Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật | Khái niệm và đặc điểm cơ bản
Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật được sáng tác tuân thủ theo quy tắc rõ ràng. Thể thơ này rất phổ biến ở Việt Nam, được vận dụng trong các tác phẩm nghệ thuật từ lâu đời. Mời bạn khám phá những nét đặc trưng của thể thơ này và tìm hiểu một số ví dụ thực tế.
Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật là gì?
Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật là thể thơ có 4 câu, mỗi câu đều có 7 chữ giống nhau. Trong thể loại này, có quy định câu số 1 – 2 – 4 (hoặc 2 – 4) hiệp vần chữ cuối với nhau.
Là thơ Đường Luật nên dạng thơ này cũng phải tuân thủ quy định về Niêm, Vần rất nghiêm ngặt. Cũng vì lý do đó nên bài thơ trở nên thống nhất, rõ ràng.
Câu 1 – 3 – 5 được sáng tác tự do, giúp tác giả tận dụng truyền đạt cảm xúc. Với câu 2 – 4 – 6 cần tuân thủ đúng luật để tạo nên bài thơ chặt chẽ, rõ nghĩa.
Đặc điểm thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật
Thể loại thơ này có nhịp điệu rất thu hút, đọc nghe êm tai và khá dễ nhớ. Thông thường, bài thơ viết theo dạng này sẽ có nhịp chẵn, ngắt nhịp 2 tiếng hoặc 4 tiếng, cấu trúc được sắp xếp hài hòa.
Luật vần được gieo tại các chữ cuối câu 1 – 2 – 4 – 6 – 8 xen kẽ bằng trắc nên đọc lên rất thuận tai. Nhiều nhà thơ sáng tác lâu năm có gợi ý, để bài thơ trở nên trầm bổng hơn, không nên trùng thanh bằng ở tiếng thứ 4, 7 ở câu luật vần.
Tham khảo cách làm thơ:
Thất ngôn tứ tuyệt không đối:
Thất ngôn tứ tuyệt có đối:
Về bố cục, bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật sẽ có 4 phần: Khai, thừa, chuyển, hợp:
- Câu 1 (Khai): Ý chính bài thơ, như lời giới thiệu về nội dung sẽ có trong bài thơ.
- Câu 2 (Thừa): Mở rộng ý đã nói ở câu đầu, diễn giải cụ thể hơn về nội dung.
- Câu 3 (Chuyển): Chuyển đổi ý thơ, gợi ý thông điệp của bài thơ.
- Câu 4 (Hợp): Kết hợp với câu chuyển để làm hoàn chỉnh, thống nhất lại toàn bộ ý nghĩa, cảm xúc có trong bài thơ.
Các thể loại thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật
Là thể loại văn học được xuất hiện từ rất lâu ở Trung Quốc, dạng thơ này đã được phát triển thành 2 dạng:
- Thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật: Tuân thủ đúng Luật, Niêm, Vần=, cấu trúc rõ ràng.
- Thất ngôn tứ tuyệt Cổ Phong: Không ràng buộc luật nghiêm ngặt, có thể dùng 1 loại vần hoặc nhiều loại, đảm bảo luật âm và nhịp.
Luật thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật
Trong phạm vi chia sẻ, bạn có thể tìm hiểu rõ luật được quy định với dạng thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật. Cụ thể, quy định khi sáng tác bài thơ theo thể loại này phải đáp ứng được các điều kiện:
- Niêm: Áp dụng theo chiều dọc, câu niêm với nhau để tạo được sự đồng đều.
- Vần: Câu 1 – 2 – 4 hoặc 2 – 4 có chữ cuối hiệp vần với nhau.
- Bố cục: 4 câu và mỗi câu 7 chữ theo thứ tự: Khai, thừa, chuyển, hợp.
Khám phá một số tác phẩm viết theo thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật
Việt Nam có rất nhiều tác phẩm thơ hay được viết theo bố cục thơ Đường 4 câu 7 chữ. Đây là thể loại yêu cầu tuân thủ luật chặt chẽ, nhưng vẫn được yêu thích vì có thể mang đến âm điệu rất bắt tai.
Mời bạn khám phá một vài bài thơ được viết theo kiểu này, tuân thủ đúng luật. Qua đây, người đọc cũng sẽ cảm nhận được cái hay của việc làm đúng luật đã được áp dụng với dạng này.
1/ Thu Buồn
Nhớ độ thu về bên bến sông
Nhìn quanh dòng nước thật mênh mông
Chạnh lòng chợt nhớ cô bạn cũ
Ngày tiễn tôi đi.. dưới nắng hồng
Mười bảy năm trường đã cách chia
Tưởng rằng hôm đó vẫn hôm kia
Dáng em ngày cũ bao nhung nhớ
Mắt đẫm lệ rơi.. giây phút lìa
Rảo bước lòng vui qua khắp tỉnh
Chim say tình hót khúc bình minh
Hương hoa,gió mát nghe xao xuyến
Nắng nhẹ tơ vương.. nắng tỏ tình
Em hỡi, em ơi, em ở đâu.. ??
Tìm Em khắp chỗ suốt canh thâu
Đường xưa,phố vắng xa mù tịt
Tiếc nuối tình em… buồn bấy lâu.
2/ Nhớ
Đông đến làm chi để nhớ thêm
Thoáng mơ hình bóng ai bên thềm
Nụ cười đôi mắt ngày xưa ấy
Như gọi như mời… rất dịu êm
Uống rượu cho quên giấc mộng mơ
Rượu vơi, tình vẫn chưa phai mờ
Tình sao tình quá ư tê tái
Một bóng em, anh.. vẫn đợi chờ
Nhớ phút chia ly nguyện ước mong
Chờ nhau chờ đến cuối mùa đông
Vòng tay âu yếm làn môi ngọt
Bỏ lại mình em.. thấy quặn lòng
Cả mấy năm ôm ảo mộng thường
Mơ cùng xây tổ ấm uyên ương.
Sao em lại nỡ quên tình cũ.
Để đến giờ này… mãi nhớ thương.
3/ Nhớ về em
Đêm qua bỗng nhớ đến em yêu
Chẳng biết vì sao lại nhớ nhiều
Có lẽ mùa xuân làm thổn thức
Bao nhiêu kỷ niệm.. biết bao điều
Ngày em dạo phố thật nên thơ
Bóng dáng yêu kiều lắm mộng mơ
Nhí nhảnh hồn nhiên đầy cảm xúc
Hồn anh rạo rực.. nỗi mong chờ
Xuân về lặng lẽ suốt bao năm
Tết đến làm anh lại nhớ thầm
Nhớ lại em yêu ngày tháng ấy
Tay đàn, giọng hát.. thoáng dư âm
Thời giờ vội vã bước nhanh qua
Mấy chục năm rồi vẫn thiết tha
Ngóng đợi trông chờ em chốn cũ
Cho dù vẫn biết… cuộc tình xa.
4/ Đông về nhung nhớ
Đông ấy trở về gặp cố nhân
Hàn huyên cả buổi, dạ bâng khuâng
Hỏi ra mới biết người xưa ấy
Thuyền đã sang sông.. đã mấy lần
Người cũ bây giờ đã có đôi
Tình em đã chết, lẻ riêng tôi
Nghiêng nghiêng nét bút, đầy thương nhớ
Em đó, anh đây.. vĩnh biệt thôi
Nhớ đêm đông cũ, đêm Noël
Nói nhỏ thì thầm anh nhớ em
Ánh mắt thơ ngây nhìn bẽn lẽn
Vân vê tà áo.. phút êm đềm
Đành trách sao em quá hửng hờ
Đông về em để lở đường tơ
Bao nhiêu nhung nhớ, bao nhiêu mộng
Giờ đã xa xôi.. hận bến bờ.
5/ Nỗi niềm
Thơ này viết tặng gởi cho em
Gợi nhớ tuổi thơ rất dịu êm
Dẫu biết giờ đây là dĩ vãng
Sao mà vẫn đợi.. nhớ từng đêm
Ai đều cũng có thời mơ mộng
Có lẻ riêng tôi ấp ủ lòng
Ánh mắt môi cười tà áo ấy
Trông nàng duyên dáng.. nỗi chờ mong
Ai ai cũng có mối tình đầu
Tiết học mơ màng những chuyện đâu
Cô bạn ngồi chung cùng một lớp
Nào nàng có biết.. đã yêu lâu
Rồi trưa bửa ấy, trời buồn thảm
Giữa sáng hôm nào, gió lặng câm
Tin dữ báo rằng nàng đã khuất
Ngày đi tiển biệt… khóc thương thầm.
6/ Xuân về
Xuân lại đến rồi em có hay
Kia đàn chim hót giữa trời mây
Cả bầy lượn cánh như chào đón
Nắng ấm mùa xuân.. trở lại đây
Xuân đã về rồi em có mơ
Ngày xưa đường phố rất nên thơ
Hoa mai nở rộ vàng tươi tốt
Ong bướm nô đùa.. dưới nắng tơ
Xuân lại tới rồi em có mong
Chờ nhau điểm hẹn sát bờ sông
Thuê thuyền ngoạn cảnh quanh đây đó
Khuây khỏa bao năm.. nỗi nhớ trông
Xuân đã trở về anh mộng tưởng
Dáng em ngày đó giữa đêm sương
Có còn mong đợi nơi phương ấy
Chờ ngóng anh về…trọn nhớ thương.
7/ Tình ơi
Viết cho em một bức tình thơ
Định tặng em nhưng mãi đợi chờ
Chữ viết run nhiều, không đẹp lắm
Thầm yêu chẳng nói.. kẻ si khờ
Viết cho em mối tình thầm kín
Sợ gởi em không thấy nhắn tin
Lòng thổn thức nghe sao lạ rứa
Bồi hồi rạo rực… tình đầu tiên
Nhớ xưa bước cạnh em trên đường
Mái tóc thề thơm tỏa ngát hương
Bận áo dài sao tha thướt quá
Hồn anh thơ thẩn.. ngẩn ngơ, thương
Hôm nào lại gặp em làm ngơ
Gót bước chân ngà lắm bụi tơ
E thẹn nhìn em không dám nói
Tình ơi tình hỡi… biết làm sao..??
8/ Hồ Tây Trời Thu
Bước khẽ bên hồ giữa tiết thu
Thơm lừng hoa sữa dưới sương mù
Bồn chồn thổn thức, người xa xứ
Quyến rũ say mê.. khách lãng du
Nhặt lá cây bàng đỏ sắc tươi
Nhìn thu lá đổ ngập khung trời
Lào xào tiếng lá, theo chân bước
Lảnh lót sơn ca.. dõi mắt ngời
Mấy bác già nua tập thể thao
Người lo chạy bộ, kẻ chơi nhào
Thanh niên tụ đám, cùng đùa bóng
Thiếu nữ tan bầy.. lẻ múa đao
Một gánh hàng rong bán cốm xanh
Ngoài xôi được bọc lá sen lành
Bưng liền nếm thử, ôi ngon tuyệt
Bóc lẹ dùng ngay.. quả nổi danh
Phẳng lặng hồ tây dưới nắng tơ
Nghe làn gió thoảng gợi hồn thơ
Tìm vần hoạ cảnh, đầu thư thái
Kiếm chữ làm thơ… mặt thẫn thờ.
9/ Vọng Cố Hương
Luẩn quẩn trong mơ dọ lối về
Chân lần lạ lẫm nẻo đường quê
Khua dầm lướt nhẹ xuồng tam bản
Thổn thức, bồi hồi.. rảo dọc đê
Dừng chân ghé lại mái tranh nghèo
Bụi trúc khô cằn vóc khẳng kheo
Mái dột, tường thưa đầy vá víu
Bùi ngùi, ngớ ngẩn.. lệ tuôn theo
Lối xóm giờ đây đã quá già
Người thì khuất bóng, kẻ đi xa
Mồ ai quạnh quẽ bên hàng giậu
Thắp nén hương thơm.. vái gọi là
Tôi tìm kỷ niệm bạn bè xưa
Nhớ cảnh leo cây hái chặt dừa
Tụm cả nguyên bầy đi chọc phá
Vui đùa thỏa thích.. dưới trời mưa
Tôi dõi trông nhìn mấy ruộng nương
Hàng lau rậm rạp lấn ven đường
Nhiều cây nụ nở bông màu trắng
Đậm nét chân quê.. đẹp lạ thường
Từng đàn vịt trắng lội trong ao
Mắt háu mồi nhanh lẹ cỡ nào
Tép nhỏ vùi sâu hòng trốn chạy
Như chừng nộp mạng.. biết làm sao
Lẳng lặng mình ên đến gặp nàng
Người tình một thuở đã sang ngang
Tay bồng đứa cháu ngồi ru ngủ
Giọng khẽ ầu ơ..thật dịu dàng.
10/ Nhớ mẹ
Nghe tiếng ầu ơ bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng mẹ ru hời
Bao năm mẹ hởi bao năm nhỉ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi
Thủa ấy con đi chẳng hẹn về
Giống người lưu lạc giữa sơn khê
Con ngồi khóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Hưu quạnh đêm đông mắt mẹ buồn
Đường đời lặn lội với mưa tuôn
Con ơi giữ ấm đời con nhé
Cứng rắn lên con hãy chớ buồn
Mẹ gọi con yêu tiếng nghẹn ngào
Tiếng người hay chỉ tiếng chiêm bao
Xa rồi mẹ hỡi lòng đau nhói
Tiếng mẹ con nào nghe thấy đâu
Nín khóc con ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nghe tiếng ầu ơ bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng mẹ ru hời
Giá như quay ngược thời gian được
Quay lại thiên thu để mẹ cười
Thơ thất ngôn tứ tuyệt về tình yêu 36:
Bao nhiêu kỷ niệm đã xa rồi
Phố cũ đường xưa vắng bước người
Một tiếng yêu nhau ngại chẳng nói
Lòng buồn thao thức mãi khôn nguôi
19/ Cái quạt (Hồ Xuân Hương)
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,
Duyên này tác hợp tự ngàn xưa.
Chành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
20/ Chơi hoa (Hồ Xuân Hương)
Đã trót chơi hoa phải có trèo,
Trèo lên chớ ngại mỏi xương nhèo.
Cành la cành bổng vin co vít,
Bông chín bông xanh để lộn phèo.
21/ Con cua (Hồ Xuân Hương)
Em có mai xanh, có yếm vàng,
Ba quân khiêng kiệu, kiệu nghêng ngang.
Xin theo ông Khổng về Đông Lỗ,
Học thói Bàn Canh nấu chín Thang.
22/ Quả mít (Hồ Xuân Hương)
Thân em như quả mít trên cây,
Da nó xù xì múi nó dày.
Quân tử có yêu xin đóng cọc,
Đừng mân mó nữa nhựa ra tay.
23/ Quan ngơi (Cao Bá Quát)
Một buổi hầu rồi một buổi ngơi,
Đâu còn nhớ chữ “viễn phương lai”.
Mới sang chừng ấy ngơi chừng ấy,
Sang nữa thì ngơi biết mấy đời.
24/ 20 năm trở lại Huế (Nguyễn Ngọc Đàm)
Ta về thăm lại Huế ta mơ
Cảnh cũ đổi thay đến chẳng ngờ
Thêm hai mươi tuổi em càng đẹp
Lãng tử như ta cũng thẫn thờ.
Huế, 2005
25/ Á Chi Hồng (Nguyên Chẩn)
亞枝紅
平陽池上亞枝紅,
悵望山郵事事同。
還向萬竿深竹里,
一枝渾臥碧流中。
Á chi hồng
Bình Dương trì thượng á chi hồng,
Trướng vọng sơn bưu sự sự đồng.
Hoàn hướng vạn can thâm trúc lý,
Nhất chi hồn ngoạ bích lưu trung.
Dịch nghĩa
Một nhành hoa đỏ thắm đang rủ sát mặt ao đất Bình Dương,
Buồn mọi sự việc nơi các quán dịch đều nhàm chán như nhau.
Chạnh nhớ về chốn cũ có luỹ tre xanh um tùm,
Với cành hoa đỏ thắm rủ sát mặt nước biếc gợn sóng.
26/ Đạp ca hành kỳ 1 (Lưu Vũ Tích)
踏歌行其一
春江月出大堤平,
堤上女郎連袂行。
唱盡新詞看不見,
紅霞影樹鷓鴣鳴。
Đạp ca hành kỳ 1
Xuân giang nguyệt xuất đại đê bình,
Đê thượng nữ lang liên duệ hành.
Xướng tận tân từ khan bất kiến,
Hồng hà ảnh thụ giá cô minh.
27/ Đáp hậu thiên (Lưu Vũ Tích)
答後篇
昔日慵工記姓名,
遠勞辛苦寫西京。
近來漸有臨池興,
為報元常欲抗行。
Đáp hậu thiên
Tích nhật dong công ký tính danh,
Viễn lao tân khổ tả Tây kinh.
Cận lai tiệm hữu lâm trì hứng,
Vi báo Nguyên Thường dục kháng hành.
Dịch nghĩa
Ngày trước lười biếng, thư pháp chỉ để viết họ và tên,
Trương Hành đã mất nhiều công sức để viết “Tây kinh phú”.
Gần đây có hứng thú luyện tập tinh thông thư pháp,
Xin loan báo sẽ cùng Nguyên Thường tranh tài.
Liễu Tông Nguyên gửi tác giả hai bài mang tiêu đề Trùng tặng. Đây là bài ông hồi đáp bài thứ hai.
28/ Hoa Lạc Thiên “Xuân từ” (Lưu Vũ Tích)
和樂天春詞
新妝宜面下朱樓,
深鎖春光一院愁。
行到中庭數花朵,
蜻蜓飛上玉搔頭。
Hoạ Lạc Thiên “Xuân từ”
Tân trang nghi diện há chu lâu,
Thâm toả xuân quang nhất viện sầu.
Hành đáo trung đình sổ hoa đoá,
Tinh đình phi thướng ngọc tao đầu.
Dịch nghĩa
Vừa trang điểm xong, nàng bước xuống lầu son,
Cả một viện đều buồn, vì cảnh xuân bị khoá kín.
Nàng đi đến sân trong, đếm những bông hoa,
Chuồn chuồn bay lên trên chiếc ngọc tao đầu.
29/ Hạnh viên hoa hạ thù Lạc Thiên kiến tặng (Lưu Vũ Tích)
杏園花下酬樂天見贈
二十餘年作逐臣,
歸來還見曲江春。
遊人莫笑白頭醉,
老醉花間有幾人。
Hạnh viên hoa hạ thù Lạc Thiên kiến tặng
Nhị thập dư niên tác trục thần,
Quy lai hoàn kiến Khúc Giang xuân.
Du nhân mạc tiếu bạch đầu tuý,
Lão tuý hoa gian hữu kỷ nhân.
30/ Huyền Đô quán đào hoa (Lưu Vũ Tích)
玄都觀桃花
紫陌紅塵拂面來,
無人不道看花迴。
玄都觀裡桃千樹,
盡是劉郎去後栽。
Huyền Đô quán đào hoa
Tử mạch hồng trần phất diện lai,
Vô nhân bất đạo khán hoa hồi.
Huyền Đô quán lý đào thiên thụ,
Tận thị Lưu lang khứ hậu tài.
Dịch nghĩa
Trên đường tím, bụi hồng táp vào mặt,
Không ai là không nói mới đi ngắm hoa về.
Cả ngàn gốc đào ở đạo quán Huyền Đô,
Đều trồng sau khi chàng Lưu đã đi (nhập Thiên Thai).
31/ Lâu thượng (Lưu Vũ Tích)
樓上
江上樓高十二梯,
梯梯登遍與雲齊。
人從別浦經年去,
天向平蕪盡處低。
Lâu thượng
Giang thượng lâu cao thập nhị thê,
Thê thê đăng biến dữ vân tề.
Nhân tòng biệt phố kinh niên khứ,
Thiên hướng bình vu tận xứ đê.
Dịch nghĩa
Lầu bên sông cao mười hai bậc thang,
Lên hết thang là ngang với mây.
Nhìn xuống thấy người xuôi ngược từ bến đó năm lại năm,
Trời và đất bằng phẳng phủ cỏ xanh giao nhau ở chỗ tận cùng.
32/ Tái du Huyền Đô quán (Lưu Vũ Tích)
再遊玄都觀
百畝庭中半是苔,
桃花淨盡菜花開。
種桃道士歸何處?
前度劉郎今又來。
Tái du Huyền Đô quán
Bách mẫu đình trung bán thị đài,
Đào hoa tịnh tận thái hoa khai.
Chủng đào đạo sĩ quy hà xứ,
Tiền độ Lưu lang kim hựu lai.
Dịch nghĩa
Trăm mẫu đất trong đình nay một nửa đã bám đầy rêu.
Hoa đào đã hết, hoa rau lại nở.
Đạo sĩ trồng đào đã về nơi nào?
Chàng Lưu thuở trước nay lại đến.
33/ Tán Ưng Chuỷ trà (Lưu Vũ Tích)
讚鷹嘴茶
最愛芳叢鷹嘴茶,
老郎封寄贈仙家。
今朝更有湘江月,
照出霏霏滿碗花。
Tán Ưng Chuỷ trà
Tối ái phương tùng Ưng Chuỷ trà,
Lão lang phong ký tặng tiên gia.
Kim triêu cánh hữu Tương giang nguyệt,
Chiếu xuất phi phi mãn uyển hoa.
Dịch nghĩa
Yêu thích nhất là thứ trà thơm hiệu Ưng Chuỷ này,
Bạn già đã gửi tặng cho người tiên.
Sáng nay vẫn còn trăng sông Tương,
Chiếu vào mặt chén lấp lánh như đầy những cánh hoa.
34/ Ai “nữ quyền” ra mua (Tản Đà)
“Nữ quyền” hôm ấy tớ rao chơi
Ai bán mà mua của hiếm hoi!
Một gánh giang sơn cùng gánh lấy
Thời chi, ai có tiếc chi ai?
35/ Cò trắng (Tản Đà)
I
Một đàn cò trắng nó bay tung
Nó lại thương em lật đật chồng
Mày có biết ai người phụ bạc
Thời lên mách hộ với thiên công
II
Một đàn cò trắng đến giời xanh
Nó mách cho ai dám phụ tình
Giời bảo trần gian hay dắc díu
Sai ông Nguyệt xuống dứt tơ mành
36/ Đi đêm đay bóng (Tản Đà)
Người chẳng ra người, ma chẳng ma
Nào ai còn biết ở đâu ra
Đi đêm tưởng đã quen đường lắm
Hỏi lối công danh cũng mập mờ
37/ Khai bút (Năm Canh Tahan 1920) (Tản Đà)
Năm nay tuổi đã ba mươi hai
Ta nghĩ mà ta chẳng giống ai
Khắp bốn phương giời không thước đất
Địa cầu những muốn ghé bên vai
38/ Khai bút (năm Tân Dậu 1921) (Tản Đà)
Năm nay tuổi đã ba mươi ba
Ta nghĩ mà ai chẳng giống ta
Lo nước, lo nhà, lo thế giới
Còn thêm lo nợ, gỡ chưa ra!
39/ Không đề (Con trâu chưa dậy, mục còn chơi) (Tản Đà)
Con trâu chưa dậy, mục còn chơi
Luống để cho ai những ngậm ngùi
Thằng mục đã về trâu đã dậy
Đời chưa đáng chán, chị em ơi!
40/ Lưu tình (Tản Đà)
Dưới bóng giăng tròn, tán lá xanh
Nhớ chăng? chăng nhớ? hỡi chăng mình?
Trăm năm ghi nguyện cùng non nước
Nước biếc non xanh một chữ tình
41/ Nghe cá (Tản Đà)
Chiều mát ngồi xem đứa thả câu
Nghe như lũ cá nó bàn nhau:
Tham ăn nếu đã vào trong ngạnh
Thời mất tung tăng chốn nước sâu
42/ Nhàn thoại (Thao thao phong hoá nhập đồi ba) (Tản Đà)
閒話(滔滔風化入頹波)
Đổi chữ phồn/giản thể
滔滔風化入頹波,
禿筆孤燈可柰何。
砥柱有懷人未見,
相思和墨灑天涯。
Nhàn thoại (Thao thao phong hoá nhập đồi ba)
Thao thao phong hoá nhập đồi ba,
Ngốc bút cô đăng khả nại hà.
Chỉ trụ hữu hoài nhân vị kiến,
Tương tư hoà mặc sái thiên nhai.
Dịch nghĩa
Phong hoá hỗn loạn đến buổi suy đồi,
[Ta chỉ có] cây bút cùn, ngọn đèn lẻ, làm thế nào được?
Những mong một người có khả năng làm cây cột chống mà chẳng thấy,
Niềm mong ngóng hoà với mực vẩy đến tận chân trời.
43/ Tết tự thuật (Tản Đà)
Năm xưa tết nhất đã suông suồng!
Tết nhất năm nay lại quá tuồng!
Tiếng pháo nghe nhờ thiên hạ đốt
Cờ vàng dấu đỏ, đế vương suông
44/ Thuật bút (Tản Đà)
Mười mấy năm xưa ngọn bút lông
Sác sơ chẳng bợn chút hơi đồng
Bây giờ anh đổi lông ra sắt
Cách kiếm ăn đời có nhọn không?
Kết luận
Thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật thuộc nhóm các thể thơ phổ biến ở Việt Nam. Cách bố trí câu, gieo vần vào tạo âm điệu nhịp nhàng khiến nhiều tác giả yêu thích dạng này.
Chỉ với tổng cộng 28 chữ chia đều 4 câu, tác giả đã có thể truyền tải cảm xúc, suy nghĩ của mình rất hiệu quả. Bạn có thể truy cập The Poet Magazine để xem thêm nhiều thể thơ và các bài thơ hay được sưu tầm ở các thể loại khác.