30 bài thơ Tản Đà hay nhất không thể bỏ qua
Thơ Tản Đà là di sản văn học vô giá của nhân loại. Với tài năng tuyệt vời, vị thi sĩ nổi tiếng để lại cho thế hệ sau hàng trăm, hàng nghìn tác phẩm thơ hay. Cùng Thepoetmagazine.org khám phá tuyển tập những bài thơ của Tản Đà hay nhất, bạn không thể bỏ qua.
Tuyển tập thơ Tản Đà được yêu thích nhất
Những bài thơ của Tản Đà phóng khoáng và là nguồn cảm hứng bất tận cho thế hệ sau. Ông là người gìn giữ, phất lên ngọn cờ thi ca Việt thế kỷ 20. Dưới đây là tổng hợp tất tần tật những bài thơ, tác phẩm tiêu biểu của Tản Đà:
Thề non nước
Nước non nặng một nhời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non.
Nhớ nhời “nguyện nước thề non”,
Nước đi chưa lại, non còn đứng không.
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Giời tây chiếu bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non!
Dẫu rằng sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước, hãy còn thề xưa.
Non xanh đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi!
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước không nguôi nhời thề.
Lời bình:
Thề non nước là một trong các tác phẩm tiêu biểu của Tản Đà. Bài thơ diễn tả nỗi lòng đau đớn trước sự chia lìa của đôi tình nhân. Sự tương phản giữa non và nước, hai hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng nhưng lại không thể cùng tồn tại, trở thành biểu tượng của tình yêu không thể thành hiện thực. Nhà thơ Tản Đà đã khéo léo đưa yếu tố thiên nhiên vào để tạo nên một khung cảnh lãng mạn nhưng đầy bi thương.
Tương tư
Quái lạ, làm sao cứ nhớ nhau,
Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu.
Bốn phương mây nước, người đôi ngả,
Hai chữ “tương tư” một gánh sầu.
Lời bình:
Bài thơ Tương tư của Tản Đà đượm buồn và đầy cảm xúc. Nỗi nhớ nhung, tương tư của người thi sĩ được thể hiện qua những dòng thơ nhẹ nhàng nhưng ám ảnh. Hình ảnh người thương xa xôi nhưng vẫn hiện diện trong từng khoảnh khắc đời sống của tác giả cho thấy một tâm hồn yêu đương say đắm, tràn đầy cảm xúc mãnh liệt.
Muốn làm thằng cuội
Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám.
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.
Lời bình:
Trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội, Tản Đà thể hiện khát vọng trốn khỏi cuộc đời thực, tìm về một nơi thanh thản, yên bình. Hình ảnh Cuội ngồi gốc đa trên cung trăng mang tính chất lãng mạn và thoát tục, nhưng ẩn chứa trong đó là sự bất mãn với thực tại. Bài thơ là lời tâm sự của một tâm hồn mệt mỏi với cuộc sống, mong muốn thoát ly khỏi thế giới bon chen.
Tống biệt
Hai tiên nữ nói: Hai chàng nay đã nhớ đến quê hương mà muốn về, chúng tôi nghĩ giữ lại làm sao cho tiện! Vậy xin kính đưa ra tới cửa động này mà có nhời thưa rằng:
Hai chàng,
Bởi tiền thế nhiều phần phúc đức,
Nên ngày nay kết bạn tiên cung.
Nhưng nợ trần vướng vít gỡ chưa xong,
Xui cõi tục mơ mòng còn tưởng nhớ!
Nay đến lúc kẻ đi người ở,
Thôi từ nay vĩnh cách tràng ly.
Ngãi trăm năm còn một khúc ca thi,
Dâng quân tải để làm nghi tống biệt.
Ngâm: Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai,
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai,
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi…
Lời bình:
Tống biệt là bài thơ nói về cảm giác chia tay, một chủ đề phổ biến trong văn học, nhưng Tản Đà đã tạo ra một âm hưởng rất riêng. Bài thơ toát lên sự lưu luyến nhưng cũng chấp nhận số phận chia xa, không ai có thể chống lại được. Những câu thơ chứa đựng sự buồn bã nhưng lại rất đỗi bình thản, phản ánh tinh thần của người thi sĩ đã trải qua nhiều nỗi đau chia lìa.
Nếu bạn thắc mắc Tản Đà là tác giả của bài thơ nào thì Tống biệt chính là câu trả lời hàng đầu.
Hầu giời
Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! thật phách! thật thân thể!
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!
Nguyên lúc canh ba, nằm một mình
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn ngồi dậy, đun nước uống
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn
Chơi văn ngâm chán, lại chơi giăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên giời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:
“Giời nghe hạ giới ai ngâm nga
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà
Làm Giời mất ngủ, Giời đương mắng
Có hay, lên đọc Giời nghe qua”
Ước mãi, bây giờ mới gặp tiên!
Người tiên nghe tiếng lại như quen!
Văn chương nào có hay cho lắm
Giời đã sai gọi thời phải lên
Theo hai cô tiên lên đường mây
Vù vù không cánh mà như bay
Cửa son, đỏ trói, oai rực rỡ
Thiên môn đế khuyết như là đây!
Vào trông thấy Giời, xụp xuống lạy
Giời sai tiên nữ dắt lôi dậy
Ghế bành như tuyết, vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy
Tiên đồng pha nước, uống vừa xong
Bỗng thấy chư tiên đến thật đông
Chung quay bầy ghế ngồi la liệt
Tiên bà, Tiên cô cùng Tiên ông
Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc
Giời sai pha nước để nhấp giọng
Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe
“Dạ bẩm lạy Giời, con xin đọc”
Đọc hết văn vần, sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý, lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Trè giời nhấp giọng càng tốt hơi
Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Giời nghe, Giời cũng lấy làm hay
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài, cùng vỗ tay
“Bẩm con không dám man cửa Giời
Những các văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lý
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Giời, văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi!”
Văn đã giầu thay, lại lắm lối
Giời nghe Giời cũng bượch buồn cười
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
“Anh gánh lên đây, bán chợ giời”
Giời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít?
Nhời văn truốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây truyển!
Êm như gió thoảng! tinh như sương!
Đầm như mưa sa! lạnh như tuyết!
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
Người ở phương nào, ta chửa biết”
“Dạ, bẩm lạy Giời, con xin thưa:
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”
Nghe xong, Giời ngợ một chút lâu
Sai bảo Thiên Tào lấy sổ xét
Thiên Tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lên trình Thượng đế trông:
“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đầy xuống hạ giới vì tội ngông”
Giời rằng: “Không phải là Giời đầy
Giời định sai con một việc nầy
Là việc “thiên lương” của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay”
“Bẩm Giời, cảnh con thật nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ Giời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó
Giấy người, mực người, thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém, tuổi ngày cao
Sức trong non yếu, ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm triều
Giời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có nổi mà dám theo?”
Rằng: “Con không nói, Giời đã biết
Giời dẫu ngồi cao, Giời thấu hết
Thôi, con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!
Cố xong công việc của Trời sai
Trời sẽ cho con về Đế khuyết”
Vâng nhời Giời dạy, lạy xin ra
Trời sai Thiên Ngưu đóng xe tiễn
Xe giời đã chực ngoài thiên môn
Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt
Hai hàng luỵ biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi!
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai
Đêm khuya, khí thanh, sao thưa vắng
Giăng tà đưa lối về non đoài
Non đoài đã tới quê trần giới
Trông lên chư tiên không còn ai
Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi
Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đêm lên hầu Giời!
Lời bình:
Hầu giời là tác phẩm độc đáo, pha lẫn giữa chất thơ và truyện ngắn, mang phong cách hài hước và châm biếm. Tản Đà mượn câu chuyện lên trời hầu giời để bày tỏ sự phê phán nhẹ nhàng đối với cuộc sống trần gian, nơi ông cảm thấy thiếu công bằng và áp lực. Giọng điệu dí dỏm của bài thơ cho thấy tài năng biến đổi cảm xúc và sáng tạo của Tản Đà, đưa ra những thông điệp sâu sắc dưới hình thức hài hước.
Vân thê
Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương
Vuốt rùa chàng đổi máy
Lông ngỗng thiếp đưa đường
Thề nguyền phu phụ
Lòng nhi nữ
Việc quân vương
Duyên nọ tình kia dở dở dang!
Nệm gấm vó câu
Trăm năm giọt lệ
Ngọc trai nước giếng
Nghìn thu khói nhang
Lời bình:
Vân thê mang đậm nét phong cách của Tản Đà, với sự hòa quyện giữa thiên nhiên và tình cảm con người. Trong bài thơ, hình ảnh mây trời biểu trưng cho nỗi nhớ nhung, tình cảm gắn bó lâu dài.
Sự nhẹ nhàng và bay bổng của hình ảnh mây cũng gợi lên những mộng tưởng về cuộc đời và số phận. Bài thơ cũng thể hiện sự sâu lắng trong suy tư về nhân sinh, duyên kiếp, điều này góp phần làm nên cái “tôi” triết lý và mơ mộng đặc trưng của nhà thơ.
Cảm thu
Từ vào thu đến nay,
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Giăng thu bạch,
Khói thu xây thành.
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh,
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về én lại bay đi,
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm.
Lá sen tàn tạ trong đầm,
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa.
Sắc đâu nhuộm ố quan hà,
Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương.
Nào người cố lý tha hương,
Cảm thu, ai có tư lường hỡi ai?
Nào những ai,
Bảy thước thân nam tử,
Bốn bể chí tang bồng;
Đường mây chưa bổng cánh hồng,
Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu my.
Nào những ai,
Sinh trưởng nơi khuê các,
Khuya sớm phận nữ nhi.
Song the ngày tháng thoi đi,
Vương tơ ngắm rện nhỡ thì thương hoa.
Nào những ai,
Tha phương khách thổ,
Hải giác thiên nha,
Ruột tầm héo, tóc sương pha,
Gốc phần chạnh tưởng quê nhà đòi cơn.
Nào những ai,
Cù lao báo đức,
Sinh dưỡng đền ơn,
Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn,
Giầu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn.
Nào những ai,
Tóc xanh mây cuốn.
Má đỏ huê ghen,
Làng chơi duyên đã hết duyên.
Khúc sông giăng rãi con thuyền chơi vơi.
Nào những ai,
Dọc ngang giời rộng,
Vùng vẫy bể khơi,
Đội giời đạp đất ở đời;
Sa cơ thất thế quê người chiếc thân.
Nào những ai,
Kê vàng tỉnh mộng,
Tóc bạc thương thân,
Vèo trông lá rụng đầy sân,
Công danh phù thế có ngần ấy thôi.
Thôi nghĩ cho,
Thu tự giời,
Cảm tự người,
Người đời ai cảm ta không biết,
Ta cảm thay ai, viết mấy lời.
Thôi thời,
Cùng thu tạm biệt,
Thu hãy tạm lui,
Chi để khách đa tình đa cảm,
Một mình thay cảm những ai ai.
Lời bình:
Tản Đà viết Cảm thu với giọng điệu nhẹ nhàng, nhưng chất chứa nỗi buồn. Mùa thu trong thơ ông không chỉ là mùa của sự chuyển đổi thiên nhiên mà còn là mùa của sự hoài niệm, sự mất mát. Ông sử dụng hình ảnh mùa thu để diễn tả tâm trạng lo âu và cảm giác cô đơn, trống trải trong lòng mình.
Đây xứng đáng là một trong các bài thơ của Tản Đà được yêu thích nhất.
Thăm mả cũ bên đường
Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà,
Đường xa, người vắng, bóng chiều tà,
Một dãy lau cao làn gió chạy,
Mấy cây thưa lá sắc vàng pha.
Ngoài xa trơ một đống đất đỏ,
Hang hốc đùn lên đám cỏ gà.
Người nằm dưới mả, ai ai đó?
Biết có quê đây hay vùng xa?
Hay là thuở trước kẻ cung đao?
Hám đạn liều tên quyết mũi đao.
Cửa nhà xa cách vợ con khuất,
Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao,
Hay là thuở trước kẻ văn chương?
Chen hội công danh nhỡ lạc đường.
Tài cao phận thấp chí khí uất,
Giang hồ mê chơi, quên quê hương.
Hay là thuở trước khách hồng nhan?
Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen.
