Tuyển tập thơ Trung Quốc hay: Thơ cổ Trung Hoa thời Đường – Tống

Tuyển tập Thơ Trung Quốc hay, cảm xúc và ý nghĩa. Sưu tầm lại những bài Thơ cổ, Thơ ngắn về tình yêu, cuộc sống và các biểu tượng quen thuộc như trăng, hoa, tình bạn.

The Poet Magazine đã tổng hợp hằng trăm bài thơ hay Trung Quốc. Ngoài ra, trang còn sưu tầm đa dạng thơ ca ở nhiều chủ đề khác.

Table of Contents

Tuyển tập Thơ cổ trung hoa

Các bài thơ hay Trung Quốc đều do những vĩ nhân viết nên. The Poet đã tổng hợp những bài thơ kinh điển, được yêu thích nhất:

1/ Quan thư 1 (Khổng tử)

關關雎鳩、
在河之洲。
窈窕淑女、
君子好逑。

Quan thư 1
Quan quan thư cưu,
Tại hà chi châu.
Yểu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu.

Dịch nghĩa
Đôi chim thư cưu hót hoạ nghe quan quan,
Ở trên cồn bên sông.
Người phụ nữ yêu kiều
Quân tử ưu ái, mếm mộ

2/ Quan thư 2 (Khổng tử)

關雎 2
參差荇菜、
左右流之。
窈窕淑女、
寤寐求之。
求之不得、
寤寐思服。
悠哉悠哉、
輾轉反側。

Quan thư 2
Sâm si hạnh thái
Tả hữu lưu chi
Yểu điệu thục nữ
Ngộ mị cầu chi
Cầu chi bất đắc
Ngộ mỵ tư bặc
Du tai, du tai!
Triển chuyển phản trắc

Dịch nghĩa
Rau hạnh cọng dài cọng ngắn không đều nhau
Phải thuận theo dòng nước sang bên tả bên hữu mà hái
Người thục nữ u nhàn ấy
Khi thức khi ngủ đều lo cầu cho được nàng.
Nếu mà không được
Thì khi thức khi ngủ đều tưởng nhớ
Tưởng nhớ xa xôi thay, tưởng nhớ xa xôi thay!
Vua cứ lăn qua trở lại mãi nằm không yên giấc.

3/ Kính cổ 4 (Khổng tử)

擊鼓 4
死生契闊,
與子成說。
執子之手,
與子偕老。

Kích cổ 4
Tử sinh khiết khoát,
Dữ tử thành thuyết.
Chấp tử chi thủ,
Dữ tử giai lão.

Dịch nghĩa
Chết sống hay xa cách,
Đã cùng nàng thành lời thề ước.
Ta nắm tay nàng,
(Hẹn ước) sẽ sống chung với nhau đến tuổi già.

thơ cổ trung quốc
Khổng Tử là nhà hiền triết thời Xuân Thu

4/ Ly tao (Khuất Nguyên)

離騷
帝高陽之苗裔兮,
朕皇考曰伯庸;
攝提貞于孟陬兮,
惟庚寅吾以降;
皇覽揆余于初度兮,
肇錫余以嘉名;
名余曰正則兮,
字余曰靈均;
紛吾既有此內美兮,
又重之以修能;
扈江離與辟芷兮,
紉秋蘭以為佩;
汩余若將不及兮,
恐年歲之不吾與;
朝搴阰之木蘭兮,
夕攬洲之宿莽;
日月忽其不淹兮,
春與秋其代序;
惟草木之零落兮,
恐美人之遲暮;
不撫壯而棄穢兮,
何不改乎此度?
乘騏驥以馳騁兮,
來吾導夫先路。
昔三後之純粹兮,
固眾芳之所在;
雜申椒與菌桂兮,
豈維紉夫蕙芷;
彼堯舜之耿介兮,
既遵道而得路;
何桀紂之猖披兮,
夫唯捷徑以窘步;
惟夫党人之偷樂兮,
路幽昧以險隘;
豈余身之憚殃兮,
恐皇輿之敗績;
忽奔走以先後兮,
及前王之踵武;
荃不察余之中情兮,
反信饞而齌怒;
余固知謇謇之為患兮,
忍而不能舍也;
指九天以為正兮,
夫唯靈修之故也;
曰黃昏以為期兮,
羌中道而改路。
初既與余成言兮,
後悔遁而有他;
余既不難夫離別兮,
傷靈修之數化。
余既茲蘭之九畹兮,
又樹蕙之百畝;
畦留夷與揭車兮,
雜度蘅與方芷;
冀枝葉之峻茂兮,
願俟時乎吾將刈;
雖萎絕其亦何傷兮,
哀眾芳之蕪穢;
眾皆競進以貪婪兮,
憑不厭乎求索;
羌內恕己以量人兮,
各興心而嫉妒;
忽馳騖以追逐兮,
非余心之所急;
老冉冉其將至兮,
恐修名之不立;
朝飲木蘭之墜露兮,
夕餐秋菊之落英;
苟余情其信姱以練要兮,
長顑頷亦何傷;
攬木根以結芷兮,
貫薜荔之落蕊;
矯菌桂以紉蕙兮,
索胡繩之纚纚;
謇吾法夫前修兮,
非世俗之所服;
雖不周於今之人兮,
願依彭鹹之遺則!
長太息以掩涕兮,
哀民生之多艱;
余雖好修姱以鞿羈兮,
謇朝誶而夕替;
既替余以蕙纕兮,
又申之以攬芷;
亦余心之所善兮,
雖九死其猶未悔;
怨靈脩之浩蕩兮,
終不察夫民心。
眾女疾余之蛾眉兮,
謠諑謂余以善淫;
固時俗之工巧兮,
偭規矩而改錯;
背繩墨以追曲兮,
競周容以為度;
忳郁邑余挓傺兮,
吾獨窮困乎此時也;
寧溘死以流亡兮,
余不忍為此態;
鷙鳥之不群兮,
自前世而固然;
何方圜之能周兮,
夫孰異道而相安;
屈心而抑志兮,
忍尤而攘詬;
伏清白以死直兮,
固前聖之所厚。
悔相道之不察兮,
延佇乎吾將反;
回朕車以復路兮,
及行迷之未遠;
步余馬于蘭皋兮,
馳椒丘且焉止息;
進不入以離尤兮,
退將復修吾初服;
制芰荷以為衣兮,
集芙蓉以為裳;
不吾知其亦已兮,
苟余情其信芳;
高余冠之岌岌兮,
長余佩之陸離;
芳與澤其雜糅兮,
唯昭質其猶未虧;
忽反顧以遊目兮,
將往觀乎四荒;
佩繽紛其繁飾兮,
芳菲菲其彌章;
民生各有所樂兮,
余獨好修以為常;
雖體解吾猶未變兮,
豈余心之可懲。
女嬃之嬋媛兮,
申申其詈予。
曰:「鮌婞直以亡身兮,
終然殀乎羽之野;
汝何博謇而好修兮,
紛獨有此姱節;
薋菉葹以盈室兮,
判獨離而不服;
眾不可戶說兮,
孰雲察余之中情;
世並舉而好朋兮,
夫何煢獨而不予聽。」
依前聖以節中兮,
喟憑心而曆茲;
濟沅湘以南征兮,
就重華而陳詞:
「啟《九辯》與《九歌》兮,
夏康娛以自縱;
不顧難以圖後兮,
五子用失乎家巷;
羿淫遊以佚畋兮,
又好射夫封狐;
固亂流其鮮終兮,
浞又貪夫厥家;
澆身被服強圉兮,
縱欲而不忍;
日康娛而自忘兮,
厥首用夫顛隕;
夏桀之常違兮,
乃遂焉而逢殃;
後辛之菹醢兮,
殷宗用之不長;
湯禹儼而祗敬兮,
周論道而莫差;
舉賢才而授能兮,
循繩墨而不頗;
皇天無私阿兮,
攬民德焉錯輔;
夫維聖哲以茂行兮,
苟得用此下土;
瞻前而顧後兮,
相觀民之計極;
夫孰非義而可用兮,
孰非善而可服;
阽余身而危死兮,
攬余初其猶未悔;
不量鑿而正枘兮,
固前修以菹醢。」
曾歔欷余鬱邑兮,
哀朕時之不當;
攬茹蕙以掩涕兮,
霑余襟之浪浪。
跪敷衽以陳詞兮,
耿吾既得此中正;
駟玉虯以乘鷖兮,
溘埃風余上征;
朝發軔於蒼梧兮,
夕余至乎縣圃;
欲少留此靈瑣兮,
日忽忽其將暮;
吾令羲和弭節兮,
望崦嵫而勿迫;
路曼曼其修遠兮,
吾將上下而求索;
飲余馬于咸池兮,
總余轡乎扶桑;
折若木以拂日兮,
聊逍遙以相羊;
前望舒使先驅兮,
後飛廉使奔屬;
鸞皇為余先戒兮,
雷師告余以未具;
吾令鳳鳥飛騰兮,
繼之以日夜;
飄風屯其相離兮,
帥雲霓而來禦;
紛總總其離合兮,
斑陸離其上下;
吾令帝閽開關兮,
倚閶闔而望予;
時曖曖其將罷兮,
結幽蘭而延佇;
世溷濁而不分兮,
好蔽美而嫉妒。
朝吾將濟於白水兮,
登閬風而紲馬;
忽反顧以流涕兮,
哀高丘之無女;
溘吾遊此春宮兮,
折瓊枝以繼佩;
及榮華之未落兮,
相下女之可詒;
吾令豐隆乘雲兮,
求宓妃之所在;
解佩纕以結言兮,
吾令蹇修以為理;
紛總總其離合兮,
忽緯繣其難遷;
夕歸次於窮石兮,
朝濯發乎洧盤;
保厥美以驕傲兮,
日康娛以淫遊;
雖信美而無禮兮,
來違棄而改求;
覽相觀於四極兮,
周流乎天余乃下;
望瑤台之偃蹇兮,
見有娀之佚女;
吾令鴆為媒兮,
鴆告余以不好;
雄鳩之鳴逝兮,
余猶惡其佻巧;
心猶豫而狐疑兮,
欲自適而不可;
鳳皇既受詒兮,
恐高辛之先我;
欲遠集而無所止兮,
聊浮遊以逍遙;
及少康之未家兮,
留有虞之二姚;
理弱而媒拙兮,
恐導言之不固;
世溷濁而嫉賢兮,
好蔽美而稱惡;
閨中既已邃遠兮,
哲王又不寤;
懷朕情而不發兮,
余焉能忍而與此終古。
索藑茅以筳篿兮,
命靈氛為余占之;
曰:兩美其必合兮,
孰信修而慕之;
思九州之博大兮,
豈惟是其有女?
曰:勉遠逝而無狐疑兮,
孰求美而釋女?
何所獨無芳草兮,
爾何懷乎故宇;
世幽昧以昡曜兮,
孰雲察余之善惡;
民好惡其不同兮,
惟此黨人其獨異;
戶服艾以盈要兮,
謂幽蘭其不可佩;
覽察草木其猶未得兮,
豈珵美之能當?
蘇糞壤以充幃兮,
謂申椒其不芳。
欲從靈氛之吉占兮,
心猶豫而狐疑;
巫鹹將夕降兮,
懷椒糈而要之;
百神翳其備降兮,
九疑繽其並迎;
皇剡剡其揚靈兮,
告余以吉故;
曰:勉升降以上下兮,
求矩鑊之所同;
湯禹嚴而求合兮,
摯咎繇而能調;
苟中情其好修兮,
又何必用夫行媒;
說操築于傅岩兮,
武丁用而不疑;
呂望之鼓刀兮,
遭周文而得舉;
甯戚之謳歌兮,
齊桓聞以該輔;
及年歲之未晏兮,
時亦猶其未央;
恐鵜鴃之先鳴兮,
使夫百草為之不芳;
何瓊佩之偃蹇兮,
眾薆然而蔽之;
惟此黨人之不諒兮,
恐嫉妒而折之;
時繽紛其變易兮,
又何可以淹留;
蘭芷變而不芳兮,
荃蕙化而為茅;
何昔日之芳草兮,
今直為此蕭艾也;
豈其有他故兮,
莫好修之害也;
余既以蘭為可侍兮,
羌無實而容長;
委厥美以從俗兮,
苟得列乎眾芳;
椒專佞以慢韜兮,
樧又欲充夫佩幃;
既幹進而務入兮,
又何芳之能祗;
固時俗之流從兮,
又孰能無變化;
覽椒蘭其若茲兮,
又況揭車與江離;
惟茲佩之可貴兮,
委厥美而曆茲;
芳菲菲而難虧兮,
芬至今猶未沫;
和調度以自娛兮,
聊浮遊而求女;
及余飾之方壯兮,
周流觀乎上下。
靈芬既告余以吉占兮,
曆吉日乎吾將行;
折瓊枝以為羞兮,
精瓊爢以為粻;
為余駕飛龍兮,
雜瑤象以為車;
何離心之可同兮,
吾將遠逝以自疏;
邅吾道夫昆侖兮,
路修遠以周流;
揚雲霓之晻藹兮,
鳴玉鸞之啾啾;
朝發軔于天津兮,
夕余至乎西極;
鳳皇翼其承旗兮,
高翱翔之翼翼;
忽吾行此流沙兮,
遵赤水而容與;
麾蛟龍使梁津兮,
詔西皇使涉予;
路修遠以多艱兮,
騰眾車使徑待;
路不周以左轉兮,
指西海以為期;
屯余車其千乘兮,
齊玉軑而並馳;
駕八龍之蜿蜿兮,
載雲旗之委蛇;
抑志而弭節兮,
神高馳之邈邈;
奏《九歌》而舞《韶》兮,
聊假日以媮樂;
陟升皇之赫戲兮,
忽臨睨夫舊鄉;
仆夫悲余馬懷兮,
蜷局顧而不行。
亂曰:已矣哉,
國無人莫我知兮,
又何懷乎故都;
既莫足與為美政兮,
吾將從彭咸之所居。

 

