tú Bà tốc thẳng đến nơi
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà
1135. Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra
Đang tay vùi liễu giập hoa tơi bời
Thịt da ai cũng là người
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau!
Hết lời thú phục khẩn cầu
1140. Uốn lưng thịt đổ, giập đầu máu sa
Rằng: Tôi chút phận đàn bà
Nước non lìa cửa, lìa nhà đến đây
Bây giờ sống thác ở tay
Thân này đã đến thế này thì thôi!
1145. Nhưng tôi có sá chi tôi
Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?
Thân lương bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau cũng chừa!
Được lời mụ mới tuỳ cơ
1150. Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu
Bày vai có ả Mã Kiều
Xót nàng ra mới đánh liều chịu đoan
Mụ càng kể nhặt kể khoan
Gạn gùng đến mực, nồng nàn mới tha
1155. Vực nàng vào nghỉ trong nhà
Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:
Thôi đà mắc lận thì thôi!
Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?
Bạc tình nổi tiếng lầu xanh
1160. Một tay chôn giết mấy cành phù dung!
Đà đao lập sẵng chước dùng
Lạ gì một cốt một đồng xưa nay!
Có ba mươi lạng trao tay
Không dưng chi có truyện này trò kia!
1165. Rồi ra trở mặt tức thì
Bớt lời liệu chớ sân si mà đời!
Nàng rằng: Thề thốt nặng lời
Có đâu mà lại ra người hiểm sâu!
Còn đương suy trước nghĩ sau
1170. Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào
Sở Khanh lên tiếng rêu rao:
Nọ nghe rằng có con nào ở đây
Phao cho quyến gió rủ mây
Hãy xem có biết mặt này là ai?
1175. Nàng rằng: Thôi thế thì thôi!
Rằng không thì cũng vâng lời là không!
Sở Khanh quát mắng đùng đùng
Bước vào vừa rắp thị hùng ra tay
Nàng rằng: Trời nhé có hay!
1180. Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai?
Đem người giẩy xuống giếng khơi
Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!
Còn tiên “tích việt” ở tay
Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai?
1185. Lời ngay, đông mặt trong ngoài
Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương!
Phụ tình án đã rõ ràng
Dơ tuồng nghĩ mới kiếm đường tháo lui
Buồng riêng, riêng những sụt sùi
1190. Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân
Tiếc thay trong giá trắng ngần!
Đến phong trần cũng phong trần như ai
Tẻ vui cũng một kiếp người
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!
1195. Kiếp xưa đã vụng đường tu
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!
Dầu sao bình đã vỡ rồi
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!
Vừa tuần nguyệt sáng gương trong
1200. Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò:
Nghề chơi cũng lắm công phu
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều
Nàng rằng: Mưa gió dập dìu
Liều thân thì cũng phải liều thế thôi!
1205. Mụ rằng: Ai cũng như ai
Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
Ở trong còn lắm điều hay
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung
Này con thuộc lấy tấm lòng
1210. Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời
Khi khoé hạnh, khi nét ngài
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa
1215. Đều là nghề nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nết, mới là người soi.
Gót đầu vâng dạy mấy lời
Đường châu nét nguyệt, đường phai vẻ hồng
Những nghe nói, đã thẹn thùng
1220. Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!
Xót mình cửa các buồng khuê
Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!
Khéo là mặt dạn mày dày!
Kiếp người đã đến thế này thì thôi!
1225. Thương thay thân phận lạc loài!
Dầu sao cũng ở tay người biết sao?
Lầu xanh mới rủ trướng đào
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người
Biết bao bướm lả, ong lơi!
1230. Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
1235. Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương?
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Mặc người mưa Sở mây Tần
1240. Những mình nào biết có xuân là gì?
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèn tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu?
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!
1245. Đôi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Thờ ơ gió trúc mưa mai
1250. Ngẩn ngơ trăm nỗi, giùi mài một thân
Nỗi lòng đòi đoạn xa gần
Chẳng vò mà rối, chẳng rầu mà đau!
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Một ngày nột ngả bóng dâu tà tà
1255. Dặm nghìn, nước thẳm, non xa
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này?
Sân hoè đôi chút thơ ngây
Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình?
Nhớ lời nguyền ước ba sinh
1260. Xa xôi ai có biết tình chăng ai?
Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay?
Tình sâu mong trả nghĩa dày
Hoa kia đã chắp cây này cho chưa?
1265. Mối tình đôi đoạn vò tơ
Giấc hương quan, luống lầm mơ canh dài
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã, lại mai hôn hoàng
Lần lần thỏ bạc ác vàng
1270. Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn!
Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân!
Đã đầy vào kiếp phong trần
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
Lời bình:
Hồi 11 là thời kỳ Kiều bị giam cầm trong cảnh ngục tù của Hoạn Thư. Đây là đoạn thơ thể hiện rõ sự chịu đựng và nhẫn nhục của Kiều khi phải đối mặt với mọi đau khổ. Nhưng cũng chính trong tình cảnh này, Kiều đã cho thấy sức mạnh tiềm ẩn, sẵn sàng chống lại sự áp bức khi thời cơ đến.
Truyện Kiều: Hồi 12
1275. Khách du bỗng có một người
Kỳ Tầm họ Thúc, cũng nòi thư hương
Vốn người huyện Tích, châu Thường
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Chuy
Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi
1280. Thiếp hồng tìm đến hương khuê gởi vào
Trưởng tô giáp mặt hoa đào
Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa?
Hải đường mơn mởn cành tơ
Ngày xuân càng gió, càng mưa càng nồng!
1285. Nguyệt hoa, hoa nguyệt não nùng
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?
Lạ gì thanh khí lẽ hằng
Một dây một buộc, ai giằng cho ra?
Sớm đào, tối mận lân la
1290. Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng
Dịp đâu may mắn lạ đường!
Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê
Sinh càng một tỉnh mười mê
Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân
1295. Khi gió gác, khi trăng sân
Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ
Khi hương sớm, khi trà trưa
Bàn vây điểm nước, đường tơ hoạ đào
Miệt mài trong cuộc truy hoan
1300. Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình
Lạ cho cái sóng khuynh thành
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi
Thúc Sinh quen thói bốc rời
Trăm nghìn đổ một trận cười như không!
1305. Mụ càng tô lục, chuốt hồng
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông
Buồng the phải buổi thong dong
1310. Thang lan, rủ bức trướng hồng tẩm hoa
Rõ màu trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên
Sinh càng tỏ nết càng khen
Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường
1315. Nàng rằng: Vâng biết lòng chàng
Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu
Hay hèn lẽ cũng nối điêu
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang
Lòng còn gửi áng mây vàng
1320. Hoạ vần, xin hãy chịu chàng hôm nay.
Rằng: Sao nói lạ lùng thay!
Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra?
Nàng càng ủ dột thu ba
Đoạn trường lúc ấy dở mà buồn tênh:
1325. Thiếp như hoa đã lìa cành
Chàng như con bướm lượn vành mà chơi
Chúa xuân đành đã có nơi
Ngắn ngày thôi chớ dài lời mà chi!
Sinh rằng: Từ thuở tương tri
1330. Tấm riêng, riêng những nặng vì nước non
Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
Nàng rằng: Muôn đội ơn lòng
Chút e bên thú, bên tòng dễ đâu
1335. Bình Khang nấn ná bấy lâu
Yêu hoa, yêu được một màu điểm trang
Rồi ra lở phấn phai hương
Lòng thêm giữ được thường thường mãi chăng?
Vả trong thềm quế cung trăng
1340. Chủ trương đã có chị Hằng ở trong
Bấy lâu khăng khít dải đồng
Thêm người, người cũng chia lòng riêng tây
Vẻ chi chút phận bèo mây
Làm cho bể ái, khi đầy khi vơi
1345. Trăm điều ngang ngửa vì tôi
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?
Như chàng có vững tay co
Mười phân cũng đắp điếm cho một vài
Thế trong dầu lớn hơn ngoài
1350. Trước hàm sư tử gửi người đằng la
Cúi đầu luồn xuống mái nhà
Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng
Ở trên còn có nhà thông
Lòng trên trông xuống biết lòng có thương?
1355. Xá chi liễu ngõ hoa tường
Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh!
Lại càng dơ dáng dại hình
Đành thân phận thiếp, nghĩ danh giá chàng
Thương sao cho vẹn thì thương
1360. Tính sao cho vẹn mọi đường thì vâng.
Sinh rằng: Hay nói đè chừng
Lòng đây, lòng đấy, chưa từng hay sao?
Đường xa chớ ngại Ngô Lào
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta
1365. Đã gần chi có đường xa
Đá vàng đã quyết, phong ba cũng liều.
Lời bình:
Hồi 12 đánh dấu giai đoạn Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư và tìm đến Từ Hải, người đàn ông mang lại hy vọng giải thoát cho nàng. Đây là thời điểm Kiều thoát khỏi xiềng xích của cuộc đời cũ và bắt đầu một cuộc sống mới, dẫu biết rằng số phận vẫn còn nhiều biến động. Nguyễn Du xây dựng hình ảnh Từ Hải như một anh hùng tài năng và quyết đoán, người sẽ giúp Kiều lấy lại danh dự.
Truyện Kiều: Hồi 13
Cùng nhau căn dặn đến điều
Chỉ non, thề bể, nặng gieo đến lời
Nỉ non đêm ngắn tình dài
1370. Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương
Mượn điều trúc viện thừa lương
Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi
Chiến hoà, sắp sẵn hai bài
Cậy người thầy thợ, mượn người dò la
1375. Bán tin đến mụ Tú Bà
Thua cơ, mụ cũng cầu hoà, dám sao
Rõ ràng của dẫn tay trao
Hoàn lương một thiếp, thân vào cửa công
Công tư đôi lẽ đều xong
1380. Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai
Một nhà sum hợp trúc mai
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông
Hương càng đượm, lửa càng nồng
Càng xôi vẻ ngọc, càng lồng màu sen
1385. Nửa năm hơi tiếng vừa quen
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng
Giậu thu vừa nảy giò sương
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi
Phong lôi nổi trận bời bời
1390. Nặng lòng e ấp, tính bài phân chia
Quyết ngay biện bạch một bề
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh
Thấy lời nghiêm huấn rành rành
Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu
1395. Rằng: Con biết tội đã nhiều
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam
Trót vì tay đã nhúng chàm
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây!
Cùng nhau vả tiếng một ngày
1400. Ôm cầm ai nỡ đứt dây cho đành?
Lượng trên quyết chẳng thương tình
Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!
Thấy lời sắt đá tri tri
Sốt gan, ông mới cáo quỳ cửa công
1405. Đất bằng nổi sóng đùng đùng
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra
Cùng nhau theo gót sai nha
Song song vào trước sân hoa lạy quỳ
Trông lên mặt sắt đen sì
1410. Lập nghiêm trước đã, ra uy nặng lời
Gã kia dại nết chơi bời
Mà con người thế là người đong đưa
Tuồng gì hoa thải, hương thừa
Mượn màu son phấn đánh lừa con đen!
1415. Suy trong tình trạng bên nguyên
Bề nào thì cũng chưa yên bề nào
Phép công chiếu án luận vào
Có hai đường ấy, tính sao mặc mình
Một là cứ phép gia hình
1420. Một là lại cứ lầu xanh phó về!
Nàng rằng: Đã quyết một bề
Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần!
Đục trong thân cũng là thân
Yếu thơ, vâng chịu trước sân lôi đình
1425. Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn
Phận đành chi dám kêu oan
Đào hoen quyên má, liễu tan tác mày
Một sân lầm cát đã đầy
1430. Gương lờ nước thuỷ, mai gầy vóc sương
Nghĩ tình chàng Thúc mà thương
Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa
Khóc rằng: Oan khốc vì ta!
Có nghe lời trước, chớ đà luỵ sau
1435. Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu
Để ai trăng tủi, hoa sầu vì ai?
Phủ đường nghe thoảng vào tai
Động lòng lại gạn đến lời riêng tây
Sụt sùi chàng mới thưa ngay
1440. Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân:
Nàng đà tính trước xa gần
Từ xưa nàng đã biết thân có rày!
Tại tôi hứng lấy một tay
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi!
1445. Nghe lời nói cũng thương lời
Dẹp uy mới dạy mở bài giải vi
Rằng: Như hẳn có thế thì
Trăng hoa, song cũng thị phi biết điều!
Sinh rằng: Chút phận bọt bèo
1450. Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.
Cười rằng: Đã thế thì nên!
Mộc già hãy thử một thiên trình nghề.
Nàng vâng cất bút tay đề
Tiên hoa trình trước án phê xem tường
1455. Khen rằng: Giá đáng Thịnh Đường
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!
Thật là tài tử giai nhân
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?
Thôi đừng rước dữ cưu hờn
1460. Làm chi lỡ nhịp cho đờn ngang cung?
Đã đưa đến trước cửa công
Ngoài thì là lý, song trong là tình
Dâu con trong đạo gia đình
Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong!
1465. Kíp truyền sắm sửa lễ công
Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng điểm sao.
Lời bình:
Hồi 13 mô tả cảnh Kiều và Từ Hải chung sống hạnh phúc trong một thời gian ngắn. Kiều không chỉ được giải thoát về thân xác mà còn được sống trong tình yêu và sự bảo vệ của Từ Hải. Tuy nhiên, đoạn này cũng tiềm ẩn sự bất an và dự báo cho những biến cố trong tương lai, khi Từ Hải bị hãm hại và Kiều lại lâm vào vòng xoáy đau khổ.
Truyện Kiều: Hồi 14
Bày hàng cổ xuý xôn xao
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi
Thương vì hạnh, trọng vì tài
1470. Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
Huệ lan sực nức một nhà
Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa
Mảng vui rượu sớm cờ trưa
Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh
1475. Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh
E tình, nàng mới bày tình riêng chung:
Phận bồ từ vẹn chữ tòng
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên
Tin nhà ngày một vắng tin
1480. Mặn tình cát luỹ, lạt tình tao khang
Nghĩ ra thật cũng nên đường
Tăm hơi, ai kẻ giữ giàng cho ta?
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà
Ở vào khuôn phép, nói ra mối giường
1485. E thay những dạ phi thường
Dễ dò rốn biển, khôn lường đáy sông!
Mà ta suốt một năm ròng
Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào
Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao
1490. Hoặc là trong có làm sao chăng là?
Xin chàng liệu kíp lại nhà
Trước người đẹp ý, sau ta biết tình
Đêm ngày giữ mực giấu quanh
Rày lần, mai lữa, như hình chưa thông!
1495. Nghe lời khuyên nhủ thong dong
Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang
Rạng ra gửi đến xuân đường
Thúc ông cũng rội giục chàng ninh gia
Tiễn đưa một chén quan hà
1500. Xuân đình thoát đã dạo ra Cao đình
Sông Tần một giải xanh xanh
Lôi thôi bờ liễu mấy cành Dương Quan
Cầm tay dài ngắn thở than
Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời
1505. Nàng rằng: Non nước xa khơi
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm
Dễ loà yếm thắm trôn kim
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng!
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng
1510. Đến nhà, trước liệu nói sòng cho minh
Dầu khi sóng gió bất tình
Lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi
Hơn điều giấu ngược, giấu xuôi
Lại mang những việc tầy trời đến sau
1515. Thương nhau xin nhớ lời nhau
Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy!
Chén đưa nhớ bữa hôm nay
Chén mừng xin đợi ngày này năm sau.
Người lên ngựa, kẻ chia bào
1520. Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
1525. Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
Kể chi những nỗi dọc đường
Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà
Vốn dòng họ Hoạn danh gia
1530. Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư
Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày
Ở ăn thì nết cũng hay
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già
1535. Từ nghe vườn mới thêm hoa
Miệng người đã lắm, tin nhà thì không
Lửa tâm càng giập càng nồng
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa
Ví bằng thú thật cùng ta
1540. Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên
Dại chi chẳng giữ lấy nền
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
Lại còn bưng bít giấu quanh
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
1545. Tính rằng cách mặt, khuất lời
Giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho
Lo gì việc ấy mà lo
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
Làm cho nhìn chẳng được nhau
1550. Làm cho đầy đoạ cất đầu chẳng lên!
Làm cho trông thấy nhãn tiền
Cho người thăm ván, bán thuyền, biết tay!
Nỗi lòng kín chẳng ai hay
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài
1555. Tuần sau bỗng thấy hai người
Mách tin, ý cũng liệu bài tâng công
Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
Chồng tao nào phải như ai
1560. Điều này hẳn miệng những người thị phi!
Vội vàng xuống lệnh ra uy
Đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng
Trong ngoài kín mít như bưng
Nào ai còn dám nói năng một lời!
1565. Buồng đào khuya sớm thảnh thơi
Ra vào một mực nói cười như không
Đêm ngày lòng những giận lòng
Sinh đà về đến lầu hồng, xuống yên
Lời tan hợp, nỗi hàn huyên
1570. Chữ tình càng mặn, chữ duyên càng nồng
Tẩy trần vui chén thong dong
Nỗi lòng, ai ở trong lòng mà ra?
Chàng về xem ý tứ nhà
Sự mình cũng rắp lân la giãi bày
1575. Mấy phen cười nói tỉnh say
Tóc tơ bất động mảy may sự tình
Nghĩ: Đà bưng kín miệng bình
Nào ai có khảo mà mình lại xưng?
Những là e ấp dùng dằng
1580. Rút dây sợ nữa động rừng, lại thôi
Có khi vui chuyện mua cười
Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu
Rằng: Trong ngọc đá vàng thau
Mười phần ta đã tin nhau cả mười
1585. Khen cho những miệng rông dài
Bướm ong lại đặt những lời nọ kia
Thiếp dầu vụng, chẳng hay suy
Đã dơ bụng nghĩ, lại bia miệng cười!
Thấy lời thủng thỉnh như chơi
1590. Thuận lời, chàng cũng nói xuôi đỡ đòn
Những là cười phấn cợt son
Đèn khuya chung bóng, trăng tròn sánh vai
Thú quê thuần hức bén mùi
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô
1595. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ
Một niềm quan tái, mấy mùa gió trăng
Tình riêng chưa dám rỉ răng
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
Cách năm, mây bạc xa xa
1600. Lâm Chuy cũng phải tính mà thần hôn
Được lời như cởi tấc son
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người
Long lanh dáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
1605. Roi câu vừa gióng dặm trường
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.
Lời bình:
Hồi 14 là thời khắc đầy bi kịch khi Từ Hải bị lừa và chết dưới tay kẻ thù. Đây là một cú sốc lớn đối với Kiều, khi nàng mất đi người đàn ông cuối cùng mà nàng có thể dựa vào. Từ đây, Nguyễn Du lại tiếp tục khắc họa những đau đớn và tuyệt vọng của Kiều khi nàng phải đối mặt với sự mất mát và sự phản bội, thể hiện sự bất lực của con người trước số phận tàn nhẫn.
Những bài thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Du
Để giải đáp chi tiết hơn Nguyễn du là tác giả của bài thơ nào, dưới đây là tổng hợp những tác phẩm thơ bằng chữ Hán của ông:
Bát muộn
Thập tải trần ai ám ngọc trừ,
Bách niên thành phủ bán hoang khư.
Yêu ma trùng điểu cao phi tận,
Chỉ uế càn khôn huyết chiến dư.
Tang tử binh tiền thiên lý lệ,
Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư.
Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ,
Bách chủng u hoài vị nhất sư.
Tạm dịch:
Cái bụi che mờ thềm ngọc mười năm nay.
Thành phủ xây dựng trăm năm trước, một nửa thành gò hoang,
Các loài chim nhỏ bé đều bay lên cao hết.
Sau các cuộc huyết chiến, cõi càn khôn trở nên nhơ nhớp.
Quê nhà trong cơn binh lửa hẳn đã tiêu điều,
Ở xa muôn dặm nghĩ đến mà rơi nước mắt.
Bạn bè, bà con chỉ còn lại mấy hàng thư dưới đèn.
Đêm thu vắng, cá rồng lặng lẽ, trăm mối u hoài chưa dẹp được chút nào!
Lời bình:
Bài thơ là tiếng lòng của Nguyễn Du trong cảnh sống cô độc và trầm mặc. Việc ăn uống trễ gợi lên hình ảnh của một người đã trải qua nhiều sự biến cố, nỗi buồn trong đời. Qua những dòng thơ, Nguyễn Du nhấn mạnh sự lạc lõng, đồng thời là sự thản nhiên chấp nhận những thăng trầm của cuộc sống. Ý nghĩa ẩn dụ đằng sau bữa ăn trễ có thể liên quan đến cuộc đời lỡ dở và những tiếc nuối về một thời kỳ đã qua.
Sơ nguyệt
Hấp đắc dương quang tài thướng thiên,
Sơ tam sơ tứ vị đoàn viên.
Thường Nga trang kính vi khai hạp,
Tráng sĩ loan cung bất thướng huyền.
Thiên lý quan san vô cải sắc,
Nhất đình sương lộ cộng sầu miên.
Bồi hồi chính ức Hồng sơn dạ,
Khước tại La Phù giang thuỷ biên.
Tạm dịch:
Trăng hút được ánh sáng mặt trời, vừa mới ló lên,
Mồng ba mồng bốn chưa tròn.
Tấm gương của chị Hằng Nga chưa hé nắp,
Vành cung tráng sĩ chưa mắc dây.
Ở nơi nghìn dặm quan san, trăng vẫn không thay đổi vẻ đẹp,
Đầy sân sương móc, cùng trăng nằm ngủ, lòng buồn hiu.
Bồi hồi nhớ đêm nào còn ở dưới chân núi Hồng,
Bây giờ đã ở trên bến sông La Phù.
Lời bình:
Sơ nguyệt là bức tranh thiên nhiên vào đêm trăng đầu tháng, nhưng ẩn sau là những suy ngẫm của Nguyễn Du về cuộc sống. Trăng đầu có vẻ đẹp tinh khiết, nhưng cũng gợi nhớ đến sự cô đơn và mong manh của con người. Qua hình ảnh trăng, Nguyễn Du chuyển tải nỗi lòng của một người từng trải, đã qua biết bao thăng trầm của cuộc sống và nhìn thấy sự tạm bợ của kiếp người.
Ký hữu
Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh,
Thiên lý Trường An thử dạ tình.
Thái phác bất toàn chân diện mục,
Nhất châu hà sự tiểu công danh.
Hữu sinh bất đới công hầu cốt,
Vô tử chung tầm thỉ lộc minh.
Tiễn sát bắc song cao ngoạ giả,
Bình cư vô sự đáo hư linh.
Tạm dịch:
Đêm nay trên núi Hồng Lĩnh, trăng sáng vằng vặc,
Ở Trường An xa ngàn dặm, tâm tình tôi thật ngao ngán.
Tôi như viên ngọc trong đá không giữ vẹn được mặt thật,
Chút công danh nho nhỏ ở một châu có đáng gì?
Sinh ra vốn chẳng mang sẵn cốt công hầu, chưa chết,
Nhất định có ngày lại làm bạn với hươu nai.
Rất thèm được như bạn được nằm khểnh bên cửa sổ phía bắc,
Thảng thích chẳng có gì bận đến tâm linh.
Lời bình:
Bài thơ là sự thể hiện tình cảm chân thành và sâu sắc của Nguyễn Du dành cho người bạn của mình. Những từ ngữ nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa, bày tỏ nỗi nhớ và lòng tri ân. Qua thơ, Nguyễn Du không chỉ nói về tình bạn mà còn nhấn mạnh giá trị của tình người giữa những hoàn cảnh khó khăn, bão tố của cuộc đời.
Dạ tọa
Tứ bích cùng thanh náo dạ miên,
Ải sàng di hướng khúc lan biên.
Vi phong bất động sương thuỳ địa,
Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên.
Kim cổ nhàn sầu lai tuý hậu,
Thuần lô hương tứ tại thu tiên.
Bạch đầu sở kế duy y thực,
Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên!
Lời bình:
Dạ tọa là hình ảnh của một đêm tĩnh mịch, khi Nguyễn Du ngồi một mình suy tư. Bóng tối của đêm và sự tĩnh lặng của không gian làm nổi bật cảm giác cô độc của nhà thơ. Nguyễn Du suy nghĩ về những thay đổi của thế gian, về số phận con người, và bài thơ trở thành một phản ánh nội tâm phong phú và sâu sắc của thi sĩ.
Điệu khuyển
Tuấn mã bất lão tử,
Liệt nữ vô thiện chung.
Phàm sinh phụ kỳ khí,
Thiên địa phi sở dung.
Niệm nhĩ thuộc sở súc,
Dữ nhân mao cốt đồng.
Tham tiến bất tri chỉ,
Vẫn thân hàn sơn trung.
Vẫn thân vật thán uyển,
Sổ thí vô toàn công.
Tạm dịch:
Ngựa hay không chết già
Người trinh liệt không chết yên lành
Phàm người sinh ra có khí phách khác thường
Trời đất không có chỗ dung túng
Nghĩ thương mày thuộc giống gia súc
Lông xương cũng đồng với loài người
Ham tiến không biết dừng
Bỏ mình trong núi lạnh
Bỏ mình chớ than tức
Bao lần thử sức không thành công
Lời bình:
Bài thơ sử dụng âm thanh đơn giản – tiếng chó sủa – để diễn tả một không gian yên tĩnh và lạnh lẽo của vùng quê. Âm thanh này không chỉ tạo ra cảm giác cô đơn mà còn là biểu tượng cho sự bất an, lo âu trong cuộc sống. Nguyễn Du thông qua hình ảnh bình dị này để phản ánh tâm trạng của một người trải qua nhiều sự kiện đầy biến cố.
Pháo đài
Nam bắc xa thư khánh đại đồng,
Pháo đài hư thiết thổ thành đông.
Sơn băng thạch liệt thành do tráng,
Hán đoạt Tần tranh sự dĩ không.
Tạc giả đại khuy sinh vật đức,
Nhĩ lai bất quý sát nhân công.
Thanh bình thì tiết vô tranh chiến,
Ngưu độc ưu sừ chính trọng nông.
Lời bình:
Pháo đài mô tả cảnh vật cổ kính, gợi lên những ký ức về một thời oanh liệt đã qua. Nguyễn Du nhìn pháo đài như một biểu tượng cho sự hưng thịnh rồi suy tàn, liên hệ đến triết lý nhân sinh vô thường. Qua đó, ông bày tỏ niềm tiếc nuối về những giá trị đã mất đi theo dòng thời gian.
Chu phát
Khứ biến đông nam lộ,
Thông thông tuế dục chu.
Sử tòng Giang Hán khẩu,
Lai phiếm Động Đình chu.
Nhân bỉ lai thì sấu,
Giang đồng khứ nhật thu.
Hạc lâu thành vịnh xứ,
Bạch vân không du du.
Tạm dịch:
Đi khắp đường đông nam
Thấm thoát năm gần hết
Thuận theo cửa sông Giang Hán
Dong thuyền qua hồ Động Đình
Người gầy hơn so với lần đến
Sông vẫn là thu ngày trước
Ở chỗ vịnh thơ lầu thơ hạc cũ
Mây trắng cứ lững lờ trôi
Lời bình:
Hình ảnh con thuyền rời bến trong bài thơ là biểu tượng cho cuộc hành trình của con người. Nguyễn Du dùng hình ảnh này để phản ánh sự ra đi, thay đổi, và những nỗi lo âu khi bước vào những cuộc phiêu lưu mới trong đời. Bài thơ gợi lên cảm giác vừa hân hoan vừa bồi hồi trước tương lai chưa biết.
Độ Linh giang
Bình sa tận xứ thuỷ thiên phù,
Hạo hạo yên ba cổ độ thu.
Nhất vọng tân nhai thông cự hải,
Lịch triều cương giới tại trung lưu.
Tam quân cựu bích phi hoàng diệp,
Bách chiến tàn hài ngoạ lục vu.
Bắc thướng thổ dân mạc tương tị,
Táp niên tiền thị ngã đồng châu.
Lời bình:
Sông Linh trong bài thơ là biểu tượng của ranh giới giữa các thời kỳ và số phận. Nguyễn Du thể hiện cảm giác phân vân khi qua sông, nhấn mạnh sự khó khăn và thử thách của cuộc đời. Hình ảnh dòng sông vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính triết lý, tượng trưng cho sự trôi chảy không ngừng của thời gian và kiếp người.
Tây Dà dịch
Thanh thạch kiều tây ngạn,
Y nhiên tiểu lý lư.
Đạo bàng nhân ngữ tạp,
Ốc hậu trúc âm sơ.
Hoà bản cung thần thiếu,
Xuân liên đãi tuế trừ.
Tương phùng vô biệt thoại,
Nhất tiếu ý hà như.
Tạm dịch:
Bên bờ phía tây cầu đá xanh
Xóm nhỏ vẫn như cũ
Bên đường tiếng người tạp nhạp
Sau nhà bóng trúc thưa
Gốc rạ dành để đốt lửa sớm
Câu đối xuân chờ hết năm cũ
Gặp nhau không nói năng gì
Chỉ cười, ý ra sao
Lời bình:
Bài thơ mô tả cảnh dịch quán – một nơi tạm dừng chân trên hành trình dài. Ở đây, Nguyễn Du miêu tả cảm giác lưu lạc, tha phương, và nỗi nhớ quê hương da diết. Dịch quán không chỉ là nơi dừng chân mà còn là nơi để nhà thơ nhìn lại cuộc đời với nhiều cảm xúc đan xen.
Sở kiến hành
Hữu phụ huề tam nhi,
Tương tương toạ đạo bàng.
Tiểu giả tại hoài trung,
Đại giả trì trúc khuông.
Khuông trung hà sở thịnh,
Lê hoắc tạp tì khang.
Nhật án bất đắc thực,
Y quần hà khuông nhương.
Kiến nhân bất ngưỡng thị,
Lệ lưu khâm lang lang.
Quần nhi thả hỉ tiếu,
Bất tri mẫu tâm thương.
Mẫu tâm thương như hà,
Tuế cơ lưu dị hương.
Dị hương sảo phong thục,
Mễ giá bất thậm ngang.
Bất tích khí hương thổ,
Cẩu đồ cứu sinh phương.
Nhất nhân kiệt dung lực,
Bất sung tứ khẩu lương.
Duyên nhai nhật khất thực,
Thử kế an khả trường.
Nhãn hạ uỷ câu hác,
Huyết nhục tự sài lang.
Mẫu tử bất túc tuất,
Phủ nhi tăng đoạn trường.
Kỳ thống tại tâm đầu,
Thiên nhật giai vị hoàng.
Âm phong phiêu nhiên chí,
Hành nhân diệc thê hoàng.
Tạc tiêu Tây Hà dịch,
Cung cụ hà trương hoàng.
Lộc cân tạp ngư sí,
Mãn trác trần trư dương.
Trưởng quan bất hạ trợ,
Tiểu môn chỉ lược thường.
Bát khí vô cố tích,
Lân cẩu yếm cao lương.
Bất tri quan đạo thượng,
Hữu thử cùng nhi nương.
Thuỳ nhân tả thử đồ,
Trì dĩ phụng quân vương.
Tạm dịch:
Có người đàn bà dắt ba đứa con
Cùng nhau ngồi bên đường
Đứa nhỏ trong bụng mẹ
Đứa lớn cầm giỏ tre
Trong giỏ đựng gì lắm thế?
Rau lê, hoắc lẫn cám
Qua trưa rồi chưa được ăn
Áo quần sao mà rách rưới quá
Thấy người không ngẩng nhìn
Nước mắt chảy ròng ròng trên áo
Lũ con vẫn vui cười
Không biết lòng mẹ đau
Lòng mẹ đau ra sao?
Năm đói lưu lạc đến làng khác
Làng khác mùa màng tốt hơn
Giá gạo không cao quá
Không hối tiếc đã bỏ làng đi
Miễn sao tìm được phương tiện sống
Một người làm hết sức
Không đủ nuôi bốn miệng ăn
Dọc đường mỗi ngày đi ăn mày
Cách ấy làm sao kéo dài mãi được
Thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh
Máu thịt nuôi lang sói
Mẹ chết không thương tiếc
Vỗ về con càng thêm đứt ruột
Trong lòng đau xót lạ thường
Mặt trời vì thế phải vàng uá
Gió lạnh bỗng ào tới
Người đi đường cũng đau đớn làm sao
Đêm qua ở trạm Tây Hà
Tiệc tùng cung phụng khoa trương quá mức
Gân hươu cùng vây cá
Đầy bàn thịt heo, thịt dê
Quan lớn không thèm đụng đũa
Đám theo hầu chỉ nếm qua
Vứt bỏ không luyến tiếc
Chó hàng xóm cũng ngán món ăn ngon
Không biết trên đường cái
Có mẹ con đói khổ nhà này
Ai người vẽ bức tranh đó
Đem dâng lên nhà vua
Lời bình:
Sở kiến hành kể về cuộc hành trình qua một vùng đất đầy huyền thoại và lịch sử. Nguyễn Du sử dụng cảnh vật để nói lên những suy tư về sự thay đổi của thời gian và lịch sử. Qua từng câu thơ, ông nhấn mạnh sự biến đổi vô thường của thế giới và số phận con người.
Sơn cư mạn hứng
Nam khứ Trường An thiên lý dư,
Quần phong thâm xứ dã nhân cư.
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế,
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ.
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ.
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.
Tạm dịch:
Cách Trường An nghìn dặm về phía nam,
Có một người quê mùa ở trong núi sâu.
Ban ngày yên tĩnh, mây núi che kín cổng tre.
Mùa xuân lạnh, hành trúc quanh vườn thuốc trông thưa thớt.
Thơ thẩn dưới bóng trăng, lòng nhớ quê hương.
Tiếng nhạn đầu mùa khơi thêm dòng lệ biệt ly từ bao năm.
Em trai em gái ở nơi quê nhà, bấy lâu bặt hắn tin tức,
Không nhận được lá thư nào nói cho biết có bình yên hay không?
Lời bình:
Bài thơ là sự tả cảnh cuộc sống yên bình ở miền núi, nhưng ẩn sau là nỗi buồn và những suy ngẫm sâu xa. Nguyễn Du miêu tả sự đơn sơ của thiên nhiên và sự tĩnh lặng của tâm hồn khi ở xa nơi thành thị ồn ào. Tuy nhiên, không gian ấy cũng gợi lên cảm giác trống trải và nỗi cô độc của một người từng trải qua nhiều biến cố trong đời.
My trung mạn hứng
Chung Tử viên cầm tháo nam âm,
Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm.
Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.
Bình Chương di hận hà thì liễu,
Cô Trúc cao phong bất khả tầm.
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
Hồng Sơn sơn hạ Quế giang thâm.
Tạm dịch:
Chung Tử gảy đàn theo điệu Nam,
Trang Tích khi ốm ngâm nga bằng tiếng Việt.
Khắp bốn bể đầy gió bụi, nghĩ tình nhà việc nước mà rơi lệ,
Mười tuần nằm trong lao tù, lòng thấp thỏm chuyện sống chết.
Bao giờ mới hết mối hận Bình Chương?
Khó mà có được phong cách cao thượng của người nước Cô Trúc.
Ta có một chút tâm sự này, không biết bày tỏ cùng ai,
Dưới chân núi Hồng, sông Quế Giang sâu thẳm.
Lời bình:
Nguyễn Du qua giấc mơ để khám phá thế giới nội tâm và cảm xúc của chính mình. Những hình ảnh mơ hồ và những suy tư phức tạp hiện lên trong bài thơ thể hiện một tâm hồn trăn trở, lo âu về cuộc đời và số phận. Giấc mơ là nơi ông thể hiện những ước vọng và nỗi khắc khoải mà thực tế không thể mang lại.
Long thành cầm giả ca
Long thành giai nhân,
Bất ký danh tự.
Độc thiện huyền cầm,
Cử thành chi nhân dĩ cầm danh.
Học đắc tiên triều cung trung “Cung phụng” khúc,
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh.
Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến,
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến.
Thử thời tam thất chánh phương niên,
Xuân phong yểm ánh đào hoa diện.
Đà nhan hám thái tối nghi nhân,
Lịch loạn ngũ thanh tuỳ thủ biến.
Hoãn như lương phong độ tùng lâm,
Thanh như chích hạc minh tại âm.
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch,
Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm.
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện,
Tận thị Trung Hoà Đại Nội âm.
Tây Sơn chư thần mãn toạ tận khuynh đảo,
Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.
Hào hoa ý khí lăng công hầu,
Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo.
Tính tương tam thập lục cung xuân,
Hoán thủ Trường An vô giá bảo.
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên,
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên.
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến,
Hà huống thành trung ca vũ diên.
Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu,
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa,
Nhan xú thần khô hình lược tiểu.
Lang tạ tàn my bất sức trang,
Thuỳ tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu.
Cựu khúc tân thanh ám lệ thuỳ,
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi.
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự,
Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi.
Thành quách suy di nhân sự cải,
Kỷ độ tang điền biến thương hải.
Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong,
Ca vũ không lưu nhất nhân tại.
Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì,
Thương tâm vãng sự lệ triêm y.
Nam Hà quy lai đầu tận bạch,
Quái để giai nhân nhan sắc suy.
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng,
Khả liên đối diện bất tương tri.
Tạm dịch:
Người đẹp Long Thành
Họ tên không được biết
Riêng thạo đàn huyền cầm
Dân trong thành gọi nàng là cô Cầm
Gảy khúc “Cung phụng” từ triều vua xưa
Một khúc đàn hay tuyệt từ trời đưa xuống thế gian.
Nhớ hồi trẻ tôi đã gặp nàng một lần
Bên hồ Giám trong một đêm yến tiệc
Tuổi cô cỡ hai mươi mốt
Áo hồng ánh lên khuôn mặt đẹp như hoa
Rượu đậm thêm nét mặt ngây thơ khả ái
Ngón tay lướt năm cung réo rắt
Tiếng khoan như gió thổi qua rừng thông
Thanh trong như đôi hạc kêu nơi xa xôi
Mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc
Sầu bi như Trang Tích lúc đau ốm ngâm rên tiếng Việt
Người nghe nàng say sưa không biết mệt
Trong khúc nhạc đại nội Trung Hoà.
Quan tướng nhà Tây say rượu nghiêng ngả
Lo vui chơi suốt đêm không nghỉ
Bên phải bên trái tranh nhau cho thưởng
Tiền bạc coi thường có nghĩa chi.
Vẻ hào hoa hơn bậc vương hầu
Giới trẻ nơi Ngũ Lăng không đáng kể
Dường như ba mươi sáu cung xuân
Nay Tràng An đã hun đúc được một báu vật vô giá.
Trong đầu nhớ lại đã hai mươi năm
Tây sơn thua bại, tôi vào Nam
Long Thành gần mà cũng chẳng được thấy
Còn nói chi đến chuyện múa hát trong thành.
Nay Tuyên phủ sứ bày cuộc vui đãi tôi
Ca kỹ trẻ xinh cả một đám
Chỉ có một kẽ tóc hoa râm ngồi cuối phòng
Mặt xấu, sắc khô, người hơi nhỏ
Mày phờ phạc không điểm phấn tô son
Sao mà đoán được người này là đệ nhất danh ca một thời.
Điệu nhạc xưa làm ta thầm nhỏ lệ
Lắng tai nghe lòng càng đau xót
Tự nhiên nhớ lại hai mươi năm trước
Bên hồ Giám trong dạ tiệc ta đã thấy nàng
Thành quách đã chuyển, người cũng đổi thay
Nương dâu trở thành biển cả đã nhiều
Cơ nghiệp Tây sơn cũng đà tiêu tán
Sót lại đây còn người múa ca.
Thấm thoắt trăm năm có là bao
Cảm thương chuyện cũ dùng áo thấm nước mắt
Ta từ Nam trở lại, đầu bạc trắng
Trách làm sao được sắc đẹp cũng suy tàn.
Hai mắt trừng lên tưởng nhớ chuyện xưa
Thương cho đối mặt mà chẳng nhìn nhận ra nhau.
Lời bình:
Đây là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Du, kể về cuộc gặp gỡ với một người chơi đàn từng nổi tiếng nhưng giờ đã suy tàn. Qua hình ảnh người đàn bà, Nguyễn Du nói lên sự hủy hoại của thời gian và sự bất công của xã hội đối với nghệ thuật và con người tài năng. Bài thơ thể hiện nỗi tiếc nuối cho những giá trị nghệ thuật bị lãng quên và sự thương cảm đối với số phận con người.
Ngộ gia đệ cựu ca cơ
Phồn hoa nhân vật loạn lai phi,
Huyền hạc quy lai kỷ cá tri.
Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển,
Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly.
Phúc bồn dĩ hĩ nan thâu thuỷ,
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ty.
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử,
Khả liên do trước khứ thời y.
Tạm dịch:
Sau buổi loạn lạc, nhân vật nơi chốn phồn hoa đã khác xưa.
Con chim hạc đen bay trở lại, nào mấy ai biết?
Ta từng nghe giọng ca uyển chuyển của nàng lúc xưa mặc áo hồng.
Nay đầu đã bạc, mới gặp lại nhau, nghe nàng than thở nỗi lưu ly.
Chậu nước đã đổ rồi, khó lòng vét lại.
Thương cho ngó sen đã đứt mà tơ vẫn còn vương.
Nghe nói nàng đã có chồng và đã có ba con.
Ái ngại thay nàng vẫn phải mặc cái áo xưa (vẫn làm ca cơ).
Lời bình:
Đây là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Du, kể về cuộc gặp gỡ với một người chơi đàn từng nổi tiếng nhưng giờ đã suy tàn. Qua hình ảnh người đàn bà, Nguyễn Du nói lên sự hủy hoại của thời gian và sự bất công của xã hội đối với nghệ thuật và con người tài năng. Bài thơ thể hiện nỗi tiếc nuối cho những giá trị nghệ thuật bị lãng quên và sự thương cảm đối với số phận con người.
Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành
Chinh phu hoài vãng lộ,
Dạ sắc thượng mông mông.
Nguyệt lạc viên thanh ngoại,
Nhân hành hổ tích trung.
Lực suy thường uý lộ,
Phát đoản bất cấm phong.
Dã túc phùng tiều giả,
Tương liên bất tại đồng
Tạm dịch:
Khách lữ hành nghĩ đến con đường trước mặt
Sắc trời đêm vẫn còn mờ mờ
Trăn lặn ngoài nơi có tiếng vượn hú
Người đi trong chốn cọp in dấu chân
Sức yếu thường sợ sương móc
Tóc ngắn không ngại gió thổi
Đêm ngủ nơi đồng quê gặp người đốn củi
Thương nhau không vì chỗ giống nhau
Lời bình:
Bài thơ miêu tả cảnh Nguyễn Du đi sớm trên con đường Phượng Hoàng, gợi lên cảm giác thanh tịnh và yên bình. Tuy nhiên, cảnh sắc ấy cũng mang đến cho ông những suy tư về cuộc đời. Hành trình trên đường Phượng Hoàng trở thành biểu tượng cho hành trình cuộc sống, với những trắc trở và thử thách nhưng cũng đầy hy vọng.
Lời kết
Thơ Nguyễn Du vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay dù được viết cách đây hàng chục, hàng trăm năm. Với tài năng cùng tấm lòng nhân hậu của mình, ông xứng đáng là Đại thi hào của dân tộc, là người ảnh hưởng lớn tới nền văn học hiện đại.