Phong trần xui gặp bước lưu lạc,
Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn.
Hay là thuở trước khách phong lưu?
Vợ con đàn hạc đề huề theo.
Quan san xa lạ đường lối khó,
Ma thiêng nước độc phong sương nhiều.
Hay là thuở trước bậc tài danh?
Đôi đôi, lứa lứa cũng linh tinh
Giận duyên tủi phận hờn ân ái,
Đất khách nhờ chôn một khối tình!
Suối vàng sâu thẳm biết là ai?
Mả cũ không ai kẻ đoái hoài!
Trải bao ngày tháng trơ trơ đó,
Mưa dầu, nắng dãi, trăng mờ soi!
Ấy thực quê hương con người ta
Dặn bảo trên đường những khách qua:
Có tiếng khóc oe thời có thế
Trăm năm ai lại biết ai mà!
Lời bình:
Trong bài Thăm mả cũ bên đường, Tản Đà không chỉ thể hiện lòng hoài niệm về quá khứ mà còn gợi lên cảm xúc về sự vô thường của kiếp người. Những ngôi mộ cũ nằm lặng lẽ bên đường, biểu tượng cho những cuộc đời đã qua, khiến người đọc suy ngẫm về số phận và sự mất mát.
Thông qua bài thơ, Tản Đà truyền tải thông điệp về sự ngắn ngủi của cuộc đời và sự cần thiết của việc nhìn lại những dấu vết lịch sử và ký ức đã lãng quên. Bài thơ không quá u buồn nhưng đầy triết lý nhân sinh.
Cảnh vui nhà nghèo
Trong trần thế cảnh nghèo là khổ
Nỗi sinh nhai khốn khó qua ngày
Quanh năm gạo chịu tiền vay
Vợ chồng lo tính hôm rày hôm mai.
Áo lành rách vá may đắp điếm
Nhà ở thuê chật hẹp quanh co
Tạm yên đủ ấm vừa no
Cái buồn khôn xiết, cái lo khôn cùng.
Con đi học con bồng con dắt
Lớn chưa khôn lắt nhắt thơ ngây,
Hôm hôm lớn bé sum vầy
Cũng nên vui vẻ mà khuây nỗi buồn.
Nghĩ thiên hạ cho con đi học
Cảnh phong lưu phú túc nói chi!
Những ai bần bạc hàn vi
Lo buồn, đã vậy, vui thì cũng vui.
Tan buổi học mẹ ngồi tựa cửa
Mắt trông con đứa đứa về dần
Xa xa con đã tới gần
Các con về đủ quây quần bữa ăn.
Cơm dưa muối khó khăn mới có,
Của không ngon, nhà khó cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm giòn
Chồng chồng vợ vợ con con một nhà.
Ăn rồi học, tối qua lại sáng,
Ít tiền tiêu ngày tháng thảnh thơi,
Chiều chiều tối tối mai mai
Miễn sao no đủ, việc đời quản chi!
Con nhà khó nhiều khi vất vả,
Ngoài học đường thư thả được đâu,
Khi thời quẩy nước tưới rau
Chợ tan đón gánh theo sau mẹ già.
Việc giấy bút vẫn là đi học
Cảnh gia đình khó nhọc nhường ai?
Ví chăng có chí có tài
Khi nên, trời cũng cho người làm nên.
Khắp xã hội nghèo hèn ai đó
Mẹ thương con thời cố công nuôi
Những con nhà khó kia ơi
Có thương cha mẹ thời vui học hành!
Cũng chẳng kể thành danh lúc khác
Trời đã cho bước bước càng hay
Nghèo mà học được như nay
Vinh hoa chưa dễ sánh tày cái vui.
Trong trần thế nhiều nơi phú quý
Nỗi buồn riêng ai ví như ai?
Bày ra cái cảnh có trời
Vui buồn cũng ở tự người thế gian.
Lời bình:
Cảnh vui nhà nghèo là một trong những bài thơ thể hiện rõ nét chất đời trong thơ Tản Đà. Dù cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nhưng tác giả vẫn tìm thấy niềm vui từ những điều giản dị, gần gũi. Qua bài thơ, Tản Đà cho thấy một tinh thần lạc quan, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh. Ông thể hiện sự yêu đời, yêu thiên nhiên, và luôn tìm thấy cái đẹp trong mọi tình huống. Sự chân thành và giản dị trong cách diễn tả của ông đã chạm đến lòng người đọc, khiến bài thơ trở nên gần gũi và chân thực.
Đời đáng chán
Người đời thử ngẫm mà hay
Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!
Còn ai ai tỉnh ai mê
Những ai thiên cổ đi về những đâu?
Đời đáng chán hay không đáng chán?
Cất chén quỳnh, riêng hỏi bạn tri âm
Giá khuynh thành nhất tiếu thiên câm
Mắt xanh trắng đổi nhầm bao khách tục
Giang hà nhật hạ nhân giai trọc
Thiên địa lô trung thục hữu tình
Đón đưa ai gió lá chim cành
Ấy nhân thế phù sinh là thế thế
Khách phù thế chửa dứt câu phù thế
Người phong lưu càng đượm vẻ phong lưu
Bức khăn hồng nâng đỡ hạt châu
Chuyện kim cổ một vài câu phải trái
Châu Nam Hải, thuyền chìm sông Thuý Ái
Sóng Tiền Đường, cỏ áy bến Ô giang
Ngẫm nghìn xưa: ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang
Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ
Đời đáng chán biết thôi là đủ
Sự chán đời xin nhủ lại tri âm
Nên chăng nghĩ lại kẻo nhầm.
Lời bình:
Bài thơ Đời đáng chán thể hiện tâm trạng chán chường, bế tắc trước cuộc sống đầy khó khăn, thử thách. Tản Đà không ngần ngại bày tỏ cảm xúc thật của mình trước sự nhạt nhẽo của đời thường. Qua bài thơ, ông dường như muốn nói về những nỗi thất vọng và đau khổ mà con người phải đối mặt, từ đó đưa ra lời nhắc nhở về sự phù du của cuộc sống. Tuy nhiên, ngay cả trong sự chán nản, tác giả vẫn giữ được phong thái điềm tĩnh và suy tư sâu sắc, tạo nên sức hút riêng cho bài thơ.
Gió thu
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm, lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng!
Trận gió thu phong rụng lá hồng
Lá bay tường bắc, lá sang đông
Hồng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không!
Lời bình:
Gió thu là tác phẩm của Tản Đà thể hiện sự nhạy cảm trước thiên nhiên. Hình ảnh gió thu không chỉ mang đến cảm giác mát lành, mà còn là biểu tượng của những biến đổi trong lòng người. Thu đến, gió se lạnh cũng là lúc con người dễ cảm nhận được sự cô đơn và nỗi buồn man mác.
Tản Đà thể hiện sự nhạy bén với thời gian và không gian, qua đó gợi lên những cảm xúc nội tâm đầy tinh tế. Bài thơ mang đến cảm giác nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, phản ánh một tâm hồn tinh tế và yêu thiên nhiên.
Lại say
Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thời hư vậy, say thời cứ say.
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười?
Say chẳng biết phen này là mấy!
Nhìn non xanh chẳng thấy, lại là say.
Quái! Say sao say mãi thế này?
Say suốt cả đêm ngày như bất tỉnh.
Thê ngôn tuý tửu chân vô ích
Ngã dục tiêu sầu thả tự do
Việc trần ai, ai tỉnh ai lo
Say tuý luý nhỏ to đều bất kể.
Trời đất nhỉ, cái say là sướng thế!
Vợ can chồng, ai dễ đã chừa ngay?
Muốn say lại cứ mà say!
Lời bình:
Bài thơ “Lại say” nói về tình trạng say sưa của tác giả, không chỉ là say rượu mà còn là say trong nỗi buồn đời. Tản Đà thường sử dụng hình ảnh say để diễn tả sự thoát ly tạm thời khỏi hiện thực đau khổ. Bài thơ là sự kết hợp giữa nỗi cô đơn và khát khao tìm kiếm một sự an ủi trong thế giới mộng mơ.
Gặp xuân
Gặp xuân ta giữ xuân chơi
Câu thơ chén rượu là nơi đi về
Hết xuân, cạn chén, xuân về
Nghìn thu nét mực xuân đề vẫn xuân!
Xuân ơi xuân hỡi!
Vắng xuân lâu ta vẫn đợi, chờ, mong
Trải bao nhiêu ngày tháng hạ, thu, đông
Ròng rã nỗi nhớ nhung, xuân có biết?
Khứ tuế xuân qui, sầu cửu biệt
Kim niên xuân đáo, khách tương phùng
Gặp ta nay xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác, trong lòng ta chẳng khác
Kể từ thuở biết xuân bốn chín năm về trước
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
Đến xuân nay ta tuổi đã năm mươi
Tính trăm tuổi, đời người ta có nửa
Còn sau nữa lại bao nhiêu xuân nữa
Mặc trời cho, ta chửa hỏi làm chi
Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi
Chỗ quen biết kể gì ai chủ khách
Thiên cổ vị văn song Lý Bạch
Nhất niên hà đắc lưỡng Đông quân
Dẫu trăm năm gặp gỡ đủ trăm lần
Thơ với rượu cùng xuân, ta cứ thế
Ngoài trăm tuổi, vắng ta trần thế
Xuân nhớ ta chưa dễ biết đâu tìm!
Cùng nhau nay hãy uống thêm!
Lời bình:
Bài thơ Gặp xuân miêu tả niềm vui và sự hân hoan khi gặp lại mùa xuân. Mùa xuân trong thơ ông không chỉ là mùa của sự sinh sôi, nảy nở mà còn là mùa của hy vọng và niềm vui mới. Qua bài thơ, ta cảm nhận được tình yêu cuộc sống và tinh thần lạc quan của Tản Đà, dù cuộc đời có nhiều khó khăn và bất trắc, ông vẫn giữ niềm tin vào những điều tốt đẹp.
Nhớ mộng
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng
Tiếc mộng bao nhiêu dễ ngán đời
Những lúc canh gà ba cốc rượu
Nào khi cánh điệp bốn phương giời?
Tìm đâu cho thấy người trong mộng
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai!
Lời bình:
Nhớ mộng là một trong những bài thơ hay của Tản Đà chứa đầy hoài niệm và lãng mạn. Tản Đà sử dụng hình ảnh giấc mộng để nói về những kỷ niệm đã qua, những điều đẹp đẽ trong quá khứ mà tác giả không thể quên. Giấc mộng ở đây không chỉ là sự ảo vọng, mà còn là biểu tượng cho những ước mơ, khát vọng mà con người từng theo đuổi.
Tản Đà đã khéo léo sử dụng hình ảnh này để diễn tả nỗi buồn và sự tiếc nuối khi hiện thực không như mong đợi. Bài thơ mang tính chất tự sự, giàu cảm xúc và thể hiện rõ nét phong cách lãng mạn của ông.
Lưu tình
Dưới bóng giăng tròn, tán lá xanh
Nhớ chăng? chăng nhớ? hỡi chăng mình?
Trăm năm ghi nguyện cùng non nước
Nước biếc non xanh một chữ tình
Lời bình:
Lưu tình là bài thơ nói về sự nhớ nhung và tình cảm lưu luyến. Qua những câu thơ nhẹ nhàng, Tản Đà diễn tả được nỗi lòng của người yêu xa, nỗi nhớ không thể dứt bỏ và tình cảm không thể nguôi ngoai. Bài thơ là minh chứng cho khả năng thể hiện tình yêu sâu sắc và tinh tế của Tản Đà, khiến người đọc cảm nhận được sự chân thành trong từng câu chữ.
Thơ thẩn
Phòng văn lặng ngắt bóng giăng mờ
Ngồi nghĩ thơ mà luống thẩn thơ
Chỉ thắm ai người tơ tưởng mối
Ruột tằm còn những vấn vương tơ
Bụi nhờn mặt trắng da đen sạm
Tuyết nhuộm đầu xanh tóc bạc phơ
Thơ nghĩ chưa ra già đã tới
Buồn chăng ai hỡi, bạn làng thơ!
Lời bình:
Trong bài thơ Thơ thẩn, Tản Đà đưa người đọc vào một không gian tĩnh lặng, nơi mà ông có thể thong dong suy nghĩ về cuộc đời và bản thân. Cách ông viết về cảm giác lạc lõng, bâng khuâng giữa cuộc sống thể hiện một tâm hồn nghệ sĩ giàu cảm xúc. Sự cô đơn trong bài thơ không nặng nề, mà mang đến cảm giác như một cuộc đối thoại nội tâm, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc.
Đùa cô sư
Ai ai đứng khuất bóng giăng mờ
Cô sử, cô sư khéo thẫn thờ
Cửa Phật những mong tròn quả phúc
Cõi trần sao nỡ dứt duyên tơ?
Vãi già tiểu bé đâu đâu cả?
Chùa vắng sân không thế thế ư?
Tớ dẫu chưa tu, đầu dở trọc
Phen này ốm trọc cũng ra sư
Lời bình:
Đùa cô sư mang tính hóm hỉnh và phóng khoáng của Tản Đà. Bài thơ này không chỉ thể hiện cái nhìn tinh nghịch của ông mà còn cho thấy sự phá cách, dám đùa cợt với các quy tắc của xã hội. Tản Đà trong bài thơ này bộc lộ tinh thần tự do, không bị ràng buộc bởi lề thói thông thường. Sự hài hước nhẹ nhàng của ông thể hiện cái nhìn đầy khoáng đạt về cuộc sống, nơi mà mọi giới hạn đều có thể bị thách thức bằng sự hài hước và lạc quan.
Khách giang hồ
Khuất khúc non sông lắm dịp cầu
Những là gió Á với mưa Âu
Đời chưa duyên kiếp ai xanh mắt?
Khách chẳng công danh cũng bạc đầu!
Cảnh cũ đòi phen thay chủ mới
Đường xa kinh nỗi suốt đêm thâu
Giang hồ chưa đã bao nhiêu bước
Mà cuộc trần ai mấy bể dâu!
Lời bình:
Trong Khách giang hồ, Tản Đà thể hiện tâm trạng của một người phiêu du, lang thang qua mọi nẻo đường, luôn mong muốn khám phá và sống tự do. Giang hồ ở đây không chỉ là địa lý mà còn là biểu tượng cho tâm hồn phóng khoáng, không bị giới hạn bởi bất kỳ khuôn khổ nào. Bài thơ phản ánh tinh thần của một kẻ lữ hành cô đơn, luôn tìm kiếm điều mới mẻ và những trải nghiệm trong cuộc sống, nhưng cũng mang trong mình sự hoài niệm và nỗi buồn của kẻ phiêu bạt.
Trai thời loạn
Hai mươi nhăm triệu con người
Trừ ra khăn yếm còn thời mày râu
Chắp tay rồi lại cúi đầu
Nghĩ nguồn cơn ấy ai sầu chăng ai!
Thế mà cũng kiếp làm trai
Con Hồng cháu Lạc cũng nòi giống ta
Ai về nhắn bạn quần thoa
Chồng con như thế xót xa thế nào?
Thương ai phận gái má đào.
Lời bình:
Trai thời loạn là bài thơ nói về trách nhiệm của người đàn ông trong thời loạn lạc. Tản Đà đã khắc họa hình ảnh người trai trẻ dấn thân vào cuộc chiến, gánh vác trách nhiệm với dân tộc và đất nước. Bài thơ thể hiện tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì đại nghĩa, nhưng cũng chứa đựng nỗi lo âu, sợ hãi trước những hiểm nguy và mất mát.
Gót sen lay động khách là ai
Phòng văn khép cánh ngót năm giời
Núi tuyết rừng băng những mải chơi
Giấc điệp đương nồng em chửa tỉnh
Gót sen lay động khách là ai?
Trăm năm trần thế duyên hay nợ
Bao cuộc tang thương sắc với tài
Tình cảm bồi hồi khi mở mắt
Con tằm chưa thác, chị em ơi!
Lời bình:
Gót sen lay động khách là ai mang đầy tính mộng mơ và lãng mạn của Tản Đà. Hình ảnh gót sen tượng trưng cho vẻ đẹp tinh tế và huyền ảo, gợi nên sự tò mò và mê hoặc. Khách trong bài thơ có thể là chính tác giả, người luôn đắm chìm trong giấc mộng đẹp đẽ và sự tò mò vô tận về cái đẹp.
Thơ Tản Đà luôn mang đến cảm giác như đang bước vào một thế giới siêu thực, nơi cái đẹp trở thành trung tâm và mọi thứ xung quanh đều quay cuồng trong đó.
Con chim xanh
Con chim xanh, tang tình em ơi, nó lặn;
con cá vàng nó dạch, phú lý nọ lên non.
Cô Thúy Kiều, xưa kia còn, má phấn môi son;
lầu xanh chưa mãn, cô mới đã lại bon sang ở chùa.
Cái phận đàn bà, em ơi nghĩ đến thế mà lo;
làm thân bây giờ con gái, sao cho phú lý nọ sớm chồng.
Sự trăm năm, ông giời kia, đã kết có dải đồng;
dù duyên, dù nợ, cái đức tam tùng em cũng phải cho ngoan.
Lấy chồng bây giờ, em ơi gánh lấy mà giang san;
mẹ cha trông xuống, chứ để thế gian có trông vào.
Mặc ai tối mận mai đào.
Lời bình:
Con chim xanh thể hiện sự tinh tế và tình cảm sâu sắc của Tản Đà với thiên nhiên. Con chim xanh tượng trưng cho tự do và niềm khát vọng vươn lên, một hình ảnh nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa. Qua bài thơ này, Tản Đà khắc họa sự gắn bó và yêu thương đối với tự nhiên, đồng thời gửi gắm thông điệp về sự tự do trong tâm hồn, khát khao vươn lên khỏi những giới hạn trần tục.
Chơi chùa Hương Tích
Chùa Hương giời điểm lại giời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu
Xuân lại xuân đi không dấu vết
Ai về ai nhớ vẫn thơm tho
Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt
Đá hỏm hang đen tối tối mò
Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối
Phàm trần chưa biết nhắn nhe cho
Lời bình:
Tản Đà tiếp tục thể hiện tình yêu đối với thiên nhiên và khát vọng sống một cuộc đời tự do, không bị gò bó. Hương Tích – một ngọn núi linh thiêng, nơi mang đến cho nhà thơ cảm giác thanh thản và bình yên. Bài thơ gợi lên sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên, tạo nên bức tranh tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Qua đó, Tản Đà cũng bày tỏ sự lạc quan, vui tươi trong cuộc sống đầy những thách thức.
Chiêu Hoàng lấy chồng
Quả núi Tiêu San, có nhớ công?
Mà em bán nước để mua chồng!
Ấy ai khôn khéo tài dan díu
Những truyện huê tình biết có không?
Một gốc mận già thôi cũng phải
Hai trăm năm lẻ thế là xong
Hỏi thăm sư cụ chùa Chân Giáo:
Khách cưới nhà ai áo mũ đông?
Lời bình:
Chiêu Hoàng lấy chồng mang đến một cảm xúc buồn man mác khi Tản Đà viết về cuộc đời và số phận của một người phụ nữ, thể hiện qua hình ảnh Chiêu Hoàng – nhân vật lịch sử. Trong bài thơ, Chiêu Hoàng không chỉ là một biểu tượng của số phận, mà còn là sự tiếc nuối về tình yêu, tuổi trẻ và những điều đã qua.
Tản Đà sử dụng hình ảnh thơ tinh tế để diễn tả nỗi buồn trước sự thay đổi của cuộc đời, nhất là khi cô gái ấy phải rời xa niềm vui của tuổi xuân để bước vào cuộc sống mới đầy thách thức.
Gần tết tiễn năm cũ
Tháng một qua rồi, tháng chạp đến
Năm tàn Bính Tý nay gần tết
Ngoài đường tấp nập chợ đi đông
Quang cảnh trông ra gần lại tết
Ông Công ngựa cá đã lên giời
Hạ giới cùng nhau tết đến nơi!
Kẻ có tha hồ vui vẻ tết
Nhà nghèo tết đến cũng lôi thôi!
Tết nhất từ xưa đã biết bao?
Vui xuân năm ấy giống năm nào
Cỗ bàn, bánh pháo mừng thên tuổi
Một bước đời lên, một bước cao
Gần tết bao nhiêu cảnh khác nhau
Người vui sắm sửa, kẻ lo sầu
Phong lưu thiên hạ nghe chừng ít
Lo tết trần gian chẳng thiếu đâu!
Quanh năm luống những túng cùng lo
Tết nhất thêm ra cũng lắm trò
Lễ nghĩa muốn thôi, thôi chẳng dứt
Nợ nần vay trả khất quanh co!
Độp cái, năm tàn chóng hết thôi
Để chi đeo đuổi bận lòng ai
Còn năm luống những lo không dứt
Lo mãi quanh năm chán cả đời
Gần tết bao nhiêu, rát bấy nhiêu
Cái lo đâu đến đủ trăm chiều
Mong sao chóng hết năm tàn đó
Để mấy ngày chi lẵng đẵng theo!
Tiễn năm ta có mấy vần thơ
Năm hết cho người cũng hết lo
Sắp sửa cành nêu, xuân đón chúa
Thử xem năm mới có ra trò!
Lời bình:
Bài thơ Gần tết tiễn năm cũ là lời cảm thán về sự trôi qua của thời gian và cái không khí chờ đón năm mới. Qua những dòng thơ, Tản Đà truyền tải nỗi bâng khuâng, sự chiêm nghiệm về sự chảy trôi của đời người, hòa cùng với sự thay đổi của thiên nhiên.
Không chỉ là lời chào tạm biệt năm cũ, bài thơ còn chứa đựng những cảm xúc mong chờ, hy vọng và cả chút nuối tiếc về những gì đã qua trong năm cũ, tạo nên một không gian thơ vừa trầm lắng vừa lạc quan.
Về quê nhà cảm tác
Lạnh lẽo hơi thu chiếc lá bay
Gió đưa người cũ lại về đây
Ba Vì tây lĩnh nom thêm trẻ
Một giải thu giang nước vẫn đầy
Nam Bắc đã nên người duyệt lịch
Giang hồ đáng chán vị chua cay
Mười ba năm đó bao dâu bể
Góp lại canh trường một cuộc say!
Lời bình:
Về quê nhà cảm tác là nỗi lòng của Tản Đà khi trở về quê hương, nơi gắn bó với những kỷ niệm thời thơ ấu. Bài thơ mang đậm chất trữ tình với những hình ảnh quê hương quen thuộc như con đường, dòng sông, cánh đồng.
Tản Đà bộc lộ tình yêu sâu đậm với quê hương và sự xúc động khi đối diện với những đổi thay của thời gian. Bài thơ vừa là một lời tự sự, vừa là một bức tranh quê hương sống động, đầy cảm xúc.
Tập Kiều, viếng Kiều
Lấy thân mà trả nợ đời
Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân
Phonh lưu rất mựch hồng quần
Mười lăm năm, bấy nhiêu lần làm gương
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Bán mình vội phải tìm đường cứu cha
Lênh đênh đâu nữa cũng là…
Cái thân liệu nhữnh từ nhà liệu đi
Khi Vô Tích, khi Lâm Truy
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần
Đùnh đùnh gió dụch mây vần
Hồnh quân với khách hồnh quần đã xoay
Cửa giời rộnh mở đường mây
Hay là khổ tận, đến ngày cam lai
Triều đình riêng một góc giời
Mua vui cũnh được một vài trống canh
Kiếp hồnh nhan có monh manh
Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi
Thương ôi! sắc nước hương giời
Ngàn thu bạc mệnh, một đời tài hoa
Đau đớn thay phận đàn bà
Khéo thay thác xuống làm ma khônh chồnh
Lửa hương chốc để lạnh lùnh
Nào người tiếc lục tham hồnh là ai?
Lời bình:
Trong Tập Kiều, viếng Kiều, Tản Đà thể hiện lòng ngưỡng mộ và cảm thương đối với nàng Kiều trong tác phẩm của Nguyễn Du. Bài thơ như một lời tri ân tới tài năng và số phận của nàng Kiều, đồng thời thể hiện sự ảnh hưởng sâu sắc của Truyện Kiều đối với nhà thơ.
Với giọng điệu cảm thán, bài thơ bày tỏ niềm trân trọng những giá trị văn học cổ điển, kết hợp với cảm xúc của người đọc thơ Kiều, cho thấy sự giao thoa giữa hai tác phẩm văn chương.
Ếch mà
Phượng kêu trái núi bên tê
Hồng bay bốn bể, Nhạn về nơi nao
Cánh Bằng đập ngọn phù dao
Đầm xa tiếng Hạc lên cao vọng giời
Ao thu lạnh lẽo sự đời
Cành sương ngọn gió bời bời lá tre
Lắng tai Ếch những ngôi nghe
Tiếc xuân Quốc đã qua hè, ai thương
Tràng Ve khóc đói năn sương
Cô Oanh học nói như nhường công tai
Nỏ mồm chú Khứu hót ai?
Vì ai? bác Cú đêm dài cầm canh
Canh khuya cậu Vạc mò ăn
To mồm sơi cắp là anh Quạ đùng
Diều hâu rít lưỡi giữa đồng
Tặc kè nghiến lợi, Thạch sùng chép môi
Gáy đâu Gà mái nhà ai
Mèo gào, Chó hú, trên giời Lợn kêu
Ếch nghe cũng đã đủ điều
Ếch trông cũng đã đủ nhiều trò vui
Thôi thời Ếch cũng xin lui
Ẹp mình, rén bước, Ếch chui vào mà
Ngồi mà nhắn bạn ao ta
Bèo xưa nước cũ vưỡn là có nhau
Còn bèo còn nước còn lâu
Còn xuân sắp tới, còn thu chưa tàn
Còn nhiều ơn ái chan chan
Còn khăng khít nghĩa, còn ran ríu tình
Hang lan thanh vắng một mình
Mấy lời ỳ ọp thảo trình tương tri
Cánh bèo ngọn gió đưa đi.
Lời bình:
Ếch mà là một bài thơ ngắn nhưng giàu tính triết lý của Tản Đà. Qua hình tượng con ếch, ông muốn ám chỉ đến những con người sống trong vòng quay của sự hạn hẹp, không nhìn thấy thế giới rộng lớn bên ngoài. Tản Đà không chỉ mỉa mai sự hạn chế trong tầm nhìn, mà còn khơi gợi sự tự ý thức và khát vọng vươn xa của con người.
Bài thơ mang ý nghĩa sâu sắc về việc tự nhận ra giới hạn của bản thân và mong muốn vượt qua những rào cản đó.
Chơi Huế
Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ;
Yêu em, anh cứ anh vô,
Kệ chuông nhà Hồ, mặc phá Tam giang.
Xe hơi đã tới đèo Ngang,
Ấy qua Hà Tĩnh, đường sang Quảng Bình.
Danh sơn gặp khách hữu tình,
Đèo Ngang ơi hỡi, là mình với ta.
Con cháu chúa, nước non nhà,
Không đi không lại nên ra lạ lùng.
Dừng xe, lên đính ta trông,
Mặt ngoài bể nước, bên trong núi rừng.
Nhớ từ hoàng Nguyễn long hưng,
Cơ đồ gây dựng cũng rằng từ đây.
Giang san từ ấy đến nay,
Nào giăng mặt bể, nào mây trên ngàn.
Aỉ xưa bia cũ còn truyền
Oai linh cảnh thắng, bàng hoàng khách du.
Chiều xuân êm ả như du,
Thuận xe lại cứ dậm cù như bay.
Càng vào mãi, càng sinh hay,
Càng trông cảnh vất đổi thay lạ nhường:
Nhỏ to mả trắng bên đường,
Xa xa mé bể cồn vàng thấp cao.
Dọc đường dân chúng biết bao,
Ruông tình hữu ái như rào trận mưa.
Rồng tiên cùng họ từ xưa.
Ba mươi năm mới bây giờ gặp nhau.
Nhận xem áo vải quần nâu,
Gái, giai, già, trẻ một mầu không hai.
Văn minh giầy đã bán khai,
Ngợ sao còn hãy như đời Hùng Vương.
Giời tây ngả bóng tà dương,
Ô-tô lại đổi lên đường hỏa-xa.
Ấy từ QuảngTrị Đông Hà,
Đi năm ga nữa vừa là tới Kinh.
Kinh thành gái lịch giai thanh,
Cảnh thêm Hương Thủy, Ngự Bình điểm tô.
Con người xứ Bắc mới vô,
Mừng nay được thấy Đế đô một lần.
Lời bình:
Chơi Huế là một tác phẩm thể hiện tình cảm sâu sắc của Tản Đà đối với vùng đất cố đô Huế. Qua bài thơ, ông tái hiện vẻ đẹp cổ kính, thơ mộng của Huế với những hình ảnh sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ. Tản Đà không chỉ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên mà còn thể hiện sự trân trọng đối với văn hóa, con người Huế.
Bài thơ như một lời mời gọi người đọc cùng nhà thơ dạo bước trong không gian trầm mặc, bình yên của đất cố đô.
Sự nghèo
Người ta hơn tớ cái phong lưu
Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo
Cảnh có núi sông cùng xóm ngõ
Nhà không gạch ngói chẳng gianh pheo
Văn chương rẻ ế coi mà chán
Giăng gió ham mê nghĩ cũng phèo
Kiếp trước nhớ sinh đời Hạ Vũ
Mưa vàng ba buổi chán xu tiêu.
Lời bình:
Sự nghèo là bài thơ phản ánh tâm tư của Tản Đà về cuộc sống khó khăn và cái nghèo đói mà nhiều người trong xã hội phải đối mặt. Với ngôn ngữ mộc mạc, Tản Đà diễn tả sự thiếu thốn, nhưng không bi lụy mà đầy chất trào phúng và lạc quan.
Ông khéo léo kết hợp giữa sự tự trào và sự cảm thông với thân phận con người, tạo nên một bài thơ vừa chân thật vừa sâu sắc. Qua đó, Tản Đà thể hiện tinh thần lạc quan trước những khó khăn của cuộc sống.
Nói chuyện với bóng
Phòng văn nửa khép cánh thu,
Đèn văn một ngọn trông lù dù xanh.
Đứng lên, ngồi xuống một mình,
Khối tình ai nặn, lửa tình ai khêu.
Mập mờ khi thấp khi cao,
Trông ra chẳng biết ông nào lại chơi;
Nhận lâu sau mới bượch cười,
Té ra anh Bóng, chớ ai đâu mà.
Bóng ơi, mời Bóng vào nhà.
Ngọn đèn khêu tỏ đôi ta cùng ngồi.
Cùng nhau rãi một đôi nhời,
Ta ngồi ta nói, Bóng ngồi Bóng nghe.
Cõi đời khi cất tiếng oe,
Đã bên ngọn lửa lập lòe có nhau.
Tương tri từ đấy về sau,
Đôi ta một bước cùng nhau chẳng dời.
Ta ngồi khi Bóng cùng ngồi;
Ta đi, ta đứng, Bóng thời cũng theo.
Có khi lên núi qua đèo,
Mình ta với Bóng leo trèo cùng nhau.
Có khi quãng vắng đêm thâu,
Mình ta với Bóng âu sầu nỗi riêng.
Có khi rượu nặng hơi men,
Mình ta với Bóng ngả nghiêng canh tàn.
Có khi trè đượm mầu lan,
Mình ta với Bóng bàn hoàn thú xuân.
Có khi bút thảo câu thần,
Mình ta với Bóng xoay vần nệm hoa.
Đôi khi sấm chớp phong ba,
Quộc đời nguy biến có ta có mình.
Đôi khi gió mát giăng thanh,
Bầu giời thanh thú riêng mình với ta.
Trăm năm cho đến cõi già,
Còn ta còn bóng còn là có nhau.
Trần ai mặc những ai đâu,
Ai thương tử biệt, ai sầu sinh ly.
Còn ta, Bóng nỡ nào đi;
Ta đi, Bóng có ở chi cõi trần.
Tin nhau đã vẹn muôn phần,
Cũng xin rãi hết xa gần cùng nhau.
Bóng nghe, Bóng cũng gật đầu.
Lời bình:
Nói chuyện với bóng là tác phẩm giàu triết lý, khi Tản Đà sử dụng hình ảnh bóng để diễn tả sự cô đơn và đối thoại nội tâm. Bóng ở đây không chỉ là bóng vật lý mà còn là biểu tượng của chính bản thân tác giả, là người bạn đồng hành thầm lặng suốt cuộc đời.
Qua bài thơ, ông bộc lộ sự chiêm nghiệm về sự tồn tại, về những gì đã qua và còn lại trong cuộc sống. Bài thơ mang đến cảm giác u hoài, nhưng cũng đầy sâu lắng và triết lý về cuộc đời.
Vịnh bức địa – đồ rách
Nọ bức dư-đồ thử đứng coi,
Sông sông núi núi khéo bia cười!
Biết bao lúc mới công vờn vẽ,
Sao đến bây giờ rách tả tơi.
Ấy trước ông cha mua để lại,
Mà sau con cháu lấy làm chơi.
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ,
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi.
Lời bình:
Vịnh bức địa – đồ rách là bài thơ mỉa mai sâu sắc, khi Tản Đà dùng hình ảnh bản đồ bị rách để ám chỉ tình cảnh đất nước bị chia cắt, đổ nát. Ông không chỉ bày tỏ sự đau xót trước tình hình thời cuộc mà còn ngụ ý phê phán những thế lực làm tổn hại đến quốc gia.
Qua bài thơ, Tản Đà không chỉ thể hiện lòng yêu nước mà còn truyền tải thông điệp mạnh mẽ về việc bảo vệ và gìn giữ sự toàn vẹn của đất nước, tránh sự chia cắt.
Thư trách người tình nhân không quen
Ngồi buồn ta lại viết thư chơi,
Viết bức thư này, gửi trách ai.
Non nước bấy lâu lòng tưởng nhớ,
Mà ai tri kỷ vắng tăm hơi!
Đỉnh non Tản, mây giời man mác,
Giải sông Đà, bọt nước lênh bênh;
Bao nhiêu cảnh, bấy nhiêu tình,
Nước kia mây nọ như mình với ta.
Người đâu tá? quê nhà chưa tỏ;
Tuổi bao nhiêu? tên họ là chi?
Đã sinh cùng nước cùng thì,
Cùng ta không biệt mà ly, hỡi mình!
Kể từ độ thư tình gửi nhắn,
Trải bao năm tin nhạn chờ mong.
Những là ngày hạ đêm đông,
Hồi âm chẳng thấy, như không có mình.
Hỏi cùng núi, mây xanh chẳng biết;
Hỏi cùng sông, nước biếc không hay.
Sông nước chẩy, núi mây bay,
Mình ơi! có biết ta đây nhớ mình?
Cuộc trần thế công danh chẳng thiết,
Áng phong lưu huê nguyệt đã thừa;
Nhớ mình ra ngẩn vào ngơ,
Trông mây, trông nước, nay chờ mai mong.
Mong giáp mặt, mặt không giáp mặt;
Chờ tin thư, thư mất tin thư.
Tháng ngày thấm thoắt thoi đưa,
Tuổi ba mươi lại đã dư một vài.
Câu tri kỷ cùng ai tri kỷ,
Truyện chung tình ai kẻ chung tình.
Bụi hồng vắng vẻ mắt xanh,
Mình ơi, ta nhớ, mà mình quên ta!
Không quen biết cũng là quen biết,
Ta nhớ mình ta viết thư chơi.
Thư tình này bức thứ hai,
Tiếp thư, xin chóng giả nhời cho nhau.
Lời bình:
Thư trách người tình nhân không quen là tác phẩm đặc biệt của Tản Đà, khi ông viết lên những dòng thư trách móc một người tình mà mình chưa bao giờ gặp. Qua bài thơ, Tản Đà thể hiện sự tưởng tượng phong phú và một tình yêu đầy lãng mạn, dù không có hình bóng cụ thể.
Bài thơ là lời than trách nhẹ nhàng, pha chút hờn dỗi, nhưng cũng đong đầy sự khao khát và mơ mộng của một người đang kiếm tìm tình yêu lý tưởng.
Lời kết
Thơ Tản Đà mang màu sắc riêng biệt, tạo dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Nhờ biệt tài của mình, vị thi sĩ nổi tiếng đã để lại cho nền văn học Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung một kho tàng nghệ thuật vô giá.