Ly tao
Đế Cao Dương chi miêu duệ hề,
Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung.
Nhiếp đề trinh vu mạnh tưu hề,
Duy Canh Dần ngô dĩ giáng.
Hoàng lãm quỹ dư vu sơ độ hề,
Triệu tích dư dĩ gia danh.
Danh dư viết Chính Tắc hề,
Tự dư viết Linh Quân.
Phân ngô ký hữu thử nội mỹ hề,
Hựu trùng chi dĩ tu năng.
Hỗ giang ly dữ tịch chỉ hề,
Nhận thu lan dĩ vi bội.
Cốt dư nhược tương bất cập hề,
Khủng niên tuế chi bất ngô dữ.
Triêu khiên tì chi Mộc lan hề,
Tịch lãm châu chi túc mụ (mãng).
Nhật nguyệt hốt kỳ bất yêm hề,
Xuân dữ thu kỳ đại tự.
Duy thảo mộc chi linh lạc hề,
Khủng mỹ nhân chi trì mộ.
Bất phủ tráng nhi khí uế hề,
Hà bất cải hồ thử độ?
Thừa kỳ ký dĩ trì sính hề,
Lai ngô đạo phù tiên lộ.
Tích tam hậu chi thuần tuý hề,
Cố chúng phương chi sở tại.
Tạp thân tiêu dữ khuẩn quế hề,
Khởi duy nhân phù huệ chỉ.
Bỉ Nghiêu Thuấn chi cảnh giới hề,
Ký tuân đạo nhi đắc lộ.
Hà Kiệt Trụ chi xương phi hề,
Phù duy tiệp kính dĩ quẫn bộ.
Duy phù đảng nhân chi du lạc hề,
Lộ u muội dĩ hiểm ải.
Khởi dư thân chi đạn ương hề,
Khủng hoàng dư chi bại tích.
Hốt bôn tẩu dĩ tiên hậu hề,
Cập tiền vương chi chủng vũ.
Thuyên bất sát dư chi trung tình hề,
Phản tín sàm nhi tễ nộ.
Dư cố tri kiển kiển chi vi hoạn hề,
Nhẫn nhi bất năng xả dã.
Chỉ cửu thiên dĩ vi chính hề,
Phù duy linh tu chi cố dã.
Viết hoàng hôn dĩ vi kỳ hề,
Khương trung đạo nhi cải lộ.
Sơ ký dữ dư thành ngôn hề,
Hậu hối độn nhi hữu tha.
Dư ký bất nan phù ly biệt hề,
Thương linh tu chi sổ hoá.
Dư ký tư lan chi cửu uyển hề,
Hựu thụ huệ chi bách mẫu.
Huề lưu di dữ yết xa hề,
Tạp độ hành dữ phương chỉ.
Ký chi diệp chi tuấn mậu hề,
Nguyện sĩ thì hồ ngô tương ngải.
Tuy uỷ tuyệt kỳ diệc hà thương hề,
Ai chúng phương chi vu uế.
Chúng giai cạnh tiến dĩ tham lam hề,
Bằng bất yếm hồ cầu sách.
Khương nội thứ kỷ dĩ lượng nhân hề,
Các hưng tâm nhi tật đố.
Hốt trì vụ dĩ truy trục hề,
Phi dư tâm chi sở cấp.
Lão nhiễm nhiễm kỳ tương chí hề,
Khủng tu danh chi bất lập.
Triêu ẩm mộc lan chi truỵ lộ hề,
Tịch xan thu cúc chi lạc anh.
Cẩu dư tình kỳ tín khoa dĩ luyện yếu hề,
Trường kham hạm diệc hà thương!
Lãm mộc căn dĩ kết chỉ hề,
Quán bệ lệ chi lạc nhị.
Kiểu khuẩn quế dĩ nhân huệ hề,
Tác hồ thằng chi sỉ sỉ.
Kiển ngô pháp phù tiền tu hề,
Phi thế tục chi sở phục!
Tuy bất chu ư kim chi nhân hề,
Nguyện y Bành Hàm chi di tắc.
Trường thái tức dĩ yểm thế hề,
Ai dân sinh chi đa gian.
Dư tuy hiếu tu khoa dĩ ky ky hề,
Kiển triêu tối nhi tịch thế.
Ký thế dư dĩ huệ tương hề,
Hựu thân chi dĩ lãm chỉ.
Diệc dư tâm chi sở thiện hề,
Tuy cửu tử kỳ do vị hối.
Oán linh tu chi hạo đãng hề,
Chung bất sát phù dân tâm.
Chúng nữ tật dư chi nga mi hề,
Dao trác vị dư dĩ thiện dâm.
Cố thì tục chi công xảo hề,
Miến quy củ nhi cải thố.
Bội thằng mặc dĩ truy khúc hề,
Cạnh chu dung dĩ vi độ.
Đồn uất ấp dư trát sế hề,
Ngô độc cùng khốn hồ thử thì dã.
Ninh khạp tử dĩ lưu vong hề,
Dư bất nhẫn vy thử thái;
Chí điểu chi bất quần hề,
Tự tiền thế nhi cố nhiên.
Hà phương viên chi năng chu hề,
Phù thục dị đạo nhi tương yên!
Khuất tâm nhi ức chí hề,
Nhẫn vưu nhi nhương cấu.
Phục thanh bạch dĩ tử trực hề,
Cố tiền thánh chi sở hậu.
Hối tướng đạo chi bất sát hề,
Diên trữ hồ ngô tương phản!
Hồi trẫm xa dĩ phục lộ hề,
Cập hành mê chi vị viễn,
Bộ dư Mã vu lan cao hề,
Trì tiêu khâu thả yên chi tức.
Tiến bất nhập dĩ ly vưu hề,
Thoái tương phục tu ngô sơ phục.
Chế kỵ hà dĩ vi y hề,
Tập phù dung dĩ vi thường.
Bất ngô tri kỳ diệc dĩ hề,
Cẩu dư tình kỳ tín phương.
Cao dư quan chi ngập ngập hề,
Trường dư bội chi lục ly.
Phương dữ trạch kỳ tạp nhữu hề,
Duy chiêu chất kỳ do vị khuy.
Hốt phản cố dĩ du mục hề,
Tương vãng quan hồ tứ hoang.
Bội tân phân kỳ phồn sức hề,
Phương phi phi kỳ di chương.
Dân sinh các hữu sở nhạo hề,
Dư độc hiếu tu dĩ vi thường.
Tuy thể giải ngô do vị biến hề,
Khởi dư tâm chi khả trừng.
Nữ tu chi thiền viên hề,
Thân thân kỳ lị dư.
Viết: “Cổn hãnh trực dĩ vong thân hề,
Chung nhiên yểu hồ Vũ chi dã.
Nhữ hà bác kiển nhi hiếu tu hề,
Phân độc hữu thử khoa tiết.
Tư lục thi dĩ doanh thất hề,
Phán độc ly nhi bất phục.
Chúng bất khả hộ thuyết hề,
Thục vân sát dư chi trung tình?
Thế tịnh cử nhi hiếu bằng hề,
Phù hà quỳnh độc nhi bất dư thính”.
Y tiền thánh dĩ tiết trung hề,
Vị bằng tâm nhi lịch tư.
Tế Nguyên Tương dĩ nam chinh hề,
Tựu Trùng Hoa nhi trần từ.
Khải “cửu biện” dữ “cửu ca” hề,
Hạ Khang ngu dĩ tự túng.
Bất cố nạn dĩ đồ hậu hề,
Ngũ tử dụng thất hồ gia hạng.
Nghệ dâm du dĩ dật điền hề,
Hựu hiếu xạ phù phong hồ.
Cố loạn lưu kỳ tiển chung hề,
Xác hựu tham phù quyết gia.
Ngáo thân bị phục cường ngữ hề,
Túng dục nhi bất nhẫn.
Nhật khang ngu nhi tự vong hề,
Quyết thủ dụng phù điên vẫn.
Hạ Kiệt chi thường vi hề,
Nãi toại yên nhi phùng ương.
Hậu Tân chi trư hải hề,
Ân tông dụng chi bất trường.
Thang, Vũ nghiễm nhi chi kính hề,
Chu luận đạo nhi mạc sai.
Cử hiền tài nhi thụ năng hề,
Tuần thằng mặc nhi bất pha.
Hoàng thiên vô tư a hề,
Lãm dân đức yên thố phụ.
Phù duy thánh triết dĩ mậu hạnh hề,
Cẩu đắc dụng thử hạ thổ.
Chiêm tiền nhi cố hậu hề,
Tướng quan dân chi kế cực.
Phù thục phi nghĩa nhi khả dụng hề?
Thục phi thiện nhi khả phục?
Điếm dư thân nhi nguy tử hề,
Lãm dư sơ kỳ do vị hối.
Bất lượng tạc nhi chính nhuế hề,
Cố tiền tu dĩ trư hải.
Tăng hư hi dư uất ấp hề,
Ai trẫm thì chi bất đáng.
Lãm nhự huệ dĩ yểm thế hề,
Triêm dư khâm chi lãng lãng.
Quỵ phu nhẫm dĩ trần từ hề,
Cảnh ngô ký đắc thử trung chính.
Tứ ngọc cầu dĩ thừa ê hề,
Khạp ai phong dư thượng chinh.
Triêu phát nhận ư Thương Ngô hề,
Tịch dư chí hồ Huyền Phố.
Dục thiểu lưu thử linh toả hề,
Nhật hốt hốt kỳ tương mộ.
Ngô linh Hy Hoà nhị tiết hề,
Vọng Yêm – tư nhi vật bách.
Lộ man man kỳ tu viễn hề,
Ngô tương thượng hạ nhi cầu sách.
Ẩm dư mã ư Hàm – trì hề,
Tổng dư bí hồ phù tang.
Chiết nhược mộc dĩ phất nhật hề,
Liêu tiêu diêu dĩ tương dương.
Tiền Vọng Thư sử tiên khu hề,
Hậu Phi Liêm sứ bôn chúc.
Loan hoàng vị dư tiên giới hề,
Lôi sư cáo dư dĩ vị cụ.
Ngô linh phụng điểu phi đằng hề,
Kế chi dĩ nhật dạ.
Phiêu phong đồn kỳ tương ly hề,
Suất vân nghê nhi lai nhạ (ngự).
Phân tổng tổng kỳ ly hợp hề,
Ban lục ly kỳ thượng hạ.
Ngô linh Đế hôn khai quan hề,
Ỷ xương hạp nhi vọng dư.
Thì ái ái kỳ tương bãi hề,
Kết u lan nhi diên trữ.
Thế hỗn trọc nhi bất phân hề,
Hiếu tế mỹ nhi tật đố.
Triêu ngô tương tế ư Bạch thuỷ hề,
Đăng Lãng phong nhi tiết mã.
Hốt phản cố dĩ lưu thế hề,
Ai cao khâu chi vô nữ.
Khạp ngô du thử xuân cung hề,
Chiết quỳnh chi dĩ kế bội.
Cập vinh hoa chi vị lạc hề,
Tướng hạ nữ chi khả di.
Ngô linh Phong long thừa vân hề,
Cầu Phục phi chi sở tại.
Giải bội tương dĩ kết ngôn hề,
Ngô linh Kiển Tu dĩ vi lý.
Phân tổng tổng kỳ ly hợp hề,
Hốt vĩ hoạch kỳ nan thiên.
Tịch quy thứ ư Cùng thạch hề,
Triêu trạc phát hồ Vị bàn.
Bảo quyết mỹ dĩ kiêu ngạo hề,
Nhật khang ngu dĩ dâm du.
Tuy tín mỹ nhi vô lễ hề,
Lai vi khí nhi cải cầu.
Lãm tướng quan ư tứ cực hề,
Chu lưu hồ thiên dư nãi hạ.
Vọng Dao đài chi yển kiển hề,
Kiến Hữu tung chi dật nữ.
Ngô linh Trấm vi môi hề,
Trấm cáo dư dĩ bất hảo.
Hùng cưu chi minh thệ hề,
Dư do ố kỳ điêu xảo.
Tâm do dự nhi hồ nghi hề,
Dục tự thích nhi bất khả.
Phụng hoàng ký thụ di hề,
Khủng Cao Tân chi tiên ngã.
Dục viễn tập nhi vô sở chỉ hề,
Liêu phù du dĩ tiêu diêu.
Cập Thiếu Khang chi vị gia hề,
Lưu Hữu Ngu chi nhị diêu.
Lý nhược nhi môi chuyết hề,
Khủng đạo ngôn chi bất cố.
Thế hỗn trọc nhi tật hiền hề,
Hiếu tế mỹ nhi xưng ác.
Khuê trung ký dĩ thuý viễn hề,
Triết vương hựu bất ngộ.
Hoài trẫm tình nhi bất phát hề,
Dư yên năng nhẫn nhi dữ thử chung cổ.
Sách quỳnh mao dĩ đình đoàn hề,
Mệnh Linh Phân vị dư chiêm chi.
Viết: lưỡng mỹ kỳ tất hợp hề,
Thục tín tu nhi mộ chi?
Tư cửu châu chi bác đại hề,
Khởi duy thị kỳ hữu nữ?
Viết: miễn viễn thệ nhi vô hồ nghi hề,
Thục cầu mỹ nhi thích nhữ?
Hà sở độc vô phương thảo hề,
Nhĩ hà hoài hồ cố vũ.
Thế u muội, dĩ huyễn diệu hề,
Thục vân sát dư chi thiện ác?
Dân hiếu ố kỳ bất đồng hề,
Duy thử đảng nhân kỳ độc dị.
Hộ phục ngải dĩ doanh yêu hề,
Vị u lan kỳ bất khả bội.
Lãm sát thảo mộc kỳ do vị đắc hề,
Khởi trình mỹ chi năng đương.
Tô phân nhưỡng dĩ sung vi hề,
Vị thân tiêu kỳ bất phương.
Dục tòng Linh phân chi cát chiêm hề,
Tâm do dự nhi hồ nghi.
Vu Hàm tương tịch giáng hề,
Hoài tiêu sở nhi yêu chi.
Bách thần ế kỳ bị giáng hề,
Cửu nghi tân kỳ tịnh nghênh.
Hoàng diệm diệm kỳ dương linh hề,
Cáo dư dĩ cát cố.
Viết: Miễn thăng giáng dĩ thượng hạ hề,
Cầu củ hoạch chi sở đồng.
Thang Vũ nghiêm nhi cầu hợp hề,
Chí Cao Dao nhi năng điều.
Cẩu trung tình kỳ hiếu tu hề,
Hựu hà tất dụng phù hành môi?
Duyệt thao trúc ư Phó Nham hề,
Vũ Đinh dụng nhi bất nghi.
Lã Vọng chi cổ đao hề,
Tao Chu Văn nhi đắc cử.
Ninh Thích chi âu ca hề,
Tề Hoàn văn dĩ cai phụ.
Cập niên tuế chi vị án hề,
Thì diệc do kỳ vị ương.
Khủng đề quyết chi tiên minh hề,
Sử phù bách thảo vị chi bất phương.
Hà quỳnh bội chi yển kiển hề,
Chúng ái nhiên nhi tế chi.
Duy thử đảng nhân chi bất lượng hề,
Khủng tật đố nhi chiết chi.
Thì tân phân kỳ biến dịch hề,
Hựu hà khả dĩ yêm lưu.
Lan chỉ biến nhi bất phương hề,
Thuyên huệ hoá nhi vi mao.
Hà tích nhật chi phương thảo hề,
Kim trực vi thử tiêu ngải dã.
Khởi kỳ hữu tha cố hề,
Mạc hiếu tu chi hại dã.
Dư ký dĩ lan vi khả thị hề,
Khương vô thực nhi dung trường.
Uỷ quyết mỹ dĩ tòng tục hề,
Cẩu đắc liệt hồ chúng phương.
Tiêu chuyên nịnh dĩ mạn thao hề,
Sát hựu dục sung phù bội vi.
Ký can tiến nhi vụ nhập hề,
Hựu hà phương chi năng chi.
Cố thì tục chi lưu tòng hề,
Hựu thục năng vô biến hoá?
Lãm tiêu lan kỳ nhược tư hề,
Hựu huống yết xa dữ giang ly.
Duy tư bội chi khả quý hề,
Uỷ quyết mỹ nhi lịch ti (tư).
Phương phi phi nhi nan khuy hề,
Phân chí kim do vị mạt.
Hoà điệu độ dĩ tự ngu hề,
Liêu phù du nhi cầu nữ.
Cập dư sức chi phương tráng hề,
Chu lưu quan hồ thượng hạ.
Linh phân ký cáo dư dĩ cát chiêm hề,
Lịch cát nhật hồ ngô tương hàng.
Chiết quỳnh chi dĩ vi tu hề,
Tinh quỳnh my dĩ vi trương.
Vị dư giá phi long hề,
Tạp dao tượng dĩ vi xa.
Hà ly tâm chi khả đồng hề,
Ngô tương viễn thệ dĩ tự sơ.
Triển ngô đạo phù Côn-luân hề,
Lộ tu viễn dĩ chu lưu.
Dương vân nghê chi yểm ái hề,
Minh ngọc loan chi thu thu.
Triêu phát nhận ư Thiên tân hề,
Tịch dư chí hồ Tây cực.
Phượng hoàng dực kỳ thừa kỳ hề,
Cao cao tường chi dực dực.
Hốt ngô hành thử Lưu sa hề,
Tuân Xích thuỷ nhi dung dữ.
Huy giao long sử lương tân hề,
Chiếu Tây hoàng sứ thiệp dư.
Lộ tu viễn dĩ đa gian hề,
Đằng chúng xa sử kính đãi.
Lộ Bất Chu dĩ tả chuyển hề,
Chỉ Tây hải dĩ vi kỳ.
Đồn dư xa kỳ thiên thặng hề,
Tề ngọc đại nhi tịnh trì.
Giá bát long chi uyển uyển hề,
Tái vân kỳ chi uỷ xà.
Ức chí nhi nhị tiết hề,
Thần cao trì chi mạc mạc.
Tấu Cửu ca nhi vũ thiều hề,
Liêu hà nhật dĩ du lạc.
Trắc thăng hoàng chi hách hí hề,
Hốt lâm nghễ phù cựu hương.
Bộc phu bi dư mã hoài hề,
Quyền cục cố nhi bất hàng.
(Loạn viết) Dĩ hỹ tai!
Quốc vô nhân mạc ngã tri hề,
Hựu hà hoài hồ cố đô.
Ký mạc túc dữ vi mỹ chính hề,
Ngô tương tòng Bành Hàm chi sở cư.

5/ Tĩnh nữ 1 (Khổng tử)

靜女 1
靜女其姝,
俟我於城隅。
愛而不見,
搔首踟躕。

Tĩnh nữ 1
Tĩnh nữ kỳ xu,
Sĩ ngã ư thành ngu (ngung),
Ái nhi bất kiến,
Tao thủ trì trù.

Dịch nghĩa
Người con gái nhàn nhã đẹp đẽ.
Hẹn đợi ta ở chỗ góc thành (chỗ hẻo lánh tối tăm).
Yêu nàng mà không thấy nàng,
Ta gãi đầu và dậm chân.

Táng hoa từ (Tào tuyết cần)

葬花詞
花謝花飛飛滿天,
紅消香斷有誰憐?
遊絲軟系飄春榭,
落絮輕粘扑繡帘。
閨中女兒惜春暮,
愁緒滿懷無著處,
手把花鋤出繡帘,
忍踏落花來復去?
柳絲榆莢自芳菲,
哪管桃飄與李飛,
桃李明年能再發,
明年閨中知有誰?
三月香巢已壘成,
梁間燕子太無情,
明年花發雖可啄,
卻不道人去梁空巢也傾。
一年三百六十日,
風刀霜劍嚴相逼,
明媚鮮妍能几時,
一朝漂泊難尋覓。
花開易見落難尋,
階前愁煞葬花人,
獨倚花鋤淚暗灑,
洒上空枝見血痕。
杜鵑無語正黃昏,
荷鋤歸去掩重門,
青燈照壁人初睡,
冷雨敲窗被未溫。
怪儂底事倍傷神?
半為憐春半惱春,
憐春忽至惱忽去,
至又無言去不聞。
昨宵亭外悲歌發,
知是花魂與鳥魂?
花魂鳥魂總難留,
鳥自無言花自羞。
愿儂脅下生雙翼,
隨花飛到天盡頭。
天盡頭!何處有香丘?
未若錦囊收艷骨,
一抔淨土掩風流,
質本潔來還潔去,
不教污淖陷渠溝。
爾今死去儂收葬,
未卜儂身何日喪?
儂今葬花人笑痴,
他年葬儂知是誰?
試看春殘花漸落,
便是紅顏老死時。
一朝春盡紅顏老,
花落人亡兩不知!

Táng hoa từ
Hoa tạ hoa phi, phi mãn thiên,
Hồng tiêu hương đoạn hữu thuỳ liên.
Du ti nhuyễn hệ phiêu xuân tạ,
Lạc nhứ khinh niêm phốc tú liêm.
Khuê trung nữ nhi tích xuân mộ,
Sầu tự mãn hoài vô trước xứ,
Thủ bả hoa sừ xuất tú liêm,
Nhẫn đạp lạc hoa lai phục khứ.
Liễu ti du giáp tự phương phi,
Na quản đào phiêu dữ lý phi.
Đào lý minh niên năng tái phát,
Minh niên khuê trung tri hữu thuỳ.
Tam nguyệt hương sào dĩ luỹ thành,
Lương gian yến tử thái vô tình.
Minh niên hoa phát tuy khả trác,
Khước bất đạo nhân khứ lương không sào dã khuynh!
Nhất niên tam bách lục thập nhật,
Phong đao sương kiếm nghiêm tương bức.
Minh mị tiên nghiên năng kỷ thì,
Nhất triêu phiêu bạc nan tầm mịch.
Hoa khai dị kiến lạc nan tầm,
Giai tiền sầu sát táng hoa nhân.
Độc ỷ hoa sừ lệ ám sái,
Sái thượng không chi kiến huyết ngân.
Đỗ quyên vô ngữ chính hoàng hôn,
Hà sừ quy khứ yểm trùng môn.
Thanh đăng chiếu bích nhân sơ thuỵ,
Lãnh vũ xao song bị vị ôn.
Quái nùng để sự bội thương thần,
Bán vị liên xuân bán não xuân.
Liên xuân hốt chí não hốt khứ,
Chí hựu vô ngôn khứ bất văn.
Tạc tiêu đình ngoại bi ca phát,
Tri thị hoa hồn dữ điểu hồn?
Hoa hồn điểu hồn tổng nan lưu,
Điểu tự vô ngôn hoa tự tu.
Nguyện nùng hiếp hạ sinh song dực,
Tuỳ hoa phi đáo thiên tẫn đầu.
Thiên tẫn đầu! Hà xứ hữu hương khâu?
Vị nhược cẩm nang thu diễm cốt,
Nhất bồi tịnh thổ yểm phong lưu.
Chất bản khiết lai hoàn khiết khứ,
Bất giao ô náo hãm cừ câu.
Nhĩ kim tử khứ nùng thu táng,
Vị bốc nùng thân hà nhật táng.
Nùng kim táng hoa nhân tiếu si,
Tha niên táng nùng tri thị thuỳ.
Thí khán xuân tàn hoa tiệm lạc,
Tiện thị hồng nhan lão tử thì.
Nhất triêu xuân tận hồng nhan lão,
Hoa lạc nhân vong lưỡng bất tri.

Thơ cổ Trung Quốc

Các bài thơ của thời Tống, Chu, Lý, Đường,… và nhiều trời đại khác của Trung Quốc. Tổng hợp giúp bạn có góc nhìn riêng về phong cách thơ ca ngày đó:

1/ Bài thơ tương tư Trung Quốc (Trường Tương Tư)

長相思
長相思,
久離別。
關山阻,
風煙絕。
臺上鏡文銷,
袖中書字滅。
不見君形影,
何曾有歡悅。

Trường tương tư
Trường tương tư,
Cửu ly biệt.
Quan san trở,
Phong yên tuyệt.
Đài thượng kính văn tiêu,
Tụ trung thư tự diệt.
Bất kiến quân hình ảnh,
Hà tằng hữu hoan duyệt.

2/ Tử Khâm 1 (Khổng Tử)

子衿 1
青青子衿,
悠悠我心。
縱我不往,
子寧不嗣音?

Tử khâm 1
Thanh thanh tử khâm
Du du ngã tâm
Túng ngã bất vãng,
Tử ninh bất tự âm?

Dịch nghĩa
Bâu áo của chàng thuần một màu xanh (nhớ chàng, em nhớ cả sắc phục của chàng).
Lòng em nhớ nghĩ xa xôi man mác.
Nếu em không đến với chàng,
Chàng sao lại không có lời viếng thăm em ?

3/ Đào hoa hành (Tào Tuyết Cần)

桃花行
桃花簾外東風軟,
桃花簾內晨妝懶:
簾外桃花簾內人,
人與桃花隔不遠;
東風有意揭簾櫳,
花欲窺人簾不卷。
桃花簾外開仍舊,
簾中人比桃花瘦;
花解憐人花亦愁,
隔簾消息風吹透。
風透簾櫳花滿庭,
庭前春色倍傷情:
閑苔院落門空掩,
斜日欄杆人自憑。
憑欄人向東風泣,
茜裙偷傍桃花立;
桃花桃葉亂紛紛,
花綻新紅葉凝碧。
霧裹煙封一萬株,
烘樓照壁紅模糊;
天機燒破鴛鴦錦,
春酣欲醒移珊枕。
侍女金盆進水來,
香泉影蘸胭脂冷!
胭脂鮮艷何相類,
花之顏色人之淚,
若將人淚比桃花,
淚自長流花自媚,
淚眼觀花淚易乾,
淚乾春盡花憔悴。
憔悴花遮憔悴人,
花飛人倦易黃昏;
一聲杜宇春歸盡,
寂寞簾櫳空月痕!

Đào hoa hành
Đào hoa liêm ngoại đông phong nhuyễn
Đào hoa liêm nội thần trang lãn
Liêm ngoại đào hoa liêm nội nhân
Nhân dữ đào hoa cách bất viễn
Đông phong hữu ý yết liêm lung
Hoa dục khuy nhân liêm bất quyển
Đào hoa liêm ngoại khai nhưng cựu
Liêm trung nhân tỉ đào hoa sấu
Hoa giải liên nhân hoa diệc sầu
Cách liêm tiêu tức phong xuy thấu
Phong thấu liêm lung hoa mãn đình
Đình tiền xuân sắc bội thương tình
Nhàn đài viện lạc môn không yểm
Tà nhật lan can nhân tự bằng
Bằng lan nhân hướng đông phong khấp
Thiến quần thâu bạng đào hoa lập
Đào hoa đào diệp loạn phân phân
Hoa trán tân hồng diệp ngưng bích
Vụ khoả yên phong nhất vạn chu
Hồng lâu chiếu bích hồng mô hồ
Thiên cơ thiêu phá uyên ương cẩm
Xuân hàm dục tỉnh di san chẩm
Thị nữ kim bồn tiến thuỷ lai
Hương tuyền ảnh trám yên chi lãnh
Yên chi tiên diễm hà tương loại
Hoa chi nhan sắc nhân chi lệ
Nhược tương nhân lệ tỉ đào hoa
Lệ tự trường lưu hoa tự mỵ
Lệ nhãn quan hoa lệ dị can
Lệ can xuân tận hoa tiều tuỵ
Tiều tuỵ hoa già tiều tuỵ nhân
Hoa phi nhân quyện dịch hoàng hôn
Nhất thanh đỗ vũ xuân quy tận
Tịch mịch liêm lung không nguyệt ngân.

4/ Tiền Xích Bích phú (Tô Thức)

前赤壁賦
壬戌之秋,七月既望,蘇子與客泛舟遊於赤壁之下。清風徐來,水波不興,舉酒屬客,誦明月之詩,歌窈窕之章。少焉,月出於東山之上,徘徊於斗牛之間。白露橫江,水光接天。縱一葦之所如,凌萬頃之茫然。浩浩乎如馮虛御風,而不知其所止;飄飄乎如遺世獨立,羽化而登仙。於是飲酒樂甚,扣舷而歌之。歌曰︰
「桂棹兮蘭槳,
擊空明兮泝流光。
渺渺兮於懷,
望美人兮天一方。」

客有吹洞蕭者,倚歌而和之,其聲嗚嗚然,如怨如慕,如泣如訴;餘音裊裊,不絕如縷;舞幽壑之潛蛟,泣孤舟之嫠婦。

蘇子愀然,正襟危坐,而問客曰︰
「何為其然也?」

客曰︰
「月明星稀,烏鵲南飛,此非曹孟德之詩乎?西望夏口,東望武昌;山川相缪,鬱乎蒼蒼;此非孟德之困於周郎者乎?方其破荊州,下江陵,順流而東也,舳艫千里,旌旗蔽空,釃酒臨江,橫槊賦詩;固一世之雄也,而今安在哉?況吾與子,漁樵於江渚之上,侶魚蝦而友糜鹿,駕一葉之扁舟,舉匏樽以相屬;寄蜉蝣於天地,渺滄海之一粟。哀吾生之須臾,羨長江之無窮;挾飛仙以遨遊,抱明月而長終。知不可乎驟得,托遺響於悲風。」

蘇子曰︰
「客亦知夫水與月乎?逝者如斯,而未嘗往也;盈虛者如彼,而卒莫消長也。蓋將自其變者而觀之,而天地曾不能以一瞬。自其不變者而觀之,則物與我皆無盡也,而又何羨乎?且夫天地之間,物各有主。苟非吾之所有,雖一毫而莫取。惟江上之清風,與山間之明月,耳得之而為聲,目遇之而成色。取之無禁,用之不竭。是造物者之無盡藏也,而吾與子之所共適。」

客喜而笑,洗盞更酌。肴核既盡,杯盤狼藉。相與枕藉乎舟中,不知東方之既白。

Tiền Xích Bích phú
Nhâm Tuất chi thu, thất nguyệt ký vọng, Tô tử dữ khách phiếm chu du ư Xích Bích chi hạ. Thanh phong từ lai, thuỷ ba bất hứng, cử tửu chúc khách, tụng Minh nguyệt chi thi, ca Yểu điệu chi chương. Thiểu yên, nguyệt xuất ư đông sơn chi thượng, bồi hồi ư Đẩu Ngưu chi gian. Bạch lộ hoành giang, thuỷ quang tiếp thiên. Túng nhất vĩ chi sở như, lăng vạn khoảnh chi mang nhiên. Hạo hạo hồ như bằng hư ngự phong, nhi bất tri kỳ sở chỉ; phiêu phiêu hồ như di thế độc lập, vũ hoá nhi đăng tiên. Ư thị ẩm tửu lạc thậm, khấu huyền nhi ca chi. Ca viết:
“Quế trạo hề lan tương,
Kích không minh hề tố lưu quang,
Diểu diểu hề ư hoài,
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương.”

Khách hữu xuy động tiêu giả, ỷ ca nhi hoạ chi; kỳ thanh ô ô nhiên, như oán như mộ, như khấp như tố, dư âm diểu diểu bất tuyệt như lũ; vũ u hác chi tiềm giao, khấp cô chu chi ly phụ.

Tô tử sậu nhiên chính khâm, nguy toạ nhi vấn khách, viết:
– Hà vi kỳ nhiên dã?

Khách viết:
– “Nguyệt minh tinh hy, ô thước nam phi”, thử phi Tào Mạnh Đức chi thi hồ? Tây vọng Hạ Khẩu, đông vọng Vũ Xương; sơn xuyên tương mâu, uất hồ thương thương, thử phi Mạnh Đức chi khốn ư Chu Lang giả hồ? Phương kỳ phá Kinh Châu, há Giang Lăng, thuận lưu nhi đông dã, trục lô thiên lý, tinh kỳ tế không, si tửu Lâm giang, hoành sáo phú thi, cố nhất thế chi hùng dã, nhi kim an tại tai? Huống ngô dữ tử, ngư tiều ư giang chử chi thượng, lữ ngư hà nhi hữu mi lộc, giá nhất diệp chi biển chu, cử bào tôn dĩ tương chúc, ký phù du ư thiên địa, diểu thương hải chi nhất túc. Ai ngô sinh chi tu du, tiện Trường Giang chi vô cùng, hiệp phi tiên dĩ ngao du, bão minh nguyệt nhi trường chung. Tri bất khả hồ sậu đắc, thác di hưởng ư bi phong.

Tô tử viết:
– Khách diệc tri phù thuỷ dữ nguyệt hồ? Thệ giả như tư nhi vị thường vãng dã; doanh hư giả như bỉ nhi tốt mạc tiêu trưởng dã. Cái tương tự kỳ biến giả nhi quan chi, nhi thiên địa tằng bất năng dĩ nhất thuấn. Tự kỳ bất biến giả nhi quan chi, tắc vật dữ ngã giai vô tận dã, nhi hựu hà tiện hồ? Thả phù thiên địa chi gian, vật các hữu chủ. Cẩu phi ngô chi sở hữu, tuy nhất hào nhi mạc thủ. Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt, nhĩ đắc chi nhi vi thanh, mục ngộ chi nhi thành sắc. Thủ chi vô cấm, dụng chi bất kiệt. Thị tạo vật giả chi vô tận tàng dã, nhi ngô dữ tử chi sở cộng thích.

Khách hỉ nhi tiếu, tẩy trản cánh chước. Hào hạch ký tận, bôi bàn lang tạ. Tương dữ chẩm tạ hồ chu trung, bất tri đông phương chi ký bạch.

5/ Thương tiến tửu (Lý Bạch)

將進酒
君不見:
黃河之水天上來,
奔流到海不復回?
又不見:
高堂明鏡悲白髮,
朝如青絲暮成雪?
人生得意須盡歡,
莫使金樽空對月。
天生我才必有用,
千金散盡還復來。
烹羊宰牛且為樂,
會須一飲三百杯。
岑夫子,
丹丘生,
將進酒,
杯莫停。
與君歌一曲,
請君為我傾耳聽。
鐘鼓饌玉何足貴,
但願長醉不願醒。
古來聖賢皆寂寞,
唯有飲者留其名。
陳王昔時宴平樂,
斗酒十千恣歡謔。
主人何為言少錢,
逕須沽取對君酌。
五花馬,
千金裘,
呼兒將出換美酒,
與爾同消萬古愁。

Thương tiến tửu
Quân bất kiến:
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Hựu bất kiến:
Cao đường minh kính bi bạch phát,
Triêu như thanh ty, mộ thành tuyết.
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!
Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,
Thiên kim tán tận hoàn phục lai.
Phanh dương tể ngưu thả vi lạc,
Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
Sầm phu tử,
Đan Khâu sinh.
Thương tiến tửu,
Bôi mạc đình!
Dữ quân ca nhất khúc,
Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính:
“Chung cổ soạn ngọc hà túc quý,
Đãn nguyện trường tuý bất nguyện tỉnh!
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.
Trần vương tích thời yến Bình Lạc,
Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước.”
Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,
Kính tu cô thủ đối quân chước.
Ngũ hoa mã,
Thiên kim cừu,
Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,
Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.

Dịch nghĩa
Anh không thấy:
Nước sông Hoàng Hà chảy từ trên trời xuống,
Chảy ra đến biển không quay trở lại nữa.
Anh lại không thấy:
Cha mẹ soi gương buồn nhìn tóc bạc,
Sáng còn như tơ đen mượt, chiều tối đã trắng như tuyết.
Đời người khi nào đắc ý nên tận tình vui sướng,
Đừng để chén rượu vàng cạn queo nhìn vầng trăng.
Trời sinh ra ta có tài thì ắt sẽ được dùng,
Ngàn vàng tiêu sạch hết rồi sẽ có trở lại.
Mổ dê giết trâu cứ vui cái đã,
Uống một lần ba trăm ly rồi hãy tính.
Này ông bạn họ Sầm,
Này ông bạn Đan Khâu.
Xin mời uống rượu,
Chớ có ngừng chén.
Tôi xin ca một khúc cho các anh,
Xin các anh vì tôi lắng tai nghe:
“Chuông trống cỗ bàn nào có đáng quý,
Chỉ xin được say hoài không muốn tỉnh.
Xưa nay các bậc thánh hiền đều không còn tiếng tăm,
Chỉ có kẻ uống rượu mới để lại tên tuổi.
Trần vương hồi xưa mở yến hội ở Bình Lạc,
Mười ngàn đấu rượu tha hồ mà hoan lạc vui cười.”
Tại sao chủ nhân lại nói ít tiền,
Hãy mau mau mua rượu mời các anh uống.
Này ngựa hoa năm sắc,
Này áo cừu giá ngàn vàng.
Kêu đứa nhỏ ra đem đổi lấy rượu,
Cùng bạn tiêu mối sầu vạn cổ.

Thơ Đường Trung Quốc

Thời Đường có nhiều tác giả kiệt xuất với những tác phẩm văn học nổi tiếng đến ngàn đời xưa. Tư duy của họ vượt thời đại hoặc phản ánh nền văn hoa đương thời, có nết riêng và đặc trưng.

1/ Tĩnh dạ tứ (Lý Bạch)

靜夜思
床前明月光,
疑是地上霜。
舉頭望明月,
低頭思故鄉。

Tĩnh dạ tứ
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

Dịch nghĩa
Đầu giường trăng sáng soi,
Giống như là sương trên mặt đất.
Ngẩng đầu ngắm nhìn vầng trăng sáng,
Cúi đầu lại thấy nhớ quê nhà.

2/ Dạ biệt Vi tư sĩ (Cao Thích)

夜別韋司士
高館張燈酒復清,
夜鍾殘月雁歸聲。
只言啼鳥堪求侶,
無那春風欲送行。
黃河曲裏沙為岸,
白馬津邊柳向城。
莫怨他鄉暫離別,
知君到處有逢迎。

Dạ biệt Vi tư sĩ
Cao quán trương đăng tửu phục thanh,
Dạ chung tàn nguyệt nhạn quy thanh.
Chỉ ngôn đề điểu kham cầu lữ,
Vô ná xuân phong dục tống hành.
Hoàng Hà khúc lý sa vi ngoạn,
Bạch Mã tân biên liễu hướng thành.
Mạc oán tha hương tạm ly biệt,
Tri quân đáo xứ hữu phùng nghinh.

Dịch nghĩa
Quán cao, chong ngọn đèn, rượu lại trong vắt
Tiếng chuông đêm, ánh trăng nhạt, nhạn về kêu
Chỉ bảo rằng tiếng chim gọi tìm đàn
Nào biết ngọn gió xuân đang tiễn người đi
Trên khúc Hoàng Hà hai bờ toàn cát
Bên bến Bạch Mã liễu rũ quanh thành
Chớ buồn giận vì tạm xa nơi đất khách
Biết anh đến đâu cũng có người đón tiếp.

3/ Hiệp Khách Hành (Lý Bạch)

俠客行
趙客縵胡纓,
吳鉤霜雪明。
銀鞍照白馬,
颯沓如流星。
十步殺一人,
千里不留行。
事了拂衣去,
深藏身與名。
閑過信陵飲,
脫劍膝前橫。
將炙啖朱亥,
持觴勸侯嬴。
三杯吐然諾,
五岳倒為輕。
眼花耳熱後,
意氣素霓生。
救趙揮金鎚,
邯鄲先震驚。
千秋二壯士,
烜赫大樑城。
縱死俠骨香,
不慚世上英。
誰能書閣下,
白首太玄經。

Hiệp khách hành
Triệu khách mạn hồ anh,
Ngô câu sương tuyết minh.
Ngân an chiếu bạch mã,
Táp đạp như lưu tinh.
Thập bộ sát nhất nhân,
Thiên lý bất lưu hành.
Sự liễu phất y khứ,
Thâm tàng thân dữ danh.
Nhàn quá Tín Lăng ẩm,
Thoát kiếm tất tiền hoành.
Tương chích đạm Chu Hợi,
Trì thương khuyến Hầu Doanh.
Tam bôi thổ nhiên nặc,
Ngũ nhạc đảo vi khinh.
Nhãn hoa nhĩ nhiệt hậu,
Ý khí tố nghê sinh.
Cứu Triệu huy kim chuỳ,
Hàm Đan tiên chấn kinh.
Thiên thu nhị tráng sĩ,
Huyên hách Đại Lương thành.
Túng tử hiệp cốt hương,
Bất tàm thế thượng anh.
Thuỳ năng thư các hạ,
Bạch thủ Thái huyền kinh.

Dịch nghĩa
Khách nước Triệu đeo giải mũ thô sơ
Thanh Ngô câu sáng như sương tuyết
Yên bạc soi chiếu con ngựa trắng
Lấp loáng như sao bay
(Thanh gươm) mười bước giết một người
Cho nên không đi xa ngàn dặm
Làm xong việc rũ áo ra đi
Ẩn kín thân thế cùng danh tiếng
Lúc nhàn rỗi qua nhà Tín Lăng quân
Cởi kiếm ra để ngang trên gối
Đem chả nướng mời Chu Hợi
Cầm chén rượu mời Hầu Doanh
Uống ba ly chân thành gật đầu
Năm trái núi lớn thật xem là nhẹ
Sau khi mắt hoa, tai nóng bừng
Ý khí như cầu vồng trắng bốc sinh
Vung cây chuỳ cứu nước Triệu
Thành Hàm Đan trước tiên đã chấn kinh
Hai tráng sĩ ngàn năm sau
Thanh danh lẫy lừng thành Đại Lương
Dù cho chết xương cốt hiệp sĩ còn thơm
Không hổ thẹn với anh hùng trên thế gian
Ai là người có thể ngồi viết sách dưới gác
Bạc đầu với cuốn kinh Thái huyền

4/ Vọng Lư sơn bộc bố (Lý Bạch)

望廬山瀑布
日照香爐生紫煙,
遙看瀑布掛前川。
飛流直下三千尺,
疑是銀河落九天。

Vọng Lư sơn bộc bố
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.

Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu xuống đỉnh Hương Lô sinh ra màu khói tía,
Từ xa nhìn thác nước treo như con sông trước mặt.
Bay chảy thẳng xuống từ ba nghìn thước,
Ngỡ là Ngân Hà rơi khỏi chín tầng mây.

5/ Tỳ bà hành (Bạch Cư Dị)

潯陽江頭夜送客,
楓葉荻花秋瑟瑟。
主人下馬客在船,
舉酒欲飲無管弦。
醉不成歡慘將別,
別時茫茫江浸月。
忽聞水上琵琶聲,
主人忘歸客不發。
尋聲暗問彈者誰,
琵琶聲停欲語遲。
移船相近邀相見,
添酒回燈重開宴。
千呼萬喚始出來,
猶抱琵琶半遮面。
轉軸撥弦三兩聲,
未成曲調先有情。
弦弦掩抑聲聲思,
似訴生平不得志。
低眉信手續續彈,
說盡心中無限事。
輕攏慢撚抹復挑,
初為霓裳後六么。
大弦嘈嘈如急雨,
小弦切切如私語。
嘈嘈切切錯雜彈,
大珠小珠落玉盤。
閒關鶯語花底滑,
幽咽流景水下灘。
水泉冷澀弦凝絕,
凝絕不通聲漸歇。
別有幽愁暗恨生,
此時無聲勝有聲。
銀瓶乍破水漿迸,
鐵騎突出刀鎗鳴。
曲終收撥當心畫,
四弦一聲如裂帛。
東船西舫悄無言,
惟見江心秋月白。
沈吟放撥插弦中,
整頓衣裳起斂容。
自言本是京城女,
家在蝦蟆陵下住。
十三學得琵琶成,
名屬教坊第一部。
曲罷曾教善才服,
妝成每被秋娘妒。
五陵年少爭纏頭,
一曲紅綃不知數。
鈿頭銀篦擊節碎,
血色羅裙翻酒污。
今年歡笑復明年,
秋月春風等閒度。
弟走從軍阿姨死,
暮去朝來顏色故。
門前冷落車馬稀,
老大嫁作商人婦。
商人重利輕別離,
前月浮梁買茶去。
去來江口守空船,
繞船月明江水寒。
夜深忽夢少年事,
夢啼妝淚紅闌干。
我聞琵琶已歎息,
又聞此語重唧唧。
同是天涯淪落人,
相逢何必曾相識。
我從去年辭帝京,
謫居臥病潯陽城。
潯陽地僻無音樂,
終歲不聞絲竹聲。
住近湓江地低濕,
黃蘆苦竹繞宅生。
其間旦暮聞何物,
杜鵑啼血猿哀鳴。
春江花朝秋月夜,
往往取酒還獨傾。
豈無山歌與村笛,
嘔啞嘲哳難為聽。
今夜聞君琵琶語,
如聽仙樂耳暫明。
莫辭更坐彈一曲,
為君翻作琵琶行。
感我此言良久立,
卻坐促弦弦轉急。
淒淒不似向前聲,
滿座重聞皆掩泣。
座中泣下誰最多,
江州司馬青衫濕。

 

Tỳ bà hành
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.
Chủ nhân há mã khách tại thuyền,
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.
Tuý bất thành hoan thảm tương biệt,
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt.
Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh,
Chủ nhân vong quy khách bất phát.
Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ,
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì.
Di thuyền tương cận yêu tương kiến,
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến.
Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai,
Do bão tỳ bà bán già diện.
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh,
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình.
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ,
Tự tố sinh bình bất đắc chí.
Đê mi tín thủ tục tục đàn,
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự.
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu,
Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu.
Đại huyền tào tào như cấp vũ,
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn,
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn.
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt,
U yết lưu cảnh thuỷ hạ than.
Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết.
Biệt hữu u sầu ám hận sinh,
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.
Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính,
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh.
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch,
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch.
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn,
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung,
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.
Tự ngôn bản thị kinh thành nữ,
Gia tại Hà Mô lăng hạ trú.
Thập tam học đắc tỳ bà thành,
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ.
Khúc bãi tằng giao thiện tài phục,
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số.
Điền đầu ngân tị kích tiết toái,
Huyết sắc la quần phiên tửu ố.
Kim niên hoan tiếu phục minh niên,
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.
Đệ tẩu tòng quân a di tử,
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy,
Lão đại giá tác thương nhân phụ.
Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ.
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn.
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,
Mộng đề trang lệ hồng lan can.
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức,
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,
Tương phùng hà tất tằng tương thức.
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,
Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành.
Tầm Dương địa tích vô âm nhạc,
Chung tuế bất văn ty trúc thanh.
Trú cận Bồn giang địa đê thấp,
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.
Kỳ gian đán mộ văn hà vật,
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh.
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ,
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch,
Âu á trào triết nan vi thính.
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ,
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh.
Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc,
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành.
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập,
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp.
Thê thê bất tự hướng tiền thanh,
Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp.
Toạ trung khấp hạ thuỳ tối đa,
Giang Châu tư mã thanh sam thấp.

Dịch nghĩa
Ban đêm đưa tiễn khách ở đầu sông Tầm Dương
Gió thu thổi vào lá phong, hoa lau hiu hắt
Chủ nhân xuống ngựa, khách trong thuyền
Nâng chén rượu muốn uông (mà) không có đàn sáo
Say mà không vui vẻ gì (vì) biệt ly sầu thảm
Lúc chia tay lòng mang mang, sông đượm bóng trăng
Chợt nghe có tiếng tỳ bà trên mặt nước
Chủ nhân quyên về, khách cũng không khởi hành
Tìm theo tiếng để hỏi người đàn là ai
Tiếng tỳ bà im bặt, muốn nói mà còn (ngại ngùng) trì hoãn
Bèn dời thuyền lại xin được gặp mặt
Rót thêm rượu, khêu đèn lên, trùng tân tiệc rượu
Gọi đến ngàn lần vạn lần mới bước ra
Tay ôm tỳ bà che khuất nửa gương mặt
Vặn trục gảy dây hai ba tiếng (để thử)
Chưa có khúc điệu gì mà nghe đã hữu tình
Dây nào cũng nghẹn ngào, tiếng nào cũng có ý
Bày tỏ nỗi bất đắc chí trong cuộc đời
Hạ thấp lông mày cứ gảy cứ gảy mãi
Giãi bày hết tâm sự vô cùng hạn
Nhẹ nắn, chậm vuốt, rồi lại gảy tiếp
Thoạt đầu là khúc Nghê thường, sau đó là khúc Lục yêu
Dây lớn ào ào như mưa rào
Dây nhỏ nỉ non như tỉ tê chuyện riêng
(Rồi tiếp đến) tiếng rào rào lẫn tiếng nỉ non
(Nghe như) hạt châu lớn hạt châu nhỏ rắc vào trong mân ngọc
(Nghe như) tiếng chim oanh giọng (líu lo) qua lại trong hoa
Nhịp suối ngập ngừng, nước chảy xuống bãi
Suối nước bỗng lạnh đông, dây đàn ngưng bặt
Tiếng đàn ngưng bặt, không thuận, bấy giờ bỗng yên lặng
Tự có mối sầu u uất riêng, nỗi hận âm thầm phát sinh
Lúc này không có âm thanh mà nghe con hay hơn có
(Bỗng dưng nghe như) tiếng nước bắn tung ra khỏi thành bình bạc vị phá vỡ
(Nghe như) đoàn quân thiết kỵ ào ào đến, đao thương sáng ngời
Nàng dạo tay vào giữa bốn dây (và) chấm dứt ca khúc
Bốn dây vang lên một âm thanh như lụa xé
Thuyền mảng đông tây lặng im, không một tiếng nói
Chỉ thấy vầng trăng thu rọi sáng giữa sông
Nàng trầm ngâm gỡ phím, cài vào giữa các dây đàn
Sửa gọn xiêm áo lại, đứng dậy chỉnh vẻ mặt
Tâm sự rằng, nàng nguyên là con gái chốn kinh thành
Nhà ở lăng Hà Mô
Mười ba tuổi học được ngón đàn tỳ bà
Tên thuộc bộ thứ nhất của giáo phường
Mỗi gảy hết khúc đàn, từng khiến các nhà dạy đàn phục
Mỗi trang điểm xong là đến nàng Thu Nương cũng đố kỵ
Những chàng trai trẻ ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng biếu
Một bài ca, thưởng không biết bao là tấm lụa đào
Vành lược bạc, cành trâm vàng đánh nhịp vỡ tan
Quần lụa màu huyết dụ để rượu đổ ra hoen ố
Năm này vui cười, năm sau cũng như vậy
Trăng thu gió xuân, trải một đời nhàn hạ
Em trai đi lính, rồi dì chết
Chiều qua, sớm lại, nhan sắc cũng lão đi
Trước cổng dần vắng tanh, thưa thớt đi ngựa xe
Cũng có tuổi rồi mới làm vợ người lái buôn
Người lái buôn chỉ tham lợi, coi thường biệt ly
Tháng trước đi Phù Lương mua trà
Từ đó đến giờ ở đầu sông một mình với con thuyền không
Quanh thuyền trăng sáng, nước sông lạnh lẽo
Đến khuya bỗng mộng thấy lại thời trẻ trung
Trong mộng thấy khóc nhoè má hồng phấn son
Tôi nghe tiếng tỳ bà đã thán tức
Giờ nghe thêm những lời tâm sự lại càng bùi ngùi
Cùng là kẻ luân lạc ở chốn chân trời
Gặp gỡ nhau đây hà tất đã từng quen biết
Năm ngoái tôi từ biệt kinh vua
Bị biếm đến thành Tầm Dương cho đến nay nằm bệnh
Tầm Dương xứ hẻo lánh không có âm nhạc
Cả năm chưa nghe được tiếng đàn sáo
Tôi ở gần sông Bồn, chỗ thấp và ẩm ướt
Lau vàng, trúc võ mọc quanh nhà
Ở nơi đây sáng chiều nghe được những gì
Có tiếng quốc khóc ra máu và tiếng vượn hú bi ai
Mùa xuân sáng hoa nở, mùa thu ban đêm có ánh trăng
Tôi thường thường đem rượu ra uống một mình
Có phải không có sơn ca thôn địch đâu
Khốn nỗi líu lo, líu liết, thật khó nghe
Đêm nay nghe được tiếng tỳ bà của nàng
Như nghe được tiếng nhạc tiên, tai tạm nghe rõ ràng
Xin ngồi lại đàn một khúc
Tôi sẽ vì nàng làm bài Tỳ Bà hành
Cảm động vì lời tôi nói, nàng đứng một lúc lâu
Rồi ngồi xuống gảy đàn, tiếng bỗng chuyển thành cấp xúc
Buồn thảm không giống như tiếng đàn vừa rồi
Hết những người trong tiệc nghe lại đều che mặt khóc
Trong những người ấy ai là người khóc nhiều nhất
Tư mã Giang Châu ướt đẫm vạt áo xanh

6/ Ky Xuân (Vương Bột)

羈春
客心千里倦,
春事一朝歸。
還傷北園裏,
重見落花飛。

Ky xuân
Khách tâm thiên lý quyện,
Xuân sự nhất triêu quy.
Hoàn thương bắc viên lý,
Trùng kiến lạc hoa phi.

Dịch nghĩa
Lòng khách chán chường dài cả ngàn dặm,
Dáng xuân chỉ một sớm đã về.
Vẫn chạnh nhớ thương quê hương miền bắc,
Khi lại thấy cánh hoa rơi bay.

7/ Bốc toán tử (Lý Chi Nghi)

卜算子
我住长江头,
君住长江尾。
日日思君不见君,
共饮长江水。
此水几时休?
此恨何时已?
只愿君心似我心,
定不负相思意。

Dịch thơ:

Nhà thiếp ở đầu sông,
Nhà chàng ở phía cuối.
Dòng nước Trường Giang cùng uống chung,
Vắng chàng mong sớm tối.
Nước nọ mấy khi ngừng,
Hận này bao thuở vợi.
Những mong ý thiếp giống lòng chàng,
Mối tình quyết không thay đổi.

8/ Không đề (chưa rõ)

如果你是我眼里的;一滴泪
为了不失去你;我将永不哭泣
如果金色的阳光;停止了它耀眼的光芒
你的一个微笑;将照亮我的整个世界。

Dịch nghĩa:

Nếu em là giọt nước mắt của anh
Để không mất đi em, anh sẽ không bao giờ rơi nước mắt
Nếu em là ánh nắng vàng rực rỡ, anh muốn dập tắt đi ánh sáng rực rỡ ấy
Mỗi nụ cười của em thắp sáng cả thế giới của anh

thơ đường trung quốc
Thơ nhà Đường với nhiều tác giả tên tuổi đến ngày nay

Thơ Trung Quốc về tình yêu ngắn

Những câu thơ Trung Quốc hay về tình yêu xưa và nay mang những vẻ riêng, đặc biệt. Dù thời đại nào, ái tình vẫn là chủ đề được yêu thích và đón nhận trong văn học, thơ ca.

1/ Đào yêu 1 (Khổng Tử)

桃夭 1
桃之夭夭、
灼灼其華。
之子于歸、
宜其室家。

Đào yêu 1
Đào chi yêu yêu,
Chước chước kỳ hoa.
Chi tử vu quy,
Nghi kỳ thất gia.

Dịch nghĩa
Cây đào tơ xinh tươi,
Hoa nhiều rậm.
Nàng ấy đi lấy chồng,
Thì ắt thuận hoà êm ấm cảnh gia đình.

2/ Hành tương tư

行相思
行相思,
坐相思,
兩處相思各自知,
相思更為誰。

朝相思,
暮相思,
一日相思十二時,
相思無盡期。

Hành tương tư
Hành tương ti (tư),
Toạ tương ti,
Lưỡng xứ tương ti các tự tri,
Tương tư cánh vị thuỳ.

Triêu tương ti,
Mộ tương ti,
Nhất nhật tương tư thập nhị thì,
Tương tư vô tận kỳ.

3/ Đoạn chương (Biện Chi Lâm)

断章
你站在桥上看风景,
看风景人在楼上看你。
明月装饰了你的窗子,
你装饰了别人的梦。

Dịch nghĩa:

Bài thơ nhỏ
Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh,
Người đứng trên lầu ngắm phong cảnh lại ngắm nhìn em.
Trăng sáng tô điểm của sổ phòng em
Em tô điểm giấc mộng của người.

Dịch thơ:

Em đứng trên cầu ngắm cảnh
Người ngắm cảnh trên cầu lại ngắm em
Ánh trăng điểm tô cửa sổ phòng em
Giấc mộng ai kia lại được em tô điểm

4/ Bạch Đầu Ngân (Trác Văn Quân)

白头吟
皑如山上雪,
皎若云间月。
闻君有两意,
故来相决绝。
今日斗酒会,
明旦沟水头。
躞蹀御沟上,
沟水东西流。

Dịch nghĩa:

Trắng như tuyết trên núi,
Sáng như trăng ở trong mây.
Nghe lòng chàng có hai ý,
Nên thiếp quyết cắt đứt.
Ngày hôm nay nâng chén sum vầy,
Sớm mai đã đưa tiễn nhau ở bên sông.
Đi lững thững trên dòng nước,
Nước cứ chảy xuôi mãi từ đông về tây (mà không quay về).

Dịch thơ:

Trắng như tuyết trên núi,
Sáng tựa trăng giữa mây.
Nghe lòng chàng hai ý,
Thiếp đành đoạn tình này.
Hôm nay chén sum họp,
Đầu sông tiễn sớm mai.
Lững thững theo dòng nước,
Nước mãi chảy đông tây.

5/ Thu Phong Từ (Lý Bạch)

Tác phẩm

秋风词
秋风清,
秋月明。
落叶聚还散,
寒鸦栖复惊。
相思相见知何日,
此时此夜难为情

Dịch nghĩa:

Gió thu thanh,
Trăng thu sáng.
Lá rụng lúc tụ lúc tán,
Quạ lạnh đang đậu bỗng rùng mình.
Nhớ nhau không biết ngày nào gặp?
Lúc ấy đêm ấy chan chứa tình.

Dịch thơ:

Gió thu lành
Trăng thu thanh
Lá rơi tụ lại tán
Quạ lạnh chợt rùng mình
Thương nhớ, biết bao giờ mới gặp ?
Lúc này đêm ấy ngẩn ngơ tình…

Thơ Trung Quốc về cuộc sống

Những câu thơ Trung Quốc hay về cuộc sống mô tả hoạt động của con người hằng ngày. Một số là hình ảnh lao động, vui chơi hoặc đơn giản là cảm nhận trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ.

1/ Bến đò (Tịch Mộ Dung)

渡口
让我与你握别
再轻轻抽出我的手
知道思念从此生根
浮云白日 山川庄严温柔

让我与你握别
再轻轻抽出我的手
华年从此停顿
热泪在心中汇成河流

是那样万般无奈的凝视
渡口旁找不到一朵可以相送的花
就把祝福别在襟上吧
而明日
明日又隔天涯

Dịch thơ:

Này anh yêu, cho phép em nói lời tạm biệt
Chia tay nhé
Suy tư đà bén rễ
Sông núi hiền hoà mà uy nghiêm

Này anh yêu, cho phép em nói lời tạm biệt
Chia tay nhé
Dẫu biết quyết vầy khác nào chấm dứt tuổi xuân
Sông kia sâu đâu bằng tim em trào lệ

Hết sức
Em chẳng tìm nổi bông hoa trao anh qua đò
Thay lời chúc phúc
Rồi ngày mai rồi ngày mai
Than ôi! Hai đứa ở hai phương trời.

2/ Bình Minh (mạc phi)

黎明
雪, 焐熱了村落
那聽得見風聲的窗子

是貼心的耳朵, 黎明
是叮噹響的鐵匠鋪

順手的工具
順手大造出來

積雪把所有的閒暇
平分給每一個人

天空, 這沒用的口袋
裝滿了夢想和食糧

在死者丈量過地方
要走的路不論是遠是近

Dịch nghĩa
Tuyết, sưởi ấm làng mạc
Cánh cửa sổ đã nghe thấy tiếng gió

Là cái tai tri kỷ, bình minh
Là lò rèn vang lên tiếng tinh tang

Những công cụ thuận tay
Thuận tay chế tạo ra

Tuyết đọng mang tất cả những nhàn rỗi
Chia đều cho mỗi con người

Bầu trời, cái túi không dùng ấy
Xếp đầy khát vọng và lương thực

Nơi những người chết đã đo đạc qua
Con đường phải đi dù xa hay gần

3/ Bóng núi (Cố Thành)

山影
山影里,
现出远古的武士,
挽着骏马,
路在周围消失。

他变成了浮雕,
变成纷纭的故事,
今天像恶魔,
明天又是天使。

Dịch thơ:

Trong bóng núi
Hiện ra một tráng sĩ cổ xưa
Dắt con tuấn mã
Đường xung quanh mịt mờ

Chàng biến thành phù điêu
Thành câu chuyện mâu thuẫn
Hôm nay như ác quỷ
Ngày mai lại là thiên thần

4/ Cấy lúa

插新秧
春水田, 插新秧
拉緊喉嚨顫聲唱
你一句來我一句
看誰歌聲最飛揚!

橫一行, 竪一行
一行一個新希望
春天栽顆苗兒青
秋天收捆稻兒黃

三月水, 好清涼
泥塊踩得腳心癢
孩子站在田埂上
籃裏裝的去年糧

去年糧, 最心偒
一半拿去做公糧
一半拿給李太爺
自已空空忙異常!

春水田, 插新秧
插好新秧意彷徨
擡起頭來望一望
幾時還出好太陽?!

Dịch thơ:

Mạ non cấy vụ lúa xuân
Cất cao tiếng hát trong ngần vang xa
Anh ca rồi đến tôi ca
Để xem ai hát vang xa nhất làng

Hàng dọc rồi lại hàng ngang
Bao niềm vui mới gửi hàng mạ non
Mùa xuân cấy mạ xanh rờn
Thu về ta gặt lúa vàng trĩu bông

Tháng ba đồng nước mát trong
Đất bùn giẫm nát trong lòng bàn chân
Trẻ em trên cánh đồng xuân
Mang làn cơm của khẩu phần năm qua

Thương thay lúa gạo mùa qua
Nửa đem đóng góp gọi là xung công
Nửa thì cụ Lý cướp không
Còn ta vất vả chẳng mong có phần!

Mạ non cấy vụ lúa xuân
Cấy xong mà vẫn phân vân bàng hoàng
Ngẩng lên nhìn khắp xóm làng
Bao giờ nắng mới ngập tràn khắp nơi?

5/ Cửa sông Hoàng Phố (Quách Mạt Nhược)

黄浦江口
平和之乡哟!
我的父母之邦!
岸草那么青翠!
流水这般嫩黄!

我倚着船围远望,
平坦的大地如像海洋,
除了一┣啻涞牧?
全没有山崖阻障。

小舟在波上簸扬,
人们如在梦中一样。
平和之乡哟!
我的父母之邦!

Dịch nghĩa:

Ôi quê hương hoà bình
Xứ sở mẹ cha tôi
Cỏ bờ xanh ngọc biếc
Sông vàng như chồi tươi

Dựa mạn thuyền trông xa
Đất bằng như biển cả
Trừ sóng liễu biếc ra
Không núi đồi ngăn trở

Thuyền chập chờn trên sóng
Người như trong cõi mộng
Ôi quê hương hoà bình
Xứ sở mẹ cha tôi

6/ Bạch lộ tư (Lý Bạch)

白鷺鷥
白鷺下秋水,
孤飛如墜霜。
心閑且未去,
獨立沙洲旁。

 

Bạch lộ tư
Bạch lộ há thu thuỷ,
Cô phi như truỵ sương.
Tâm nhàn thả vị khứ,
Độc lập sa châu bàng.

Dịch nghĩa
Con cò trắng đáp xuống làn nước mùa thu,
Bay một mình như cụm sương rơi.
Với dáng điệu an nhàn nó chưa đi đâu cả,
Nó đứng một mình trên bãi cát bìa cù lao.

Thơ Trung Quốc về mỹ nhân

Để mô tả người con gái đẹp, các thi nhân đã sử dụng những ngôn từ mỹ miều nhất. Dù thơ ca xưa hay hiện đại, vẻ đẹp của phụ nữ vẫn là đề tải làm cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhà văn.

1/ Tây Thi (Lý Bạch)

西施
西施越溪女,
出自苧蘿山。
秀色掩今古,
荷花羞玉顏。
浣紗弄碧水,
自與清波閑。
皓齒信難開,
沉吟碧雲間。
勾踐征絕豔,
揚蛾入吳關。
提攜館娃宮,
杳渺詎可攀。
一破夫差國,
千秋竟不還。

Tây Thi
Tây Thi Việt khê nữ,
Xuất tự Trữ La san.
Tú sắc yểm kim cổ,
Hà hoa tu ngọc nhan.
Hoán sa lộng bích thuỷ,
Tự dữ thanh ba nhàn.
Hạo xỉ tín nan khai,
Trầm ngâm bích vân gian.
Câu Tiễn chinh tuyệt diễm,
Dương nga nhập Ngô quan.
Đề huề Quán Oa cung,
Yểu niểu cự khả phàn.
Nhất phá Phù Sai quốc,
Thiên thu cánh bất hoàn.

2/ Đề Mỹ Nhân (Biên Cống)

題美人
月宮秋冷桂團團,
歲歲花開只自攀。
共在人間說天上,
不知天上憶人間。

Đề mỹ nhân
Nguyệt cung thu lãnh quế đoàn đoàn,
Tuế tuế hoa khai chỉ tự phan.
Cộng tại nhân gian thuyết thiên thượng,
Bất tri thiên thượng ức nhân gian.

Dịch nghĩa
Ở giữa cây quế, thu lạnh trên cung trăng
Hằng năm hoa nở chỉ tự vin
Khi cùng ở nhân gian luôn nhắc đến trên trời
Biết đâu khi ở trên trời lại nhớ nhân gian

3/ Mỹ Nhân Đối Nguyệt (Đường Dần)

美人對月
斜髻嬌娥夜臥遲,
梨花風靜鳥栖枝。
難將心事和人說,
說與青天明月知。

Mỹ nhân đối nguyệt
Tà kết kiều nga dạ ngoạ trì,
Lê hoa phong tĩnh điểu thê chi.
Nan tương tâm sự hoà nhân thuyết,
Thuyết dữ thanh thiên minh nguyệt tri.

Dịch nghĩa
Người con gái đẹp, búi tóc xiên lệch, đêm ngần ngại chưa nằm xuống,
Gió lặng, chim đậu lên cành hoa lê.
Tâm sự trong lòng khó đem nói cùng người,
Đành nói với trăng sáng trên trời.

4/ Mỹ nữ thiên (Thào thực)

美女篇
美女妖且閑,
采桑歧路間。
柔條紛冉冉,
落葉何翩翩。
攘袖見素手,
皓腕約金環。
頭上金爵釵,
腰佩翠瑯玕。
明珠交玉體,
珊瑚間木難。
羅衣何飄搖,
輕裾隨風還。
顧盼遺光彩,
長嘯氣若蘭。
行徒用息駕,
休者以忘餐。
借問女安居,
乃在城南端。
青樓臨大路,
高門結重關。
容華耀朝日,
誰不希令顏。
媒氏何所營,
玉帛不時安。
佳人慕高義,
求賢良獨難。
眾人徒嗷嗷,
安知彼所觀。
盛年處房室,
中夜起長嘆。

Mỹ nữ thiên
Mỹ nữ yêu thả nhàn,
Thái tang kỳ lộ gian.
Nhu điều phân nhiễm nhiễm,
Lạc diệp hà phiên phiên.
Nhương tụ kiến tố thủ,
Hạo oản ước kim hoàn.
Đầu thượng kim tước thoa,
Yêu bội thuý lang can.
Minh châu giao ngọc thể,
San hô gian mộc nan.
La y hà phiêu diêu,
Khinh cứ tuỳ phong hoàn.
Cố phán di quang thái,
Trường khiếu khí nhược lan.
Hành đồ dụng tức giá,
Hưu giả dĩ vong xan.
Tá vấn nữ an cư,
Nãi tại thành nam đoan.
Thanh lâu lâm đại lộ,
Cao môn kết trùng quan.
Dung hoa diệu triêu nhật,
Thuỳ bất hy lệnh nhan.
Môi thị hà sở dinh,
Ngọc bạch bất thì an.
Giai nhân mộ cao nghĩa,
Cầu hiền lương độc nan.
Chúng nhân đồ ngao ngao,
An tri bỉ sở quan.
Thịnh niên xử phòng thất,
Trung dạ khởi trường thán.

thơ về mỹ nhân trung quốc
Nguồn cảm hứng bất tận của các thi nhân

Thơ thất tình Trung Quốc

Các bài thơ Trung Quốc buồn thường bởi biệt ly, chia tay. Mỗi câu thơ nói lên tâm trạng của tác giả.

1/ Tương tư khúc (Đới Thúc Luân)

作者:戴叔伦 – 唐。

高楼重重闭明月,
肠断仙郎隔年别。
紫萧横笛寂无声,
独向瑶窗坐愁绝。
鱼沉雁杳天涯路,
始信人间别离苦。
恨满牙床翡翠衾,
怨折金钗凤凰股。
井深辘轳嗟绠短,
衣带相思日应缓。
将刀斫水水复连,
挥刃割情情不断。
落红乱逐东流水,
一点芳心为君死。
妾身愿作巫山云,
飞入仙郎梦魂里。

Dịch nghĩa

Lầu cao lớp lớp che trăng sáng,
Đau lòng vì suốt năm xa cách chàng.
Tiêu im sáo lặng không nghe tiếng,
Một mình ngồi buồn nhìn ra song cửa ngọc.
Cá lặn chim bay chân trời góc biển,
Biệt ly không được tin thư thật khổ.
Oán đầy giường ngà chăn phí thuý,
Giận bẻ gãy kim thoa phượng hoàng.
Giếng sâu ròng rọc than giây ngắn,
Ngày trôi chậm, xiêm y cũng nặng tương tư.
Dùng dao chém nước nước liền trở lại,
Cầm kéo cắt tình tình không chịu đứt.
Hồng rụng tơi bời theo dòng nước chảy về đông,
Một tấm tình son vì người mà tàn lụi.
Thiếp nguyện làm mây núi Vu (Sơn),
Bay nhập vào giấc mộng trong hồn chàng.

Dịch thơ

Mảnh trăng thanh lầu cao che khuất
Lòng đau vì xa cách nhiều năm
Tiếng tiêu điệu sáo lặng im
Một mình buồn bã ngóng nhìn phương xa
Bên chân trời chim bay cá lặn
Mòn mõi vì âm tín không về
Chiếu chăn hờn oán não nề
Kim thoa bẻ gãy lời thề còn đâu
Giếng nước sâu mà giây thì ngắn
Xiêm y buồn người chẳng điểm trang
Dùng dao chém nước nước liền
Kéo kia cắt đứt mối tình được không?
Theo dòng nước loạn hồng trôi mãi
Tấm tình em một phiến vì chàng
Xin làm mây núi Vu Sơn
Nhập sâu vào cõi mộng hồn người thương.

2/ Tương tư oán (Lý Quý Lan)

相思怨
人道海水深,
不抵相思半。
海水尚有涯,
相思渺無畔。
攜琴上高樓,
樓虛月華滿。
彈著相思曲,
弦腸一時斷。

Tương tư oán
Nhân đạo hải thuỷ thâm,
Bất để tương tư bán.
Hải thuỷ thượng hữu nhai,
Tương tư diểu vô bạn.
Huề cầm thượng cao lâu,
Lâu hư nguyệt hoa mãn.
Đàn trước tương tư khúc,
Huyền trường nhất thì đoạn.

Dịch nghĩa
Người nói rằng nước bể sâu,
Nhưng không bằng phân nửa mối tương tư.
Nước bể vẫn có bờ,
Nỗi nhớ thương chẳng bờ bến.
Ôm đàn lên lầu cao,
Lầu vắng chỉ có hoa và trăng tràn ngập.
Khúc tương tư vừa dạo lên,
Trong lòng bỗng như có sợi dây đứt.

3/ Biệt ly (Lục Quy Mông)

別離
丈夫非無淚,
不洒離別間。
杖劍對尊酒,
恥為遊子顏。
蝮蛇一螫手,
壯士即解腕。
所志在功名,
離別何足嘆。

Biệt ly
Trượng phu phi vô lệ,
Bất sái ly biệt gian.
Trượng kiếm đối tôn tửu,
Sỉ vi du tử nhan.
Phúc xà nhất thích thủ,
Tráng sĩ tức giải oản.
Sở chí tại công danh,
Ly biệt hà túc thán.

Dịch nghĩa
Người hùng không phải không có nước mắt,
Nhưng không rơi lúc ly biệt.
Kiếm trong tay, nâng chén tiễn biệt,
Rất xấu hổ với vẻ rầu rĩ của người đi tầm thường.
Một khi bị rắn độc cắn vào tay,
Tráng sĩ chặt cụt tay tức thì.
Với chí can trường như vậy đi lập công danh,
Chuyện ly biệt có đáng chi để than vãn.

4/ Giá cô thiên – Biệt tình

鷓鴣天-別情
玉慘花愁出鳳城,
蓮花樓下柳青青。
樽前一唱陽關曲,
別箇人人第五程。

尋好夢,
夢難成。
有誰知我此時情。
枕前淚共階前雨,
隔個窗兒滴到明。

Giá cô thiên – Biệt tình
Ngọc thảm hoa sầu xuất phụng thành,
Liên hoa lâu hạ liễu thanh thanh.
Tôn tiền nhất xướng “Dương Quan khúc”,
Biệt cá nhân nhân đệ ngũ trình.

Tầm hảo mộng,
Mộng nan thành.
Hữu thuỳ tri ngã thử thời tình.
Chẩm tiền lệ cộng giai tiền vũ,
Cách cá song nhi chích đáo minh.

5/ Cổ ly biệt

晴煙漠漠柳毿毿,
不那離情酒半酣。
更把玉鞭雲外指,
斷腸春色在江南。

Cổ ly biệt
Tình yên mạc mạc liễu tam tam,
Bất nả ly tình tửu bán hàm.
Cánh bả ngọc tiên vân ngoại chỉ,
Đoạn trường xuân sắc tại Giang Nam.

Dịch thơ:

Liễu rũ lơ thơ khói tạnh rơi,
Chưa say còn đắng rượu chia phôi.
Đầu roi lại chỉ đường mây thẳm,
Xuân sắc Giang Nam đứt ruột người.

Trong thơ ca Việt Nam cũng có nhiều bài thơ buồn cảm xúc, lắng đọng. Bạn có thể theo dõi để cảm nhận và đánh giá sự khác biệt của các tác giả giữa 2 nền văn hóa.

Thơ Trung Quốc về tình yêu đơn phương

Thơ Trung Quốc về tình yêu buồn mang niềm thương tiếc cho mối tình không trọn vẹn.

1/ Không đề (Chưa rõ)

请原谅我爱上你
原谅我用全部的身心爱你
原谅我永不愿与你分离。

Dịch nghĩa:

Thứ lỗi cho anh vì đã yêu em
Thứ lỗi cho anh vì dùng cả trái tim yêu em
Thứ lỗi cho anh vì không thể rời xa em.

2/ Ngọc Lâu Xuân – Xuân Hận (Án Thù)

绿杨芳草长亭路,
年少抛人容易去。
楼头残梦五更钟,
花底离愁三月雨。

无情不似多情苦,
一寸还成千万缕。
天涯地角有穷时,
只有相思无尽处。

Dịch thơ: Ngọc Lâu Xuân – Xuân Hận
Tác giả: Nguyễn Đương Tịnh

Liễu xanh cỏ ngát hương ngoài lộ,
Tuổi trẻ ra đi đâu có khó.
Trên lầu trằn trọc suốt năm canh,
Ly biệt tháng ba hoa ướt rũ.

Vô tình nào khổ tựa đa tình,
Một tấc tơ lòng muôn vạn mớ.
Chân trời mặt đất còn chia ngăn,
Chỉ có nhớ nhau không hạn chỗ.

3/ Hồng đậu từ (Tào Tuyến Cần)

紅豆詞
滴不盡相思血淚拋紅豆,
開不完春柳春花滿畫樓;
睡不穩紗窗風雨黃昏后,
忘不了新愁與舊愁。
咽不下玉粒金波噎滿喉,
照不盡菱花鏡里形容瘦。
展不開的眉頭,
捱不明的更漏--
呀!
恰便似遮不住的青山隱隱,
流不斷的綠水悠悠。

Hồng đậu từ
Trích bất tận, tương tư huyết lệ phao hồng đậu,
Khai bất hoàn, xuân liễu xuân hoa mãn hoạch lâu.
Thuỵ bất ổn, sa song phong vũ hoàng hôn hậu,
Vong bất liễu, tân sầu dữ cựu sầu.
Yến bất há, ngọc lạp kim ba ế mãn hầu,
Chiếu bất tận, lăng hoa kính lý hình dung sấu.
Triển bất khai đích my đầu,
Nhai bất minh đích canh lậu.
Nha!
Kháp tiện tự: già bất trú đích thanh sơn ẩn ẩn,
Lưu bất đoạn đích lục thuỷ du du.

Dịch nghĩa
Nhỏ không dứt, dòng huyết lệ tương tư rơi xuống như những hạt đậu đỏ
Nở không trọn, liễu xuân, hoa xuân khắp chốn lầu son
Ngủ không yên, mưa gió bên ngoài màn song sau buổi hoàng hôn
Quên chẳng được, sầu mới lẫn sầu cũ
Nuốt chẳng trôi, những gạo ngọc miệng vàng nghẹn đầy cổ họng (ko nuốt được)
Soi chẳng hết, hình dung gầy võ trong gương hoa ấu
Đầu mày giương chẳng mở
Canh khuya cứ lần lữa không sáng
A!
Vừa đúng như: non xanh thấp thoáng không ngăn lại được
Nước biếc mênh mang trôi đi không ngừng

Những câu thơ về tình yêu chia ly mang nét đẹp của nhiều cung bậc cảm xúc. Nếu đang trong tâm trạng tương đồng, bạn có thể theo dõi để cảm nhận.

Thơ Trung Quốc hiện đại

Thơ hiện đại có cách dùng từ khác biệt so với thơ cổ. Thể thơ cũng thường ở dạng 5 chữ, 6 chữ thay vì các thể đường luật hoặc thất ngôn bát cú.

1/ Ấn tượng về Thượng Hải (Quách Mạt Nhược)

上海印象
我从梦中惊醒了!
的悲哀哟!

游闲的尸,
淫嚣的肉,
长的男袍,
短的女袖,
满目都是骷髅,
满街都是灵柩,
乱闯,
乱走。
我的眼儿泪流,
我的心儿作呕。

我从梦中惊醒了。
的悲哀哟!

Dịch thơ:

Tự trong mơ, ta sực tỉnh rồi!
Nỗi đau buồn Vỡ mộng, ôi!

Những xác lang thang
Những thịt tà dâm
Những áo dài nam
Những áo cộc nữ
Nhìn đâu cũng thấy xương khô
Đầy phố đều là linh cữu
Xông bừa
Chạy ẩu
Mắt ta lệ sa
Lòng ta lợm mửa

Tự trong mơ, ta sực tỉnh rồi!
Nỗi đau buồn Vỡ mộng, ôi!

2/ Bài hát ra ải (Tịch Mộ Dung)

出塞曲
请为我唱一首出塞曲
用那遗忘了的古老言语
请用美丽的颤音轻轻呼唤

我心中的大好河山
那只有长城外才有的景象

谁说出塞曲的调子太悲凉
如果你不爱听
那是因为
歌中没有你的渴望

而我们总是要一唱再唱
像那草原千里闪着金光
像那风沙呼啸过大漠
像那黄河岸,阴山旁
英雄骑马壮
骑马荣归故乡

Dịch thơ:

Làm ơn hát tớ nghe ca khúc
Chứa những từ cũ bị lãng quên
Nhẹ trỗi giọng với âm rung đẹp

Trong tim tớ, những ngọn núi cao và những dòng sông lớn
Chỉ có bên ngoài Vạn Lí Trường Thành

Quá buồn thảm khúc ca ra biên ải
Bạn chẳng muốn nghe
Bởi vì
Nhạc phẩm chẳng thể hiện mong muốn gì cho bạn

Còn chúng ta luôn luôn phải hát
Như thảo nguyên ngàn dặm ánh vàng
Như gió cát thổi qua sa mạc
Như núi Âm bên bến sông Hoàng
Mạnh mẽ anh hùng phi ngựa chiến
Về nhà vang khí thế khải hoàn.

3/ Nữ nhi tình (Dương Khiết)

女兒情
鴛鴦雙栖蝶雙飛,
滿園春色惹人醉。
悄悄問聖僧,
女兒美不美,
女兒美不美。
說什麼王權富貴,
怕什麼戒律清規。
只願天長地久,
與我意中人兒緊相隨。
愛戀伊,愛戀伊,
願今生常相隨。

Nữ nhi tình
Uyên ương song tê điệp song phi,
Mãn viên xuân sắc nhạ nhân tuý.
Tiễu tiễu vấn thánh tăng,
Nữ nhi mỹ bất mỹ?
Nữ nhi mỹ bất mỹ?
Thuyết thập ma vương quyền phú quý,
Phạ thập ma giới luật thanh quy.
Chỉ nguyện thiên trường địa cửu,
Dữ ngã ý trung nhân nhi khẩn tương tuỳ.
Ái luyến y, ái luyến y,
Nguyện kim sinh thường tương tuỳ.

Dịch nghĩa
Đôi uyên ương cùng đậu, đôi bướm cùng bay
Khắp vườn, xuân sắc khiến người say đắm
Lén lút hỏi thánh tăng:
Nữ nhi có đẹp hay không?
Nữ nhi có đẹp hay không?
Kể làm gì vương quyền phú quý
Ngại làm chi giới luật thanh quy
Chỉ muốn trời đất lâu dài
Được cùng với người trong lòng ta mãi bên nhau
Yêu thương chàng, yêu thương chàng
Muốn kiếp này luôn được ở bên nhau.

4/ Thiếu niên ưu hoạn (Quách Mạt Nhược)

少年憂患
少年憂患深滄海,
血浪排胸淚欲流。
萬事請從隗始耳,
神州是我我神州。

Thiếu niên ưu hoạn
Thiếu niên ưu hoạn thâm thương hải,
Huyết lãng bài hung lệ dục lưu.
Vạn sự thỉnh tùng ngôi thuỷ nhĩ,
Thần châu thị ngã ngã thần châu.

5/ Vịnh oa (Mao Trạch Đông)

詠蛙
獨坐池塘如虎踞,
綠蔭樹下養精神。
春來我不先開口,
哪個蟲兒敢作聲?

Vịnh oa
Độc toạ trì đường như hổ cứ,
Lục ấm thụ hạ dưỡng tinh thần.
Xuân lai ngã bất tiên khai khẩu,
Na cá trùng nhi cảm tác thanh?

Thơ tiếng Trung ngắn

Các bài thơ ngắn nhưng vẫn mô tả đủ tâm trạng của tác giả. Những tác phẩm này lấy được sự đồng cảm từ rất nhiều bạn đọc.

1/ Hoa phi hoa (Bạch Cư Dị)

花非花
花非花,
霧非霧。
夜半來,
天明去。
來如春夢幾多時,
去似朝雲無覓處。

Hoa phi hoa
Hoa phi hoa,
Vụ phi vụ.
Dạ bán lai,
Thiên minh khứ.
Lai như xuân mộng kỷ đa thời,
Khứ tự triêu vân vô mịch xứ!

Dịch nghĩa
Rằng hoa, thì không phải là hoa,
Rằng mây, thì không phải là mây.
Nửa đêm tới,
Sáng hôm sau lại đi mất.
Khi đến thì như giấc mộng xuân không được bao lâu,
Khi đi thì như mây trời không biết đâu mà tìm lại được.

2/ Che chung ô (Dư Quang Trung)

傘盟
如果夜是一場青雨淋淋
幸而我還有一盞台燈
一把精緻的小雨傘
撐開一圈柔和的氣氛
而無論用什幺做成
用緋色的氛圍或橙色的光暈
愿你與我做共傘的人
伴我涉過濕冷的雨地
如果夜是青雨淋淋
如果死亡是黑雨凄凄
如果我站在雨地里
等你撐傘來迎接,等你

Dịch thơ:

Nếu đêm là một cơn mưa dầm dề
Rất may tô còn một cây đèn bão
Một chiếc ô con đẹp và tinh xảo
Toả ra ánh sáng ấm vàng để đi

Nếu chết là cơn mưa đen lạnh lẽo
Rất may tôi còn có một tình yêu
Một chiếc ô nhỏ con và cũ kỹ
Toả ra luồng khí hồng dịu đáng yêu

Dù cho mưa gió bằng gì tạo nên
Bọc bằng màu hồng hoặc ánh sáng cam
Ta che chung ô – Điều tôi mong muốn
Qua miền mưa gió ướt lạnh triền miên

Nếu đêm là một cơn mưa dầm dề
Và chết là cơn mưa đen lạnh lẽo
Nếu tôi đứng nơi đang mưa xối xả
Đợi anh giương ô đi đến, tôi đợi anh!

3/ Cổ biệt ly

下階欲離別,
相對映蘭叢。
含辭未及吐,
淚落蘭叢中。
高堂靜秋日,
羅衣飄暮風。
誰能待明月?
回首見床空。

Cổ biệt ly
Hạ giai dục ly biệt,
Tương đối ánh lan tùng.
Hàm từ vị cập thổ,
Lệ lạc lan tùng trung.
Cao đường tĩnh thu nhật,
La y phiêu mộ phong.
Thuỳ năng đãi minh nguyệt?
Hồi thủ kiến sàng không.

4/ Chôn ở trong lòng (Tang Hằng Xương)

心葬
女儿出生的那一夜
是我一生中最长的一夜
母亲谢世的那一夜
是我一生中最短的一夜
母亲就这样
匆匆匆匆地去了

将母亲土葬
土太龌龊
将母亲火葬
火太无情
将母亲水葬,
水太漂泊
只有将母亲心葬了
肋骨是墓地坚固的栅栏

Dịch thơ:

Đêm con gái tôi sinh ra
Là đêm dài nhất đời tôi
Đêm mẹ tôi từ trần
Là đêm ngắn nhất
Mẹ đã ra đi
Quá vội vàng

Chôn mẹ
Đất không sạch
Thiêu mẹ
Lửa vô tình
Thuỷ táng mẹ
Nước trôi xuôi
Chỉ có để mẹ ở trong lòng
Cho xương sườn con chở che, gìn giữ.

5/ Chuyện thần kỳ trong núi (Dư Quang Trung)

山中傳奇
落日說黑蟠蟠的松樹林背後
那一截斷霞是他的簽名
從焰紅到燼紫
有效期間是黃昏
幾隻歸鳥
追過去探個究竟
卻陷在暮色,不,夜色裡
一隻,也不見回來
--這故事
山中的秋日最流行

Dịch thơ:

Mặt trời lặn
Kể chuyện về khu rừng thông cuộn tròn đen sẫm sau lưng
Chữ ký của nó là nơi vạch đứt ráng mây chiều
Từ ngọn lửa hồng đến tàn tro tím
Thời gian rõ nhất là lúc hoàng hôn
Mấy cánh chim
Bay về thăm dò nguồn cội
Nhưng lại chìm trong sắc trời chiều, không, sắc trời đêm
Không thấy một con nào bay trở lại!
Câu chuyện này
Được kể nhiều vào những ngày thu trong núi

Thơ tình trung quốc chữ Hán

Thơ chữ Hán với nhiều thể loại đã được tổng hợp. Đó có thể là câu chuyện về tình yêu đôi lứa nhưng cũng có thể là câu chuyện vụn vặn trong cuộc sống thường ngày. Nhiều bạn đã thả thính bằng thơ bằng những dòng thơ đầy cảm xúc này.

1/ Trường tương tư (Vương Thế Trinh)

長相思
長相思,
望難期,
美人如花隔深閨。
輕霜剪澁凝臙脂,
靑黄碧緑諸色絲,
織成鴛鴦心自悲。
兩心為一心,
明月照秋水。
一心成兩心,
各懸三千里。
昔為比翼鳥,
翼折不能飛。
今為雙星界河漢,
年年夜夜盼光輝。

Trường tương tư

Trường tương tư,
Vọng nan kỳ,
Mỹ nhân như hoa cách thâm khuê.
Khinh sương tiễn sáp ngưng yên chi,
Thanh hoàng bích lục chư sắc ti,
Chức thành uyên ương tâm tự bi.
Lưỡng tâm vi nhất tâm,
Minh nguyệt chiếu thu thuỷ.
Nhất tâm thành lưỡng tâm,
Các huyền tam thiên lý.
Tích vi tỉ dực điểu,
Dực chiết bất năng phi.
Kim vi song tinh giới Hà Hán,
Niên niên dạ dạ phán quang huy.

Xem thêm: Tổng hợp những câu thơ ngôn tình Trung Quốc hay nhất

2/ Biệt ly (Quách Mạt Nhược)

别离
残月黄金梳,
我欲掇之赠彼姝,
彼姝不可见,
桥下流水声如泫。

晓日月桂冠,
掇之欲上青天难。
青天犹可上,
生离令我情惆怅。

Dịch thơ:

Trăng liềm như chiếc lược vàng
Ta toan ngắt xuống tặng nàng xinh tươi
Người xinh chẳng thấy được người
Dưới cầu, suối chảy như lời khóc than

Mặt trời trông như vành nguyệt quế
Muốn lấy về, há dễ lên trời
Dẫu cho lên được đến nơi
Vắng nàng, ta những bồi hồi nhớ thương.

thơ tình trung quốc chữ hán
Những câu thơ chạm đến điểm yếu nhất trong tâm hồn

Thơ Trung Quốc về trăng

Trăng là biểu tượng bất diệt trong thơ ca Việt Nam và cả Trung Quốc. Rất nhiều tác giả lấy nguồn cảm hứng từ trăng, đưa vào trong những câu thơ của mình.

1/ Minh nguyệt dạ lưu biệt (Lý Quý Lan)

明月夜留別
離人無語月無聲,
明月有光人有情。
別後相思人似月,
雲間水上到層城。

Minh nguyệt dạ lưu biệt
Ly nhân vô ngữ nguyệt vô thanh,
Minh nguyệt hữu quang nhân hữu tình.
Biệt hậu tương tư nhân tự nguyệt,
Vân gian thuỷ thướng đáo Tằng Thành.

Dịch nghĩa
Người ta sắp xa không nói gì, mặt trăng cũng im lặng,
Trăng có ánh sáng, người có tâm tình.
Sau khi xa rồi, có nhớ nhau, ta sẽ xem trăng là người,
Từ trong đám mây hay trên dòng sông, trăng sẽ đến Tằng Thành.

2/ Minh Nguyệt Lâu (Dương Hán Công)

吳興城闕水雲中,
畫舫青簾處處通。
溪上玉樓樓上月,
清光合作水晶宮。

Minh Nguyệt lâu
Ngô Hưng thành khuyết thuỷ vân trung,
Hoạ phảng thanh liêm xứ xứ thông.
Khê thượng ngọc lâu lâu thượng nguyệt,
Thanh quang hợp tác thuỷ tinh cung.

Dịch nghĩa
Hành cung ở Ngô Hưng ở giữa bầu mây nước,
Du thuyền lớn sang trọng có màn cửa xanh lui tới thông thương.
Lầu cất bên bờ suối có ánh trăng soi,
Trăng sáng, suối trong cùng tạo vẻ đẹp của cung như thuỷ tinh.

3/ Bả tửu vấn nguyệt (Lý Bạch)

把酒問月
青天有月來幾時,
我今停杯一問之。
人攀明月不可得,
月行卻與人相隨。
皎如飛鏡臨丹闕,
綠煙滅盡清輝發。
但見宵從海上來,
寧知曉向雲間沒。
白兔搗藥秋復春,
嫦娥孤棲與誰鄰。
今人不見古時月,
今月曾經照古人。
古人今人若流水,
共看明月皆如此。
唯願當歌對酒時,
月光常照金樽裡。

Bả tửu vấn nguyệt
Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.

Dịch nghĩa
Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi?
Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!
Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng,
Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.
Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son,
Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.
Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới,
Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.
Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân,
Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?
Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa.
Trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như giòng nước chảy,
Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,
Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.

4/ Bái tân nguyệt (Lý Đoan)

拜新月
開簾見新月,
即便下階拜。
細語人不聞,
北風吹裙帶。

Bái tân nguyệt
Khai liêm kiến tân nguyệt,
Tức tiện há giai bái.
Tế ngữ nhân bất văn,
Bắc phong xuy quần đái.

Dịch nghĩa
Mở rèm thấy trăng vừa mới nhú
Liền bước xuống thềm vái trăng
Lầm rầm khấn không ai nghe thấy
Gió bấc thổi dải quần bay lên

5/ Bát nguyệt (Chương Hiếu Tiêu)

徒倚仙居繞翠樓,
分明宮漏靜兼秋。
長安夜夜家家月,
幾處笙歌幾處愁。

Bát nguyệt
Đồ ỷ tiên cư nhiễu thuý lâu,
Phân minh cung lậu tĩnh kiêm thâu.
Trường An dạ dạ gia gia nguyệt,
Kỷ xứ sanh ca, kỷ xứ sầu.

Dịch nghĩa
Trăng cứ dùng dằng chiếu quanh lầu xanh ở khu nhà giàu,
Đồng hồ rõ ràng giỏ giọt trong không gian tĩnh mịch mùa thu.
Hàng đêm trăng chiếu trên mọi nhà ở Trường An,
Vài nơi giàu có đàn ca, vài nơi nghèo buồn bã.

thơ trung quốc về mặt trăng
Ánh trăng chứa đựng những câu chuyện riêng của các tác giả

Thơ Trung Quốc về tình bạn

Những câu thơ về tình bạn thể hiện sự trân trọng của tác giả với bằng hữu của mình. Dù xưa hay nay, tri kỷ vẫn là điểm tựa quý giá của mỗi người.

1/ Bè bạn

Trên hành lang đi như tập bước
Gặp mặt nhau khe khẽ gật đầu
Ngay tên tuổi cũng không hỏi biết
Mà hai bên đã bạn bè nhau

2/ Bảy mươi tự nói

七十自喻
再長的江河終必要入海
河口那片三角洲
還要奔波多久才抵達?
只知道早就出了峽
回望一道首橫斷山脈
關之不斷,阻之不絕
到此平緩已經是下游
多少支流一路來投奔
沙泥與歲月都已沉澱
寧靜的深夜,你聽
河口隱隱傳來海嘯
而河源雪水初融
正滴成清細的涓涓
再長的江河終必要入海
河水不回道,而河長在

Dịch nghĩa

Sống lâu rồi cũng hoà vào biển cả
Nơi tam giác châu ấy vùng cửa sông
Còn phải bôn ba bao lâu mới tới
Chỉ biết rằng sắp đến biển mênh mông

Ngoảng nhìn lại từng mạch núi gãy ngang
Đất cát từng lắng đọng theo thời gian
Hãy lắng nghe khi đêm khuya yên tĩnh
Từ cửa sông biển gầm lên thét vang

Tuyeesat ở đầu nguồn bắt đầu tan chảy
Đang tạo thành những gợn sóng lăn tăn
Mọi dòng sông đều hoà vào biển lớn
Không quay đầu, trôi về cõi xa xăm!

3/ Đối tửu ức Hạ Giám kỳ 1 (Lý Bạch)

對酒憶賀監其一
四明有狂客,
風流賀季真。
長安一相見,
呼我謫仙人。
昔好杯中物,
翻為松下塵。
金龜換酒處,
卻憶淚沾巾。

Đối tửu ức Hạ Giám kỳ 1
Tứ Minh hữu cuồng khách,
Phong lưu Hạ Quý Chân.
Trường An nhất tương kiến,
Hô ngã trích tiên nhân.
Tích hảo bôi trung vật,
Phiên vi tùng hạ trần.
Kim Quy hoán tửu xứ,
Khước ức lệ triêm cân.

Thơ Trung Quốc về rượu

Các tác giả luôn có cách đặc biệt để viết các bài thơ về rượu. Nhiều bài thơ không cần nhắc tên, bạn đọc vẫn cảm nhận được cơn say thấm dần.

1/ Ngô vương mỹ nhân bán tuý (Lý Bạch)

吳王美人半醉
風動荷花水殿香,
姑蘇臺上宴吳王。
西施醉舞嬌無力,
笑倚東窗白玉床。

Ngô vương mỹ nhân bán tuý
Phong động hà hoa thuỷ điện hương,
Cô Tô đài thượng yến Ngô vương.
Tây Thi tuý vũ kiều vô lực,
Tiếu ỷ đông song bạch ngọc sàng.

Dịch nghĩa
Gió lay động sen hồ, hương thơm ngát
Đài Cô Tô, vua Ngô tiệc đang nồng
Múa trong say, tây Thi chừng mệt lả
Cười cựa mình vào giường ngọc bên song

2/ Ẩm tửu khán mẫu đơn (Lưu Vũ Tích)

饮 酒 看 牡 丹

今 日 花 前 饮
甘 心 醉 数 杯
但 愁 花 有 语
不 为 老 人 开

Dịch nghĩa:

Uống Rượu Ngắm Hoa Mẫu Đơn
Hôm nay uống rượu trước hoa
Lòng vui say mấy chén
Chỉ sợ hoa biết nói:
Không nở vì người già

3/ Ẩm tửu (Khương Đặc Lập)

飲酒
平生嗜酒不耽酒,
不愛深斟愛淺斟。
嵇阮詎能知此味,
可憐一世只醺沈。

Ẩm tửu
Bình sinh thị tửu bất đam tửu,
Bất ái thâm châm ái thiển châm.
Kê Nguyễn cự năng tri thử vị,
Khả liên nhất thế chỉ huân trầm.

4/ Đối tửu (Lý Bạch)

對酒
蒲萄酒,
金叵羅,
吳姬十五細馬馱。
青黛畫眉紅錦靴,
道字不正嬌唱歌。
玳瑁筵中懷裏醉,
芙蓉帳底奈君何。

Đối tửu
Bồ đào tửu,
Kim phả la,
Ngô cơ thập ngũ tế mã đà.
Thanh đại hoạ mi hồng cẩm ngoa,
Đạo tự bất chính kiều xướng ca.
Đại mội diên trung hoài lý tuý,
Phù dung trướng để nại quân hà.

thơ trung quốc về rượu
Những dòng thơ chỉ đọc cũng đủ làm say lòng người

Kết luận

Tổng hợp thơ Trung Quốc hay nhất đem đến cho bạn đọc nhiều cung bậc cảm xúc. Đây đều là những vần thơ được tuyển chọn rất kỹ, bạn có thể tham khảo và chia sẻ cho những người cùng sở thích.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *