Tuyển tập những bài thơ của Nguyễn Duy

Thơ Nguyễn Duy vừa có chút ngang tàng vừa thể hiện sự trầm tĩnh và rất giàu cảm xúc. Hồn thơ của ông như kết hợp giữa chất duyên dáng và thế sự. Hãy cùng Thepoetmagazine tìm hiểu tuyển tập những bài thơ của Nguyễn Duy để hiểu hơn.

Tổng hợp thơ Nguyễn Duy

Thơ Nguyễn Duy chủ yếu nói về tình yêu quê hương đất nước và sự mong nhớ, yêu thương của nhà thơ dành cho gia đình, những người thân yêu khi nhập ngũ. Ông là một trong số ít cây bút góp phần làm mới thể thơ lục bát bằng những tác phẩm mang hơi hướng hiện đại, độc đáo.

Bài thơ của Nguyễn Duy
Bài thơ của Nguyễn Duy

Tuyển tập thơ Nguyễn Duy bao gồm:

Các bài thơ lẻ

  1. Ải Chi Lăng
  2. Bán vàng
  3. Đá ơi
  4. Hoa gạo
  5. Hoa lúa
  6. Khi chúng mình yêu nhau…
  7. Kim mộc thuỷ hoả thổ
  8. Lạng Sơn 1989
  9. Lên mặt trận, ngày đầu…
  10. Nét và hình
  11. Người đang yêu
    Nhớ bạn
  12. Rằm nguyệt thực
  13. Thơ tặng người ăn mày
  14. Trên sân trường
  15. Về làng
  16. Vũ điệu cây
  17. Vườn cây của ba
  18. Xin đừng buồn em nhé
  19. Yêu

Cát trắng – 1973

  1. Khúc dân ca
  2. Tre Việt Nam
  3. Tiếng hát mùa gặt
  4. Trống giục
  5. Bức tranh của tôi
  6. Vẽ biển
  7. Trận địa tím
  8. Khẩu súng trên tay ta
  9. Bầu trời vuông
  10. Tiếng kèn hiệu trong trận đánh cao điểm X.
  11. Chiều khẩu đội
  12. Lớp học trong mây
  13. Hơi ấm ổ rơm
  14. Nhớ
  15. Nhận được thư ở Đông Hà
  16. Khẩu súng, cây đàn
  17. Võng trăng
  18. Tiếng chim bạn bè
  19. Ở trên chốt, nghe tin bão
  20. Tiếng chim sau trận bom B52
  21. Ngủ trong rừng cao su
  22. Tôi nghe rất rõ
  23. Cột số bên đường
  24. Cát trắng
  25. Mảnh gương
  26. Chuyện cúng giỗ trong ấp chiến lược
  27. Em bé lạc mẹ
  28. Cô gái Hải Lăng
  29. Bà mẹ Triệu Phong
  30. Bát nước ngô của mẹ Việt ở Cam Lộ
  31. Bên hàng rào Ái Tử
  32. Giọt nước mắt và nụ cười
  33. Đất đỏ – nước xanh
  34. Hương cau trong đất
  35. Bàn chân người lính
  36. Qua phà Bến Thuỷ
  37. Con đường qua Bến Mới
  38. Ngã ba – con mắt – tấm lòng
  39. Tiếng hát đảo đèn
  40. Hạt lúa cháy nảy mầm
  41. Bài thơ tặng con
  42. Ý nghĩ trong đêm trực của người đỡ đẻ
  43. Sơ tán
  44. Bài hát người làm gạch
  45. Thằng giặc lái bị bắt ăn cơm bằng xác máy bay, uống nước bằng ống rốc-két…
  46. Phỏng vấn
  47. Từ trái bom đến trái dừa
  48. Hai lần chết của một người lính cộng hoà
  49. Trang sách chưa in
  50. Về thăm nhà Bác

Ánh Trăng – 1984

  1. Mùa thu
  2. Trở lại khúc hát ru
  3. Lời của cây
  4. … và lời của quả
  5. Âm thanh bàn tay
  6. Mưa trong nắng, nắng trong mưa3
  7. Muối trắng
  8. Tuổi thơ
  9. Cầu Bố
  10. Đò Lèn
  11. Gửi Huế – Bốn chiếc cầu bắc ngang sông Hương
  12. Gửi Huế – Đi qua Thành Nội
  13. Gửi Huế – Hỏi thăm
  14. Gửi Huế – Nhớ bạn
  15. Tìm thân nhân
  16. Nghe tắc kè kêu trong thành phố
  17. Ánh trăng
  18. Lời ru đồng đội
  19. Áp-xa-ra – người múa và điệu múa
  20. Chữ của trời
  21. Đêm ở chốt
  22. Dạ hương
  23. Chiến hào
  24. Ca dao vọng về
  25. Sông Thao
  26. Gửi từ vùng gió Phan Rang
  27. Trên đồng bông Phước Sơn
  28. Đà Lạt một lần trăng 3
  29. Tình ca nơi cuối đất
  30. Lời ru từ mũi Cà Mau
  31. Xuồng đầy
  32. Ông già sông Hậu
  33. Nhịp điệu bóng đá
Những bài thơ của Nguyễn Duy
Tập thơ Mẹ và Em

Mẹ và Em – 1987

  1. Thơ tặng người xa xứ
  2. Dòng sông mẹ
  3. Hầm chữ A
  4. Xó bếp
  5. Tre Việt Nam
  6. Hơi ấm ổ rơm
  7. Bầu trời vuông
  8. Tảo mộ
  9. Cỏ dại
  10. Gửi Huế – Bốn chiếc cầu bắc ngang sông Hương
  11. Gửi Huế – Đi qua Thành Nội
  12. Gửi Huế – Hỏi thăm
  13. Gửi Huế – Nhớ bạn
  14. Lời ru con cò biển
  15. Ánh trăng
  16. Nghe tắc kè kêu trong thành phố
  17. Lời ru đồng đội
  18. Thơ Tết
  19. Nhớ thiên nhiên
  20. Tuổi thơ
  21. Đò Lèn
  22. Cầu Bố
  23. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa…
  24. Gửi về Lam Sơn
  25. Xuồng đầy
  26. Sông Thao
  27. Ca dao vọng về
  28. Đà Lạt một lần trăng
  29. Mưa trong nắng, nắng trong mưa
  30. Đám mây dừng lại trên trời…
  31. Trăng sông Tiền
  32. Nha Trang… có một mối tình
  33. Một góc chiều Hà Nội
  34. Bất chợt
  35. Chim yến
  36. Hoa dọc đường xa
  37. Tưởng niệm
  38. Đánh thức tiềm lực

Đường xa – 1989

  1. Chút thu vàng
  2. Đường xa
  3. Gặp một người lính trẻ
  4. Gặp một ông vua xưa
  5. Giã từ A-rê-khô-vơ…
  6. Khúc hát hoà bình
  7. Nhìn từ xa… Tổ quốc!
  8. Phơi
  9. Rừng và phố
  10. Ta chờ mùa hạ sang
  11. Thăm nghĩa trang Ta-lin
  12. Thơ ngắn đường dài
  13. Thơ và bóng đá
  14. Tiếng gõ
  15. Trắng… và trắng…
  16. Trong đất
  17. Trước tượng đài Ki-ép
  18. Trước tượng Pu-skin
  19. Với Lép Tôn-xtôi

Về – 1994

  1. Ám ảnh cát
  2. Ảo giác
  3. Áo trắng má hồng
  4. Bao cấp thơ
  5. Chiều mận Hậu
  6. Chợ
  7. Chùm “Mộng du”
  8. Chùm “quả”
  9. Chùm “Tơ lụa”
  10. Chuông chiều
  11. Cõi về
  12. Cơm bụi ca
  13. Dịu và nhẹ
  14. Đanuýp đỏ
  15. Được yêu như thể ca dao
  16. Em ơi, gió…
  17. Giấc mộng trắng
  18. Gửi lại trường Lômônôxốp
  19. Hàng Châu
  20. Hoa hậu vườn nhà ta
  21. Khiêu vũ
  22. Không dám đâu
  23. Kính gửi tuổi học trò
  24. Kính thưa Liền Thị
  25. Liền anh đi chợ
  26. Mắt na
  27. Mắt nhãn
  28. Mời vợ uống rượu
  29. Mùa nước nổi
  30. Nợ nhuận bút
  31. Pháo Tết
  32. Rau muối
  33. Rơi và nhặt
  34. Sầu riêng
  35. Sương muối
  36. Thắp nhang và khấn
  37. Thi sỹ
  38. Thời gian
  39. Thuốc lào
  40. Tôi và em, và…
  41. Trở gió
  42. Vải thiều
  43. Về đồng
  44. Vết thời gian
  45. Vọng Tô Thị
  46. Vô tư
  47. Vợ ốm
  48. Vợ ơi…
  49. Xẩm ngọng
Thơ của Nguyễn Duy
Tập thơ Vợ ơi

Cát trắng – 1995

  1. Hầm chữ A
  2. Chiều khẩu đội
  3. Nhớ
  4. Xó bếp
  5. Võng trăng
  6. Hơi ấm ổ rơm
  7. Tiếng chim bạn bè
  8. Tre Việt Nam
  9. Bầu trời vuông
  10. Bài hát người làm gạch
  11. Cát trắng
  12. Giọt nước mắt và nụ cười
  13. Bát nước ngô của mẹ Việt ở Cam Lộ
  14. Hương cau trong đất
  15. Đứng lại
  16. Mưa trong nắng, nắng trong mưa
  17. Đám mây dừng lại trên trời…
  18. Lời ấm áp nói từ trong gió lạnh
  19. Âm thanh bàn tay
  20. Buổi sáng sau chiến tranh
    Tìm thân nhân
  21. Ánh trăng
  22. Nghe tắc kè kêu trong thành phố
  23. Lời ru đồng đội
  24. Áp-xa-ra – người múa và điệu múa
  25. Chi Lăng
  26. Dạ hương
  27. Tuổi thơ
  28. Cầu Bố
  29. Đò Lèn
  30. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa…
  31. Gửi về Lam Sơn
  32. Một góc chiều Hà Nội
  33. Sông Thao
  34. Đà Lạt một lần trăng
  35. Gửi lại Long Hưng
  36. Người cha
  37. Người con trai
  38. Người con gái
  39. Mưa
  40. Nắng
  41. Trăng
  42. Sao
  43. Đàn bầu
  44. Lời ru trong bão

Bụi – 1997

Phần 1 – Giữa đám đông

  1. Bài ca phiêu lưu
  2. Tí tẹo Bắc Âu
  3. Nhớ nhà
  4. Saint Louis, 14.6.1995
  5. Texas, 16.6.1995
  6. Boston, 21.6.1995
  7. New York, 7.7.1995
  8. Washington, 12.7.1995
  9. Hollywood, 21.7.1995
  10. San Diego, 28.7.1995
  11. Bolsa, 30.7.1995
  12. San Jose, 3.8.1995
  13. San Francisco, 5.8.1995
  14. Quận Cam, 9.8.1995
  15. Vớ vẩn
  16. Mirage
  17. Washington, mùa phơi
  18. Paris, mùa phơi
  19. London, mùa phơi
  20. Amsterdam, mùa phơi
  21. Cái nhìn từ bảo tàng Louvre
  22. Giác đấu
  23. Feria de Nimes
  24. Địa Trung Hải
  25. Nửa đêm
  26. Chỉ khác nhau cái nhìn, em ạ…
  27. La Loire
  28. Đường hầm qua biển Manche

Phần 2 – Một mình

  1. Thách thức
  2. Nấp vào bóng mình
  3. Giọt trời
  4. Mỗi
  5. Xác thời gian
  6. Thắc mắc
  7. Thương nhớ thơ ngây
  8. Chạnh lòng 1
  9. Chạnh lòng 2
  10. Dị ứng
  11. Rượu cuội
  12. Người trăng
  13. Tây Hồ phủ
  14. Tìm lại dấu xưa
  15. Tình ca cho người ly hôn
  16. Kiêng
  17. Ngọt ngào
  18. Nợ
  19. Hạ thuỷ
  20. Dân ơi!…
  21. Thật thà

Ngoài thơ, các tác phẩm tiêu biểu của Nguyên Duy còn bao gồm nhiều thể loại như kịch thơ, tiểu thuyết, bút ký, ký.

  • Em – Sóng (1983): Kịch thơ.
  • Khoảng cách (1986): Tiểu thuyết.
  • Nhìn ra bể rộng trời cao (1986): Bút ký.
  • Tôi thích làm vua ký (1988): Ký.
  • Ghi và Nhớ (2017): Ký.

Những bài thơ của Nguyễn Duy hay nhất

Các bài thơ của Nguyễn Duy mang hơi thở hiện đại, vừa ngang tàng vừa trầm tĩnh khiến người đọc rung động. Hãy cùng khám phá những tác phẩm nổi bật nhất của tác giả Nguyễn Duy ngay sau đây:

1. Ánh Trăng

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ

Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình

Các bài thơ của Nguyễn Duy
Bài thơ Ánh Trăng

2. Tre Việt Nam

Tre xanh,
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh.

Thân gầy guộc, lá mong manh,
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi,
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu.

Có gì đâu, có gì đâu,
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều.
Rễ siêng không ngại đất nghèo,
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù.
Vươn mình trong gió tre đu,
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành.
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh,
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm.

Bão bùng thân bọc lấy thân,
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm.
Thương nhau tre không ở riêng,
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người.
Chẳng may thân gãy cành rơi,
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng.
Nòi tre đâu chịu mọc cong,
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường.
Lưng trần phơi nắng phơi sương,
Có manh áo cộc tre nhường cho con.

Măng non là búp măng non,
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre.
Năm qua đi, tháng qua đi,
Tre già măng mọc có gì lạ đâu.

Mai sau,
Mai sau,
Mai sau…
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.

3. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào

Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa

Cái cò… sung chát đào chua…
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru

Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao
quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm…
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi

Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ… mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng

Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương…

4. Đò lèn

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm

Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn

Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!

5. Đánh thức tiềm lực

Hãy thức dậy, đất đai!
cho áo em tôi không còn vá vai
cho phần gạo mỗi nhà không còn thay bằng ngô, khoai, sắn…
xin bắt đầu từ cơm no, áo ấm
rồi thì đi xa hơn – đẹp, và giàu, và sung sướng hơn

Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non
châu báu vô biên dưới thềm lục địa
rừng đại ngàn bạc vàng là thế
phù sa muôn đời như sữa mẹ
sông giàu đằng sông và bể giàu đằng bể
còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào?
lòng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao?

***

Lúc này ta làm thơ cho nhau
đưa đẩy mà chi mấy lời ngọt lạt
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…

***

Tôi lớn lên bên bờ bãi sông Hồng
trong màu mỡ phù sa máu loãng
giặc giã từ con châu chấu, con cào cào
mương máng, đê điều ngổn ngang chiến hào
trang sử đất ngoằn ngoèo trận mạc
giọt mồ hôi nào có gì to tát
bao nhiêu đời mặn chát các dòng sông
bao nhiêu thời vỡ đê trắng đất mất đồng
thuyền vỏ trấu mỏng manh ba chìm bảy nổi
khúc dân ca cũng bèo dạt mây trôi
hột gạo nõn nà hao gầy đi vì thiên tai
đói thâm niên
đói truyền đời
điệu múa cổ cũng chậm buồn như đói…

***

Tôi đã qua những chặng đường miền Trung bỏng rát và dai dẳng
một bên là Trường-Sơn-cây-xanh
bên còn lại Trường-Sơn-cát-trắng
đồng bằng hình lá lúa gầy nhẳng
cơn bão chưa qua, hạn hán đổ tới rồi
ngọn cỏ nhọn thành gai mà trốn không khỏi úa
đất nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ
cơn gió Lào rát ruột lắm em ơi!

Hạt giống ở đây chết đi sống lại
hạt gạo kết tinh như hạt muối
cây lúa đứng lên cũng đạp đất đội trời

***

Tôi về quê em – châu thổ sáng ngời
sông Cửu Long giãn mình ra biển
đất cuồn cuộn sinh sôi và dịch chuyển
cây mắm cây tràm lặn lội mở đường đi

Đất tân sinh ngỡ ngọt ngào trên mặt
lòng còn chát chua nào mặn nào phèn
má sung sức và ba cường tráng thế
man mác âu sầu trong câu hát ru em

Đã qua đi những huyền thoại cũ mèm
những đồng lúa ma không trồng mà gặt
những ruộng cá không nuôi mà sẵn bắt
những ghểnh cẳng, vuốt râu mà làm chơi ăn thật
miếng ăn nào không nước mắt mồ hôi!

Ruộng bát ngát đó thôi, và gạo đắt đó thôi
đất ghiền phân vô cơ như người ghiền á phiện
con rầy nâu khoét rỗng cả mùa màng
thóc bỏ mục ngoài mưa thiếu xăng dầu vận chuyển
phà Cần Thơ lê lết người ăn xin
cây đàn hát rong não nề câu vọng cổ
quán nhậu lai rai – nơi thừa thiếu trốn tìm

***

Này, đất nước của ba miền cày ruộng
chưa đủ no cho đều khắp ba miền
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…

***

Lúc này tôi làm thơ tặng em
em có nghĩ tôi là đồ vô dụng?
vô dụng lấy đi của cuộc sống những gì
và trả lại được gì cho cuộc sống?

Em có nghĩ tôi là con chích choè ăn và gại mỏ?

Em có nghĩ tôi là tay chuyên sản xuất hàng giả?

Em có nghĩ tôi là kẻ thợ chữ đục đẽo nát cả giấy
múa võ bán cao trên trang viết mong manh?
tình nghĩa nhập nhằng với cái hư danh
tờ giấy chép văn thành tờ giấy bạc

Em có nghĩ…
mà thôi!

***

Xin em nhìn kia – người cuốc đất
(tôi cũng từng chai tay cuốc đất)
cái cuốc theo ta đời này, đời khác
lưỡi cuốc nhỏ nhoi liếm sạch cánh đồng rồi
dướn mình cao
chĩa cuốc lên trời
bổ xuống đánh phập
đẹp lắm chứ cái tạo hình cuốc đất!

Xin em nhìn – người gánh phân, gánh thóc
(tôi cũng từng mòn vai gánh phân, gánh thóc)
kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng
đẹp lắm chứ cái tạo hình gồng gánh!

Những cái đẹp thế kia… em có chạnh lòng không?
cái đẹp gợi về thuở ngày xưa ngày xửa
nhịp theo tiết tấu chậm buồn
cái đẹp ấy lẽ ra không nên tồn tại nữa!

Em có chạnh lòng chăng
giữa thành phố huy hoàng bạt ngàn quán nhậu
bỗng hiện lù lù cái xe hơi chạy than
vệt than rơi toé lửa mặt đường

Em có chạnh lòng chăng
xích lô đạp càng ngày càng nghênh ngang
xích lô máy và xe lam chạy dầu vừa nã đại liên vừa phun khói độc
người đi bộ vừa đi vừa nghĩ về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…

***

Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo
quen cái thói hay nói về gian khổ
dễ chạnh lòng trước cảnh thương tâm

Làng tôi xưa toàn nhà tranh vách đất
bãi tha ma không một cái mả xây
mùa gặt hái rơm nhiều, thóc ít
lũ trẻ chúng tôi vầy đất tối ngày

Thuở tới trường cũng đầu trần chân đất
chữ viết loằng ngoằng củ sắn ngọn khoai
thầy giáo giảng rằng
nước ta giàu lắm!…
lớp lớp trẻ con cứ thế học thuộc bài

***

Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
ta biết buồn để biết lạc quan
và, để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con
(dù sau này dầu mỏ đã phun lên
quặng bô-xít cao nguyên đã thành nồi thành soong
thành tàu bay hay tàu vũ trụ…
dù sau này có như thế… như thế… đi nữa
thì chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại)
rằng
đừng quên đất nước mình nghèo!

Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh
sau lưng ta là kỷ niệm bi tráng
trước mặt ta vẫn con đường gập ghềnh
vẫn trang trọng tấm lòng trung thực
dù có thể lỗi lầm – làm thế nào mà biết trước
dù có sao thì cũng phải chân thành

Xưa mẹ ru ta ngủ yên lành
để khôn lớn ta hát bài đánh thức
có lẽ nào người lớn cứ ru nhau
ru tiềm lực ngủ vùi trong thớ thịt

***

Tiềm lực còn ngủ yên
trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng

Tiềm lực còn ngủ yên
trong bộ óc mang khối u tự mãn

Tiềm lực còn ngủ yên
trong con mắt lờ đờ thuỷ tinh thể

Tiềm lực còn ngủ yên
trong lỗ tai viêm chai màng nhĩ

Tiềm lực còn ngủ yên
trong ống mũi khò khè không nhận biết mùi thơm

Tiềm lực còn ngủ yên
trong lớp da biếng lười cảm giác

Năng động lên nào
từ mỗi tế bào, từ mỗi giác quan
cố nhiên cần lưu ý tính năng động của cái lưỡi

***

Cần lưu ý
lời nói thật thà có thể bị buộc tội
lời nịnh hót dối lừa có thể được tuyên dương
đạo đức giả có thể thành dịch tả
lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường

Cần lưu ý
có cái miệng làm chức năng cái bẫy
sau nụ cười là lởm chởm răng cưa
có cái môi mỏng rát hơn lá mía
hôn má bên này bật máu má bên kia
có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa
khái niệm bắn ra không biết lối thu về

Cần lưu ý
có lắm sự nhân danh lạ lắm
mượn áo thánh thần che lốt ma ranh
nhân danh thiện tâm làm điều ác đức
rao vị nhân sinh để bán món vị mình

Cần lưu ý
có lắm nghề lạ lắm
nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau
nghề chửi đổng, nghề ngổi lê, nghề vu cáo
nghề ăn cắp lòng tin và chẹt họng đồng bào
có cả nghề siêu nghề gọi là nghề không làm gì cả
thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề…

Bộ sưu tập những điều ngang trái ấy
phù chú ma tà ru tiềm lực ngủ mê

***

Tôi muốn được làm tiếng hát của em
tiếng trong sáng của nắng và gió
tiếng chát chúa của máy và búa
tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai
tiếng trần trụi của lưỡi cuốc
lang thang
khắp đất nước
hát bài hát
ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC…

 

6. Ải Chi Lăng

Ải Chi Lăng! Ải Chi Lăng!
lưỡi gươm đẫm máu Liễu Thăng thuở nào
gập ghềnh lũng thấp đồi cao
vũng lầy thành ruộng đã bao nhiêu mùa

Chập chờn trận mạc xa xưa
quân reo ngựa hí gươm khua dậy trời
thịt xương xưa hoá đất rồi
nợ xưa còn để nặng đời sau ư?

Gió trên vách đá ù ù
nghe tù và dội xuống từ cao xanh…

7. Lạng Sơn 1989

Ta về thăm chiến trường xưa
em – hoa đào muộn Kỳ Lừa mùa xuân
gió đi để lạnh mưa dầm
người đi để buốt dấu chân trên đường

Đồng Đăng… Ải Khẩu… Bằng Tường…
chợ trời bán bán buôn buôn tít mù
ta đầy một bị ưu tư
giá như cũng bán được như bán hàng

Trớ trêu nỗi Hữu Nghị Quan
giá như máu chẳng luênh loang mặt đèo
A. Q. túm tóc Chí Phèo
để hai bác lính nhà nghèo cùng thua

Nỗi Tô Thị xót xa chưa
giá như đừng biết ngày xưa làm gì
giá như đã chả vô tri
để ta hỏi lối trở về thiên nhiên

Giá như ta chớ gặp em
để không mắc nợ cái duyên Kỳ Cùng
giá như em đã có chồng
để bòng bong khỏi rối lòng người dưng.

8. Gửi Huế – Bốn chiếc cầu bắc ngang sông Hương

Em đưa tôi qua Bạch Hổ, Tràng Tiền
vô cớ đứng tần ngần trên cầu Mới
sông Hương mùa này trong thấy đáy
nước về xuôi gió lại ngược lên ngàn

Em đánh số cho cầu theo tuổi nó
số một
số hai…
số ba chen vào giữa

Xin em đếm lại
bốn, ba, hai…
không lẽ em quên chiếc cầu số một
chiếc cầu treo cổ nhất
chiếc cầu dải yếm bắc từ xưa!…

9. Gửi Huế – Hỏi thăm

Vừa xa mà đã nghe lâu
hỏi thăm áo tím qua cầu có bay
ớt Đông Ba có còn cay
gạo de An Cựu độ này còn thơm

Hỏi thăm hoa phượng bên đường
sông Hương mấy bữa mưa nguồn còn trong
quán cơm Âm Phủ còn không
cô gì hôm ấy… lấy chồng hay chưa?

10. Hơi ấm ổ rơm

Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm
Bà mẹ đón tôi trong gió đêm
– Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ
Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm

Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm
Của những cọng rơm xơ xác gầy gò

Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa
Cái mộc mạc lên hương của lúa
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người

Bình Lục – một đêm lỡ đường

Tuyển tập thơ Nguyễn Duy
Hơi ấm ổ rơm

11. Tiếng hát mùa gặt

Lúa chín
Đồng chiêm phả nắng lên không
Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời

Gặt lúa
Tay nhè nhẹ chút người ơi
Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng
Dễ rơi là hạt đầu bông
Công một nén, của một đồng là đây

Tuốt lúa
Mảnh sân trăng lúa chất đầy
Vàng tuôn trong tiếng máy quay xập xình
Rơm vò từng búi rối tinh
Thân rơm rách để hạt lành lúa ơi

Phơi khô
Nắng non mầm mục mất thôi
Vì đời lúa đó mà phơi cho giòn
Nắng già hạt gạo thêm ngon
Bưng lưng cơm trắng nắng còn thơm tho

Quạt sạch
Cám ơn cơn gió vô tư
Quạt đi vù vù rác rưởi vương rơi
Hạt nào lép cứ bay thôi
Gió lên cho lúa sáng ngời mặt gương!

Đông Vệ – vụ chiêm 1971

12. Vườn cây của ba

Má trồng toàn những cây dễ thương
Nào là hoa, là rau, là lúa
Còn ba trồng toàn cây dễ sợ
Cây xù xì, cây lại có gai

Cái gai bưởi đụng vào thì chảy máu
Trái sầu riêng rớt xuống thì đầu u
Nhựa hột điều dính vào là rách áo
Cây dừa cao eo ơi, cao là cao

Cây ba trồng sống lâu thiệt là lâu
Mưa chẳng dập gió lay chẳng đổ
Thân xù xì cứ đứng trơ trơ
Cành gai góc đâm ngang tua tủa

Bưởi, sầu riêng, dừa, điều nhiều nhiều nữa
Cho em bốn mùa vị ngọt hương thơm
Vườn của ba cây trồng thì dễ sợ
Mà trái nào cũng thiệt dễ thương.

13. Đà lạt một lần trăng

Trăng ảo ảnh lập lờ trong sương trắng
ngọn gió nhà ai thấp thoáng ở bên đồi
tiếng móng ngựa gõ ròn trên dốc vắng
nghe mơ hồ một chiếc lá thông rơi

Em nhóm bếp bằng củi ngo chẻ nhỏ
ngọn lửa lấp đi khoảng vắng giữa hai người
tôi lơ đãng nhìn em nhìn lơ đãng
siêu nước pha trà vừa ấp úng sôi

Em biết chứ, chả ai lơ đãng cả
hòn than kia đang đỏ đến hết lòng
mà ngọn lửa cứ giả vờ le lói
mùi nhựa thông theo sợi khói đi vòng…

14. Được yêu như thể ca dao

Bao giờ cho tới ngày xưa
yêu như các cụ cho vừa lòng ta
cái thời chưa nhiễm SIDA
yêu lăn yêu lóc la đà đã chưa

Ðược yêu như các cụ xưa
cũng trăng gió cũng mây mưa ào ào
được yêu như thể ca dao
đủ phờ phạc đất đủ lao đao trời

Tây Tàu cũng thế thì thôi
y chang cay đắng ngọt bùi khổ đau
không trầu mà cũng chẳng cau
làm sao cho thắm môi nhau thì làm

15. Lên mặt trận, ngày đầu

Lên xứ Lạng
chưa thấy thành Tiên Xây
đâu chùa Tam Thanh
đâu nàng Tô Thị…

Quân giặc tràn qua đèo Hữu Nghị
Đồng Đăng thất thủ rồi
pháo Bằng Tường giội sang xối xả
dằng dặc giòng người sơ tán đổ về xuôi

Lẫn lộn người Kinh, người Tày, người Dao
nào gánh, nào xe, nào gùi, nào vác
hiển hiện những ngày xưa loạn lạc
biên ải xưa giặc giã mới tràn vào
những gương mặt nghìn năm đanh sắt lại
máu lửa ngỡ cũ rồi mà vẫn mới
vẫn mới cả nón mê cả áo vá chân trần…

Miếng cơm ăn cát bụi bên đường
giấc ngủ ngồi che hờ tàu lá chuối
ngôi nhà không bỏ trống sau lưng
đàn trâu lang thang lũ gà con xao xác
lũ trẻ con mắt tròn ngơ ngác
chân trẻ con lũn cũn chạy như đùa

Trẻ con trên ôtô trên xe trâu xe thồ
trẻ con trên lưng trẻ con trên tay
trẻ con lon ton níu váy níu áo
đòn gánh nữa kìa kẽo kẹt nghiến trên vai
một đầu gánh là trẻ con còn đầu kia là nồi là gạo
mắt trẻ con cứ tròn thao láo
như hòn sỏi ném theo đoàn quân đi…

Bao lứa trẻ từng lớn lên như thế
gặp lũ trẻ con nay bắt gặp tuổi thơ mình
gặp tuổi thơ của em
gặp tuổi thơ của anh
gặp lại cả mấy thời chạy loạn
thời là tản cư thời là sơ tán
gian nan xưa cứ tưởng đã cũ rồi!

Quân đi, quân đi
ngược lên biên giới
có cái nhìn như sỏi ném sau tôi…

Lời kết

Thơ Nguyễn Duy luôn thể hiện sự khẳng khái, bộc trực và giàu tính chiêm nghiệm. Trong suốt sự nghiệp sáng tác, tác giả đã gặt hái được rất nhiều thành tựu và giải thưởng lớn. Điều ấy chứng tỏ sức hút của những tác phẩm do ông chắp bút.

Xem thêm các tập thơ hay khác tại Thepoetmagazine:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *