20+ Những bài thơ Quang Dũng hay nhất
Thơ Quang Dũng mang nét riêng với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu và lãng mạn. Ông là một trong những nhà thơ tài năng, trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp. Vì vậy đại đa số các tác phẩm mà Quãng Dũng sáng tác đều liên quan đến chủ đề người lính và kháng chiến.
Những bài thơ Quang Dũng được yêu thích
Các bài thơ của Quang Dũng gắn liền với kháng chiến và cuộc sống của những người lính trong thời buổi đất nước khó khăn. Từng là một người lính, Quang Dũng thấu hiểu nỗi lòng, sự vất vả và tinh thần quyết tâm của người lính Việt. Từ đó, ông đưa những tâm tư tình cảm vào trong từng câu chữ.
Tây Tiến
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
*
Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
*
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
*
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Lời bình:
Tây Tiến là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Quang Dũng, phản ánh tâm hồn lãng mạn và bi tráng của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Với hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, bài thơ gợi lên không khí hào hùng của những người lính trẻ, vừa yêu nước, vừa đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên. Tác giả đã khéo léo kết hợp giữa tình yêu quê hương và nỗi nhớ đồng đội, tạo nên một bức tranh sinh động về cuộc sống nơi chiến trường.
Mắt người Sơn Tây
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Vừng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương?
Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ lệ chứa chan
Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây
Tôi gửi niềm nhớ thương
Em mang giùm tôi nhé
Ngày trở lại quê hương
Khúc hoàn ca rớm lệ
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
Em có bao giờ em nhớ ta?
Lời bình:
Mắt người Sơn Tây không chỉ là một bài thơ về vẻ đẹp của con người mà còn là một tác phẩm thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa con người và thiên nhiên. Đôi mắt Sơn Tây được miêu tả với những cảm xúc mãnh liệt, biểu trưng cho sự kiên cường và tâm hồn nhạy cảm của người dân nơi đây. Tác giả đã tạo ra một hình ảnh đẹp đẽ, kết hợp giữa tính cụ thể và biểu tượng, khắc họa sự sâu sắc của con người trong khung cảnh núi rừng.
Đôi bờ
Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai?
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
Mắt kia em có sầu cô quạnh
Khi chớm thu về một sớm mai?
Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự
Kinh thành em có nhớ bên tê?
Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến
Hiu hắt chiều sông lạnh bến tề.
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ
Xa quá rồi em người mỗi ngả
Đôi bờ đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
Lời bình:
Đôi bờ là bài thơ thể hiện tình yêu và nỗi nhớ của tác giả về quê hương, với những hình ảnh gần gũi của dòng sông, bờ cát. Bài thơ mang âm hưởng tâm tình, với những câu thơ tràn đầy cảm xúc. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng những hình ảnh cụ thể để diễn tả tình cảm sâu sắc, vừa lãng mạn vừa đau thương.
Mây đầu ô
Mây ở đầu ô mây lang thang
Ôi! Chật làm sao
Góc phố phường
Mây ở đầu ô
Hẹn những chân trời xa lạ
Qua một ngọn cột đèn
Chiều tối lại bừng con mắt đỏ
Cành bàng mái cũ khẳng khiu
Vườn đẹp khi mùa rụng lá
Cành bàng lại mở tàn xanh
Mùa hạ về theo chim sẻ
Nhưng ta có gì
Tự thấy những ngày không tẻ?
Mây trắng lang thang
Gió đuổi bời bời phố chật
Những lớp người hai mươi tuổi
Ca nước đập vỏ bình toong
Khăn mặt thấm mồ hôi
Bụi đỏ
Bụi vàng
Trung du bóng cọ
Nắng đốt màu da họ
Là nắng triền cao
Tay sém ngấn mặt trời
Là trời công trường xa tít tắp
Áo ngực xanh yếm biển
Bay bay dãi mũ Hải Quân
Những gã hai mươi mùa xuân
Từ đâu thổi vào thành phố?…
Mây mùa thu
Lọt qua trời hẹp ngõ
Lướt nhanh qua mái ngói ba tầng
Tiếng dương cầm…
Ta theo tiếng nhạc
Bay khỏi mái nhà
Ta mê xanh thẳm
Như cánh chim trời
Thấy
Mình còn sức trẻ
Ơi! Những bạn tôi
Vào lớp tuổi năm mươi
Mây ở đầu ô
Trời xanh lộng thế…
Lời bình:
Quang Dũng đã vẽ lên bức tranh của thiên nhiên và con người, thể hiện tâm trạng của người lính giữa núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh “mây đầu ô” không chỉ biểu trưng cho sự hùng vĩ của thiên nhiên mà còn là nỗi trăn trở và hoài niệm của con người. Tác giả đã khéo léo kết hợp giữa hiện thực và cảm xúc, tạo ra một không gian nghệ thuật đầy ám ảnh.
Quán bên đường
Tôi khách qua đường, trưa nắng gắt
Nghỉ nhờ đây quán lệch tường xiêu
Giàn mướp nghèo không hứa hẹn bao nhiêu
Mùa gạo đắt, đường xa, thưa khách vắng
Em đắp chăn dầy, tóc em trĩu nặng
Tôi mồ hôi ra ngực áo chan chan…
Đường tản cư bao suối lạ sương ngàn
Em mê sảng sốt hồng đôi má
Em có một mình nhà hoang vắng quá
Mảnh chăn đào em đắp, có hoa thêu
Hàng của em, chai lọ xác xơ nghèo
Tôi nhìn lại mảnh quần xưa đã vá
Tôi chợt nhớ chúng ta không nhà cửa
Em tản cư, tôi là lính tiền phương
Xa Hà Nội, cùng nhau, từ một thuở
Lòng rưng rưng thương nhau quá dọc đường
Tiền nước trả em rồi. Nắng gắt
Đường xa xa mờ núi và mây
Hồn lính vương vài qua sợi tóc
Tôi thương mà em đâu có hay…
Lời bình:
Quán bên đường mang đến một không khí ấm áp và thân thuộc của những buổi chiều tà bên quán nhỏ. Qua những hình ảnh giản dị và chân thật, bài thơ gợi nhớ về những kỷ niệm đẹp trong cuộc sống, thể hiện tâm hồn lãng mạn của tác giả. Ngôn ngữ giản dị nhưng giàu hình ảnh, mang đến sự gần gũi và cảm xúc sâu sắc cho người đọc.
Không đề (I)
Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa
Những cây ổi thơm ngày ấy
Và vầng hoa ngâu mưa thu
Tóc anh đã thành mây trắng
Mắt em dáng thời gian qua
Ngày nay ngày nay
Chuyện đẹp qua đi
Thời gian gấp ruổi
Còn lại chúng ta
Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa
Giữ trọn tình người cho đẹp
Ơi! Con đường xưa
Những mùa trút lá
Cành bàng mồ côi
Cổng cũ rêu phong
Ý đợi người
Ơi! Con đường xưa
Men vườn ổi thơm
Em tuổi hai mươi
Yêu anh hào hiệp
Bỏ em, anh đi
Đường hai mươi năm
Dài bao chia ly
Có những vợ chồng
Không là trăm năm
Mà tình thương yêu
[…]
Sông ơi! Dài sao
Rộng ơi! Biển cả
Thôi em nước mắt
Đừng rơi lã chã!
Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa…
Giữ trọn tình người cho đẹp.
Lời bình:
Bài thơ thể hiện những trăn trở của tác giả về cuộc sống và cái đẹp. Quang Dũng đã sử dụng ngôn ngữ tinh tế để thể hiện những suy tư sâu sắc, tạo nên một không gian thơ đầy trăn trở. Đây là một trong những bài thơ hay của Quang Dũng mở ra nhiều tầng ý nghĩa, khơi gợi sự suy nghĩ và cảm nhận của người đọc về cuộc sống.
Lính râu ria
Khuya khoắt sông bờ vắng
Lửa hồng quán tản cư
Lính mấy chàng vất vả
Tìm sống một đêm thơ
Một người kêu cà-phê
Một anh gọi thuốc lá
Một người nhìn sau trước…
– Chị ơi! Ly rượu nhỏ!
Rượu nhỏ một ly thôi
Một ly cho đỏ mặt
Cho lên hương cuộc đời
– Chị ơi! Cháu ngủ đâu
Rồi anh bế con chị
Anh lim dim cúi đầu
Cô bé cười chúm chím
Mắt non nhìn như sao
Đôi mắt nhìn như sao
Má hồng như trái mận
Mùa đang độ ngọt ngào!
Bàn tay như rễ cây
Bộ râu hơn bàn chải
Anh ôm con người ta
Anh ôm ghì nó mãi
Cô bé năm tháng trời
Tuổi anh vừa ba mươi
Vợ anh giờ này đâu?
Anh mỉm cười rười rượi
Khi anh về đã xa
Chị dọn hàng đi ngủ
Chép miệng trong hơi chăn
Chị buồn chi không rõ
Khuya khoắt sông bờ vắng
Tiếng súng rền xa xa
Lính mấy chàng phanh ngực
Hát nhẹ lên bài ca…
Lời bình:
Lính râu ria khắc họa chân dung những người lính với hình ảnh gần gũi, thân thuộc. Qua đó, Quang Dũng đã thể hiện tình cảm yêu mến và sự tôn trọng đối với những người đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Bài thơ vừa mang tính tự sự vừa lãng mạn, làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn và sự mạnh mẽ của con người.
Bố Hạ
Cuối năm trên đường đi Bố Hạ
Tháng chạp mùa cam lửa đốm vườn
Bãi sỏi quanh co dòng nước chậm
Cheo leo cầu tạm vắt sông Thương
Xe ngựa bình yên leo dốc đỏ
Cuối năm trên đường đi Bố Hạ
Đỉnh đồi quán sậy dựng phên lau
Ngựa dừng rủ bụi than tàu hoả
Đường ấp chia tay khách hỏi chào
Cuối năm trên đường đi Bố Hạ
Ruộng bậc thang còn trơ gốc rạ
Rừng núi mờ xa khói trẻ trâu
Tơi nón trung du em về đâu
Nhớ ai trên đường đi Bố Hạ…
Rừng xa Yên Thế hùm thiêng nằm
Đồn cũ Phồn Xương rét cuối năm
Râu tóc tướng quân cờ nghĩa ruổi
Ngựa chiến băng đường dấu còn mới
Nép bóng vườn cam đường Bố Hạ
Mả Tây, tri huyện lập công làm
Bia ký quân thù trận Nhã Nam.
Lời bình:
Quang Dũng đã ghi lại hình ảnh của một người lính trong những ngày tháng kháng chiến, với những cảm xúc chân thực và mãnh liệt. Bài thơ thể hiện tình cảm gắn bó với đồng đội và nỗi nhớ quê hương, tạo nên một không gian đầy chất thơ và ý nghĩa nhân văn.
Đường trăng
Đường ấy dừa trăng như cổ tích
đường vào những truyện thuở ngày xanh
đường qua bến lội ngang người cát
biển thuỷ triều dâng mặn nước lành
Đường ấy đi về qua bóng núi
miếu đêm soi lạnh xuống sông dài
lay động màn sương trên khói sóng
thuyền khơi ai gõ mạn xa khơi
Đường ấy sao khuya đầm nước mắt
trong vời như ngọc, lá tre xanh
giếng làng còn ướt trăng trên đá
chim ngủ xôn xao độn lá cành
Là những đường đi qua ngõ trúc
mẹ gìà thao thức ngó qua phên
hành quân trong đám người đêm ấy
biết có con thương của mẹ hiền
Là những đường trăng qua bến láng
hoa nhài thơm ngõ đượm quân trang
lớp này lớp khác người sang hết
thuyền lại nằm phơi dưới nguyệt vàng
Là bước quân đi đường kháng chiến
lòng thôn trăng giải biết bao nhiêu
bao nhiêu giấc ngủ làng thôn động
gà chợt nhầm canh chợt gáy theo.
Lời bình:
Đường trăng thể hiện vẻ đẹp lãng mạn và huyền ảo của thiên nhiên. Qua những hình ảnh thơ mộng, Quang Dũng đã khắc họa sự giao thoa giữa con người và thiên nhiên, tạo ra một không gian nghệ thuật đầy chất thơ. Bài thơ không chỉ là sự miêu tả thiên nhiên mà còn là một cuộc hành trình tâm hồn.
Pha Đin
Như từng đợt sóng bủa lên trời
Hùng vĩ Pha Đin gì sánh được
Lắc đầu tài xế thấm mồ hôi
Bến dốc chon von ngàn thước vực
Lên thì “Cổng trời” xuống vực thẳm
Uốn quanh đá trắng lượn vòng thang
Ngựa thồ đỉnh dốc nhỏ như kiến
Đi trong đường mây rắc bụi vàng
Đẹp như sơn thuỷ tranh đời Tống
Ầm tiếng xe lu vách đá vọng
Mờ ảo công trường hiện dưới lau
Đôi hạt cầu đường lán lưu động
Còn bay than bếp dưới hoa đào
Hùng vĩ Pha Đin gì sánh được
Đường của dân công đi dưới đuốc
Giọng hò Nghệ Tĩnh nức lòng quân
Gạo, muối đêm ngày vây hãm giặc
Đâu đây đứt pháo xích kêu giòn
Liệt sĩ tên còn xanh núi non
Cơn gió bóng mây qua đỉnh Việt
Mà như lau sậy có linh hồn
Dừng xe trông mây nhìn phương Nam
Hà Nội mốc đường cây bốn trăm
Hợp tác Bình Thuận rải chân dốc
Gạo quê Tiền Hải đã thơm rừng
Hùng vĩ Pha Đin gì sánh được
Giang sơn gấm vóc một miền Tây
Mới thấy yêu sao là Đất Nước
Pha Đin ngàn chớp nổi hồ mây.
Lời bình:
Pha Đin là bài thơ thể hiện tình yêu quê hương, nơi tác giả khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh Pha Đin hiện lên như một biểu tượng của sức mạnh và vẻ đẹp của thiên nhiên. Quang Dũng đã thành công trong việc tạo ra bức tranh thiên nhiên đầy sức sống, khiến người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của đất nước.
Tổng hợp các tác phẩm của Quang Dũng mới nhất
Sau khi chiến dịch Tây Tiến kết thúc, Quang Dũng trở về đảm nhận ví trí Trưởng tiểu ban tuyên huấn và Trưởng đoàn văn nghệ liên khu III. Ông tiếp tục sáng tác nhiều bài thơ, truyện ngắn và viết kịch. Cùng điểm những bài thơ của Quang Dũng trong giai đoạn này ngay sau đây:
Mười hai cô gái trồng cây
Chim chưa dậy, gà chưa gáy canh đầu
Rá đã thơm mùi cơm mới rỡ
Ăn trong lửa bếp nực than hồng
Còn tưởng bữa ăn trong giấc ngủ
Uống hết mấy tuần nước vối đặc
Nhìn ra rừng còn trong bóng đêm
Một tiếng cu rúc buông vắng lặng
Đi thôi lên vai nào cuốc chim!
Một tổ mười hai cô gái trẻ
Áo khăn gọn gàng như xuất quân
Chân đi tất xanh – ủng lâm nghiệp
Chưa sáng đã lo ngày chóng hết
Một tiếng chim non cất cuối đồi
Cùng lúc ve ngày cất tiếng hát
Mười hai cô gái tổ trồng cây
Tóc lộng bình minh hương núi mát
Mười hai cô gái tổ trồng cây
Đi cuốc đồi xa trồng gỗ lát.
Lời bình:
Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng tự hào về đất nước. Qua hình ảnh những cô gái cần mẫn trồng cây, Quang Dũng đã truyền tải thông điệp về sự gìn giữ và phát triển môi trường. Tác phẩm không chỉ mang ý nghĩa xã hội mà còn thể hiện tâm hồn nhạy cảm và lạc quan của tác giả.
Bất Bạt đêm giao quân
Ba Vì tảng trán xanh
Thức với mây Đoài trắng xoá
Đất nước ông cha
Sông Hồng nặng đỏ
Đêm nay
Đêm giao quân
Hãy nghỉ tay chèo và gấp lưới
Bữa riêu thơm khói bếp nhà chải
Ăn vội
Trống tập trung
Vang vọng bãi Lương Tuyền
Mẹ tiễn qua sông
Bến Mộc gặp trăng lên
Hãy tạm biệt những bếp hồng lửa sưởi
Trao súng săn nỏ cứng gửi người già
Không đợi kiêng ngày chim và tháng hổ
Nước gọi ta rồi. Trai Mán đi xa
Hãy trao đường cày những cánh đồng cao sản
Cho lớp em ngoan mười cô gái xã Tòng
Tiếng chiêng trống mừng công và tiễn biệt
Gợi thuở ra quân nào trên đất cũ Văn Lang
Rậm rịch đêm trăng
Ngõ làng – Xóm bến
Đỉnh núi – Triền sông
Đường rơm làng quyến luyến bước thu đông
Đêm nay Bất Bạt ra tiền tuyến
Từ đỉnh Ba Vì, đất nước trông.
Lời bình:
Bất Bạt đêm giao quân khắc họa không khí căng thẳng của cuộc chiến tranh, đồng thời thể hiện tình cảm sâu sắc của người lính. Qua hình ảnh đêm giao quân, Quang Dũng đã tạo ra một không gian đầy cảm xúc, thể hiện sự mạnh mẽ và kiên cường của con người.
Rừng
Rừng ta thâm nghiêm
Um tùm bóng cả
Xanh Trường Sơn cây cổ đại nghìn năm
Rừng miền Tây che gió Lào quạt lửa
Đông Bắc rừng che kín mỏ hầm
Vòm xanh mái nhà
Đinh, lim dựng cột
Bóng ông cha từ những tuổi đá vàng
Một rừng già trong bão táp
Hiên ngang
che chở nắng mưa dân tộc
Ngàn vạn dòng khe tung nước trắng
Ngàn bản hùng ca reo chiến thắng
Tiếng rừng đâu chỉ tiếng tiều phu
Tiếng búa sơn tràng rơi vắng lặng
Tiếng rừng không chỉ tiếng voi đi
Răng rắc cành rơi
Ào lá rụng
Tiếng rừng không chỉ tiếng hươu vàng
Tiếng hoẵng điềm mưa vách đá vang
Cồng mở tổ tiên xưa đã nổi
Trống đồng ốc lệnh đuổi xâm lăng
Rừng Lam Sơn
vào lịch sử
đầy trang
Buổi dựng Nước
Cây ngàn dâng sóng biển
Rừng Bắc Giang
Ba mươi năm tử chiến
Không chung thước đất với quân thù
Hoa lau trắng bạc trời Yên Thế
Danh Hoàng Hoa Thám rạng muôn thu
Tiếng rừng đâu chỉ tiếng tiều phu
Tiếng búa sơn tràng rơi vắng lặng
Sớm rừng một buổi Tiến quân ca
Đất nước anh hùng cất cánh
Đốm lửa chiến khu thành ánh sáng
Đã nhen trong bóng những rừng già
Mười năm giữ nước cây không mỏi
Gai góc
Dây leo
Chằng chịt lối
Bộ đội làm thơ yêu quí Rừng
Rằng:
“Tây có mắt mà như bưng”
Lính giặc ra hàng còn khiếp vía
Quân ta xanh lá hiện ngang đường
Rừng trên mũ súng vào quân địch
Lá rừng thét gió đợt xung phong
Im rồi! Chiến dịch vừa ngơi súng
Thắng trận anh về áo rách bươm
Lá cũng tả tơi nhường mệt mỏi
Càng thêm kiêu đẹp vẻ anh hùng
Nhớ mái rừng xanh
Ngày tản cư
Măng dang
Nõn nứa
Ngày đợi
Đêm chờ
Ơn rừng ta đặt tên con nhỏ
Là những “Đèo Hoa” những “Suối Thơ”
Bao công dân mới mười lăm tuổi
Đã sinh cùng Nước một rừng xa
Kháng chiến thành công
Người tạm biệt
Với rừng. Cây lá đổ về xuôi
Quân vào Hà Nội đường thơm hắc
Trấn thủ còn mang vị núi đồi
Lá nguỵ trang xanh đầu trọng pháo
Hương rừng bỗng mát cả ngày vui
*
Ta ở rừng về
Ta lại lên
Lâm trường ta dựng giữa thiên nhiên
Bừng trang sử mới
Trang rừng mới
Hoang vu nào hẹp lượng tài nguyên
Từng cho hơi thở nghìn năm sống
Từng biếc màu nuôi đất vững bền
Từng có hôm nay, Rừng vẫn đó
Tiếng rừng hay tiếng mẹ ru êm?
Ai nghe tiếng rừng
Mà không xao xuyến
Có cây vàng tâm
Lìa rừng
xuôi bến
Ơi cây vàng tâm!
Vàng tâm yêu quí
Lìa rừng quê hương
Tiếng cưa máy nổ
Bụi gỗ bay vàng
Tôi là bộ đội
Tôi đi sơn tràng
Xin rừng một cây
Xin rừng một cây
Đem lên máy kéo
Kíp ngoài cửa rừng
Đón về nhà cưa
Gỗ thơm ta xẻ
Đổi hàng Liên Xô
Rừng ơi! Rừng ơi
Cây là no ấm
Vàng thơm ngàn tấm
Ta xin rừng về
Ai nghe tiếng rừng
Cây “sau sau” đổ
Ai nghe tiếng rừng
Mà không rộn ràng
Này cây “sau sau”
Này cây “dẻ hương”
Này cây “dẻ cuông”
Gốc mấy người ôm
Ngọn khiếp cánh chim
Tiếng đổ như sấm
Run nép cầy muông
Trâu chờ dô hụi
Là trâu lên đường
Trâu Đọi gắng sức
Trâu Bỉnh chịu thương
Trâu Sỉ chịu khó
Nào ta băng rừng!
Quanh co đường dốc
Chín suối chặn ngang
Trâu Đọi gắng sức
Trâu Bỉnh chịu thương
Trâu Sỉ chịu khó
Nào ta lên đường!
Mai nằm máy kéo
Lao bè bến Trưng
Gỗ sẽ ra rừng
Xuôi về cửa biển
Xuôi qua làng bến
Những bầy em thơ
Lội chơi bờ biếc
Em ơi có biết
Ta phải xa rừng
Bềnh bồng sóng cả
Vì các em không?
Ai nghe tiếng rừng
Mà không bâng khuâng
Đây giọng Trị Thiên, Quảng Ngãi
Em ru Đồng Tháp bưng biền
Anh tự miền Nam tập kết
Về đây ngả gỗ trồng rừng
Những ngày phát lau dọn cỏ
Beo về quanh lán gầm vang
Mưa Lào mái nghiêng nước dột
Gian nan thử lửa xem vàng
Bữa cơm thường không chắc dạ
Lán gianh mấy chòm trong sương
Khe Chè muỗi độc rung cơn sốt
Rào Mắc đường đi con lũ hung
Rào Qua thú ác rình theo bước
Nhìn ngược nhìn xuôi núi điệp trùng
Anh nghe tiếng rừng
Hôm nay máy điện
Đêm đêm nổ giòn
Đèn như hoa núi
Lâm trường Hương Sơn
Anh nghe tiếng rừng
Sớm nay máy kéo
Dọn nhà đi đâu?
– “Ta đi trạm mới
Thay dần sức trâu
Nay ở Ngàn Phố
Mai qua Khe Rào”
Có chiếc giường xinh
Đem theo cần trục
Máy kéo dọn nhà
Dận ga đường dốc
Độ nghỉ dừng trưa vo gạo suối
Ba lạng cơm vàng thịt nướng khô
Trưa rồi lau lách chim ru mộng
Báo rọc lưng vời trong tiếng thơ
Dầu máy hăng pha mùi cỏ dại
Nhớ trăng Hoàn Kiếm tưởng em chờ
Ngày rừng mây lướt nhanh khe thẳm
Chiều núi đường còn gấp trạm xa
Thư trên tay lái khoan rồi viết
Máy kéo lên đường tiếng rú ga
Tiếng rừng đâu chỉ tiếng voi đi
Răng rắc cành khô
Ào lá rụng
Tiếng rừng đâu phải tiếng hươu vàng
Tiếng hoẵng điềm mưa vách đá vang
Tiếng rừng đâu phải tiếng tiều phu
Nhát búa sơn tràng rơi vắng lặng
Giã từ đồng đất tuyết Liên Xô
Anh bạn đi làm cây nhiệt đới
Gió Lào anh lại nhớ rừng Nga
Rồi buổi mưa ngàn dâng lũ suối!
Nhà anh, ta lát gỗ vàng tâm
Cửa đẹp vui người tay thợ giỏi
Bóng rừng len lỏi bước chuyên gia
Ai nghe tiếng rừng
Mà không bồi hồi
Mà chẳng bồi hồi
Gió nhẹ lướt vườn ươm giống quí
Đinh, lim, sến, táu tuổi đầy tôi
Chò chỉ, chò nâu cao sánh núi
Hôm nay cây chửa đến vai người
Ta xin – ta trả – ta ươm hạt
Ta giữ rừng thiêng của giống nòi
Em gái đời sau tìm gỗ quí
Buông cưa nguyên tử mắt xa vời:
– “Những cây cổ thụ này
Cha, chú
đã trồng thế kỷ thứ hai mươi”.
Em ơi! Công nhân đời mai sau
Em nghe rừng nổi gió thì thào
Có tiếng đời nay trong tiếng ấy
Qua rừng cây trẻ nắng lao xao
Ai nghe tiếng rừng
Lòng không dạt dào?
Ai nghe
tiếng rừng…
Lời bình:
Trong Rừng, Quang Dũng đã thể hiện tình yêu thiên nhiên và tâm hồn nhạy cảm của mình. Bài thơ tạo ra hình ảnh sống động về rừng núi, gợi lên vẻ đẹp hùng vĩ và tráng lệ của thiên nhiên. Qua đó, tác giả đã thể hiện sự gắn bó giữa con người và môi trường sống.
Đường 12
Đường Mười hai
Đường Mười hai anh dũng
Đường dài hun hút đá răm
Mình mang đầy vết đạn bom
Nhưng quân thù khiếp sợ
Không một chiếc cầu chưa gục
Không một quán lều chưa bắn
Nhưng bên trong những hố bom
Thành giếng nước rửa chân trong vắt
Chuối, đu đủ lại trồng quanh
Quán hàng lại thay mái mới
Mùi tren lá thơm xanh.
Đường Mười hai ban ngày
Im mà dữ tợn
Nắng rãi trên đá nhọn
Đâm chân người
Chỉ có trên trời
Mặt trời và phi cơ giặc
Đường Mười hai ban ngày
Hoạ hoằn có bóng người đi vội
Mình che đầy lá nguỵ trang
Những hố tăng sẽ đùn đất đỏ tươi
Như hốc mắt nhìn lên trời thẳm.
Nhưng mặt trời vừa chìm
Sau những rặng núi đầu
Của Trường Sơn vươn sẫm
Đường Mười hai trắng trong hoàng hôn
Bỗng đen đặc người
Những nhịp chân đi rầm rập
Cùng với gió đêm bắt đầu thổi mát
Đèn hoa kỳ sáng lên
Tưng bừng trảy hội
Đường Mười hai trở dậy
Sau giấc ngủ ban ngày.
Từ những xóm lẻ
Ẩn trong lùm tre
Từ những lối mòn qua ruộng
Nghìn chiếc xe mui khum
Bắt đầu chuyển bánh
Đổ ra đường Mười hai
Vó ngựa nhịp nhàng
Những chiếc xe mui khum
Lộc cộc từng hàng
Hướng về miền Tây, Việt Bắc
Những chú ngựa bờm dài
Hất đầu lắc nhạc
Hí lên từng hồi
Phất đuôi mừng khởi hành
Đường ngựa sặc mồ hôi
Bóng roi vung lên vòm sao xanh
Những anh chàng cầm cương
Buộc chiếc đèn chai
Dưới gầm xe lúc lắc
Ngồi tán chuyện tiếu lâm.
Như chiếc xe thồ có tay ngai
Dáng điệu rất là kiêu hãnh
Đã đi mấy trăm cây dài
Từ Nghệ An Hà Tĩnh
Nghỉ lại Nho Quan
Hút điếu thuốc sợi vàng
Nhìn lên sao Bắc Đẩu
Đêm nào vượt sông Đà?…
Đêm nào qua sông Hồng?…
Những chặng đường đi ngay mũi giặc
Để đem hàng lên
Cho liên khu Việt Bắc.
Những chiếc xe thồ
Là mạch máu lưu thông
Những ngày ta đánh giặc.
Ở những hang núi
Ven đường Mười hai
Vệt đèn pha xuyên qua lá rừng
Từng đoàn môlôtôba chuyển bánh
Người đi đường phải tránh
Say mùi ét xăng
Thấy trên đường chiến dịch
Chúng ta đi băng băng
Những hồi còi giục vội
Như lời một bài ca phấn khởi.
Có những đêm gió bão
Giông rừng đổ mưa ngàn
Trên đường Mười hai
Không ngớt bóng người đi
Những đoàn dân công
Áo sặc mồ hôi gió mặn
Bước chân qua
Bờ cát biển xanh Trung bộ
Bước chân qua Đồi ngang
Những gót chân sỏi bùn lỗ chỗ
Mang gạo lên chiến trường
Những đoàn người đi mười tháng dân công
Đêm đêm lại trên đường Mười hai
Bóng dài theo bóng đèn chai lúc lắc
Có những đêm trăng sáng
Vách núi vang lên
Giọng hò Nghệ Tĩnh miền Thanh
Những đoàn dân công
Dừng lại châu Trang
Đón bát nước tươi vàng
Bàn tay áo chàm
Chị em miền núi.
Đường Mười hai đêm đêm hành quân
Bóng bộ đội chính quy
Bước vào chiến dịch
Lù lù pháo nặng
Đường Mười hai đêm đêm hành quân
Em nhỏ bên đường thức giấc
Nghe tiếng hò tiếng hát
Tiếng giày vải, tiếng cười
Có những đêm nghé liếp
Thấy lũ lượt tù binh
Râu xồm xoàm kéo lệt sệt giày đinh
Anh bộ đội của ta
Súng máy trong tay cầm chắc
Đường Mười hai ban đêm vùng dậy
Cứ đêm này qua đêm khác
Những đoàn xe ngựa mui khum
Nối nhau đi trường kỳ kháng chiến
Cứ đêm này tiếp đêm kia
Từng lớp dân công đèn dầu le lói
Trong đêm hò hát gọi nhau…
Hết đêm này đến đêm sau
Những người lái xe thồ
Mồ hôi thấm bụi đường đá bột
Cuộc sống chúng ta
Lao về phía tiền phương
Lúc mặt trời vừa tắt
Nhanh như đoàn xe đêm đêm
Gầm lên không biết mệt.
Đường Mười hai
Đường Mười hai anh dũng
Đường dài hun hút đá răm
Mình đang đầy vết đạn bom
Nhưng quân thù khiếp sợ
Đêm đêm đường Mười hai vùng dậy
Sau một ngày nghỉ ngơi
Dồn dập chân đi cuồn cuộn sóng người
Chiến đấu
Giặc điên dại
Không một bóng cầu
Không một quán lều chưa phá
Napan, bom bướm, bom dây
Nhưng bên những hố bom
Thành giếng nước
Chuối, đu đủ lại trồng quanh
Quán lều lại thay lá mới
Mùi lạt thơm xanh.
Lời bình:
Đường 12 là bài thơ mang đậm âm hưởng của thời kỳ kháng chiến, thể hiện sự khắc nghiệt của cuộc sống chiến tranh. Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh con đường đầy khó khăn và gian khổ, nhưng cũng không kém phần lãng mạn và huyền bí. Tác phẩm là một bản hùng ca về sức mạnh và tinh thần kiên cường của con người.
Tiết xôi mới trên đường khai hoang
Đường thôn rạ vàng
Ngậy mùi cơm mới
Tháng mười quê ta
Gạo mùa chim ngói
Quê vui lúa màu
Ao trong trời xanh
Bay lá tre khô
Rơi chùm sung chín
Nhớ ai mong chờ
Anh đi khai hoang
Thêm tên những làng
Thêm đồng lúa mới
Mai thành quê hương
Tháng mười hành quân
Đưa theo xóm làng
Đường thôn rạ vàng
Gạo đồ chim ngói
Đi làm quê hương.
Lời bình:
Bài thơ thể hiện niềm vui và hy vọng của con người trong công cuộc xây dựng quê hương. Hình ảnh những người nông dân cặm cụi lao động tạo ra một không gian đầy sức sống, thể hiện tình yêu và niềm tự hào về quê hương.
Cố quận
Trăng sáng vẫn vờn đôi bóng cau
Ngồi đây mà gửi nhớ phương nào
Gió mát lung linh vầng Bắc Đẩu
Tiếng hè ếch nhái rộn bờ ao.
Ngồi đây năm năm miền ly hương
Quê người đôi gót mải tha phương
Có những chiều chiều trăng đỉnh núi
Nhà ai chày gạo giã đêm sương
Tịch mịch sầu vơi bèo râm ran
Côn trùng im ỉm lối trăng tàn
Người ơi quê cũ đèn hoe ngọn
Tóc bạc trông chừng cảnh héo hon
Ngõ trúc quanh quanh sầu bóng lá
Trăng vàng rơi rắc nẻo nào xưa
Ngõ cũ không mong người trở lại
Mà mùi hoa mộc vẫn thơm đưa
Đốt khói lên rồi hương viễn vông
Dòng xanh thoáng biến cảnh hư không
U hiển liễu trai về quá khứ
Chuối vườn rũ lá đóm bay vòng
Em ơi, em ơi đêm dần vơi
Trông về phương ấy ngóng trông người
Trăng có soi qua vầng tóc bạc
Nẻo về cố quận nhớ thương ôi!
Lời bình:
Quang Dũng đã miêu tả vẻ đẹp của quê hương qua những hình ảnh cụ thể và gần gũi. Bài thơ thể hiện sự gắn bó sâu sắc với mảnh đất nơi mình lớn lên, tạo ra không khí ấm áp và thân thuộc trong lòng người đọc.
Hồ Nam
Ai biết Hồ Nam giờ ra sao?
Xa cách hồn quê động bóng cau
Ðám cưới qua đò quai nón mới
Mười năm còn tưởng bóng cô dâu
Ai biết Hồ Nam giờ đổi thay
Bãi sỏi gầm quanh nước réo ngày
Em nhỏ tắm trâu chiều núi biếc
Giờ em chiến sĩ ở đâu đây
Ai nhớ Hồ Nam mây trắng xa
Giây nói tham mưu giăng mọi nhà
Tư lệnh cùng dân ăn cỗ giỗ
Ði rồi còn nhắc mãi quân ta
“Một hàng cau phơ phất
Một hàng mây xa xôi
Trong mưa chiều hiu hắt
Buồn lắm Hồ Nam ơi!”
Vàng cũ thời gian trang nhật ký
Bâng khuâng y tá mắt trông người
Chưa vào chiến dịch – quân y vắng
Quê nhà Hà Nội dạ như khơi.
Lời bình:
Hồ Nam là bài thơ thể hiện tình yêu và nỗi nhớ quê hương, nơi tác giả đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Hình ảnh hồ nước xanh mát cùng những kỷ niệm đẹp đã tạo nên một không gian thơ đầy cảm xúc, gợi nhớ về những ngày tháng êm đềm.
Một phút thoáng qua
Chưa gặp sao đành thương nhớ nhau?
Đôi phen số mệnh cũng cơ cầu
Người đi mang nửa hồn đơn lẻ
Tôi về hoài vọng một đôi câu
Khói thuốc chiều sông hỡi dáng người!
Phương nào đôi mắt ngó xa xôi
Nào ai biết được niềm u ẩn
Từng lắng nhiều trong những mảnh đời
Tôi viết chiều nay chiều tưởng vọng
Làm thơ mình lại tặng riêng mình
Sông trôi luống gợi dòng vô hạn
Biền biệt ngày xanh xa ngày xanh
Thời đại bao lần khô nước mắt
Hoa đèn riêng gửi chút tâm tư
Ngắn dài đã học người thiên cổ
Vạn đại sầu lên chẳng bến bờ
Chiều ấy em về thương nhớ ai?
Tôi chắc đường đi đã rất dài
Tim tím chiều hôm lên bóng núi
Dọc đường mờ những cánh hoa phai
Một chút linh hồn nhỏ
Đi về chân núi xanh
Màu tím chiều chầm chậm
Hoàng hôn nghe một mình
Giáo đường chuông rời rạc
Tan vỡ nhiều âm thanh
Một chút linh hồn nhỏ
Đi về chân núi xanh.
Lời bình:
Một phút thoáng qua thể hiện những suy tư về cuộc sống và cái đẹp. Quang Dũng đã sử dụng ngôn ngữ tinh tế để tạo nên những hình ảnh sống động, thể hiện những cảm xúc mãnh liệt và sâu sắc trong từng khoảnh khắc.
Thơ tặng ông Lang
Gian khổ đường ta ta cứ đi
Vững tâm theo kháng chiến trường kỳ
Trắng trong nguyền giữ lòng cam thảo
Son sắt càng thơm dạ quế chi
Non nước đã vương tơ đỗ trọng
Giàu sang đâu hám chữ đương qui
Lênh đênh dầu mấy lênh đênh nữa
Tin tưởng ngày mai rộng lối đi.
Lời bình:
Thơ tặng ông Lang là tác phẩm tiêu biểu thể hiện tình cảm sâu sắc và sự trân trọng của nhà thơ Quang Dũng đối với ông Lang – một người thầy thuốc và cũng là biểu tượng của trí thức trong bối cảnh xã hội những năm kháng chiến. Bài thơ không chỉ đơn thuần là một lời chúc mừng hay cảm ơn, mà còn mang trong mình những suy tư, cảm nhận và triết lý sống sâu sắc về con người và cuộc đời.
Lời kết
Tuyển tập thơ Quang Dũng hay nhất mọi thời đại sẽ giúp bạn có thêm hiểu biết về ông. Phong cách sáng tác của Quang Dũng phóng khoáng và lãng mạn. Ngoài Tây Tiến, ông còn được biết đến như tác giả của nhiều bài thơ nổi tiếng khác.