Tuyển tập các tác phẩm thơ Tú Xương hay nhất

Thơ Tú Xương giản dị, đời thường với chủ đề chính là trào phúng xen lẫn trữ tình. Dù cuộc đời ông ngắn ngủi nhưng những tác phẩm mà Tú Xương để lại cho đời sẽ khiến bạn phải ngạc nhiễn về cả số lượng lẫn chất lượng. Ông là nhà thơ có môn phái riêng, đặc biệt nhất trong nền văn học Việt.

Tất tần tật các bài thơ Tú Xương

Tú Xương (1870 – 1907), tên thật là Trần Tế Xương, là một nhà thơ tiêu biểu viết về những mảnh đời bất hạnh nhưng vẫn mang đậm tính trữ tình và lãng mạn. Mặc dù có sự nghiệp sáng tác ngắn ngủi, ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam gần 200 bài thơ Nôm, sáng tác theo nhiều thể loại như thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, và lục bát.

Thơ Tú Xương
Tuyển tập các bài thơ Tú Xương hay nhất

Để hiểu rõ hơn về phong cách thơ Tú Xương, dưới đây là tuyển tập các bài thơ tiêu biểu, nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông:

  • Thương vợ.
  • Chế ông đốc học.
  • Vịnh khoa thi Hương.
  • Giễu người thi đỗ.
  • Cảm hoài.
  • Năm mới chúc nhau.
  • Cái nhớ.
  • Chế bạn lấy vợ bé.
  • Văn tế sống vợ.
  • Sông lấp.
  • Cảm hứng.
  • Ba cái lăng nhăng.
  • Bỡn người làm mối.
  • Áo bông che bạn.
  • Buồn thi hỏng.
  • Bảo người bán sực tắc.
  • Giễu người thi đỗ.
  • Anh kiệt chơi hoang (Giễu bạn).
  • Ông cò.
  • Phường nhơ.
  • Bác cử Nhu.
  • Bắt được đồng tiền.
  • Bợm già.

Những bài thơ của Tú Xương về chủ đề trào phúng

Dưới đây là tuyển tập một số bài thơ hay, được Tú Xương viết để trào phúng thói đời cũng như những thói hư tật xấu trong xã hội xưa:

Tự cười minh

Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh
Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi
Cứ việc ăn chơi, chẳng học hành

Bài thơ là lời tự phê phán, tự trào của Tế Xương. Ông cười chính mình vì những thất bại trong cuộc đời, từ việc thi cử đến cuộc sống gia đình. Sự tự trào này không chỉ là biểu hiện của tính cách hài hước mà còn cho thấy ông rất rõ ràng trong việc nhìn nhận bản thân.

Dù cay đắng nhưng Tế Xương lại chọn cách cười để vượt qua nỗi buồn, phản ánh triết lý sống “cười để sống” của người trí thức trong thời kỳ đầy biến động.

Than cùng

Khách hỏi nhà ông đến
Nhà ông đã bán rồi.
Vợ lăm le ở vú,
Con tấp tểnh đi bồi.
Ai chói voi bỏ rọ ?
Đời nào lợn cạo ngôi ?
Người bảo ông cùng mãi
Ông cùng thế này thôi!

Bài thơ này thể hiện nỗi buồn và sự bất mãn của Tế Xương với cuộc sống. Ông than thở về cảnh nghèo khó, sự bất công trong xã hội, nhưng lại dùng ngôn từ sắc bén để diễn tả. Sự than cùng không phải là sự chịu đựng một cách cam chịu, mà là lời phản kháng đầy giễu cợt, thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Tế Xương.

Thề với người ăn xin

Người đói thì ta cũng chẳng no
Cha thằng nào có tiếc không cho!
Họ đày đoạ mãi dân cày cuốc
Ai xét soi cho cảnh học trò!
Mong được cơm no cùng áo ấm
Gặp toàn nắng lửa với mưa gio
Miếng ăn đến miệng là thưa kiện
Lúa rũ chân đê chửa được vò

Sự châm biếm sâu cay của Tế Xương được thể hiện qua hình ảnh người ăn xin. Ông thề với họ rằng ngay cả ông – một nhà nho, cũng chẳng khá hơn. Điều này không chỉ châm biếm cuộc đời riêng mình, mà còn chỉ trích xã hội thời bấy giờ, nơi mà những người có học thức như ông cũng phải đối mặt với sự nghèo đói và bất lực, chẳng khác gì người ăn xin.

Chế bạn lấy vợ bé

Ông này mê gái, thực là mê,
Thím khách già kia cũng gớm ghê.
Mới hỏi ra chừng chê bạc ít,
Gần cheo toan sự trả cau về.
Mấy kỳ văn khó sao làm được?
Một sợi tơ hồng chẳng biết vê…
Lo việc ai bằng ông bạn Bát,
Cũng còn nhăn nhó sự nhiêu khê.

Tác phẩm của Tú Xương
Chế bạn lấy vợ lẽ

Trong bài thơ này, Tế Xương chế giễu người bạn lấy vợ bé – một hiện tượng khá phổ biến trong xã hội phong kiến. Ông không chỉ châm biếm hành động lấy vợ bé mà còn phản ánh thực trạng bất bình đẳng giới trong xã hội lúc bấy giờ. Sự giễu cợt nhẹ nhàng của ông ẩn chứa nỗi buồn về sự suy đồi của đạo đức và giá trị gia đình.

Bỡn ông phó bảng

Tri huyện lâu nay giá rẻ mà,
Ví vào tay tớ quyết không tha.
An Sơn tông giống người keo thực,
Bồ Thuỷ xưa nay của kiết à?
Đất nhị dễ thường lươn rúc ở,
Lửa nồng nên phải chuột đùn ra.
Ông mà giữ tính kiêu kỳ mãi,
Huấn đạo nguyên ông huấn đạo già!

Tế Xương châm biếm tầng lớp trí thức qua hình ảnh ông phó bảng – một chức vị nhỏ nhưng lại được đánh giá cao trong xã hội thời bấy giờ. Ông dùng lời lẽ sắc bén để cười cợt sự vô dụng của những người có học vị cao nhưng không làm gì có ích cho xã hội.

Bài thơ thể hiện sự bất mãn của Tế Xương với nền giáo dục và tầng lớp trí thức không đủ tài năng.

Năm mới chúc nhau

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:
Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu?
Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:
Đứa thì mua tước, đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp, người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.

Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ở trong đời.
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước,
Sao được cho ra cái giống người.

Trong bài thơ này, Tế Xương chế giễu những lời chúc mừng sáo rỗng, hình thức mỗi dịp Tết đến xuân về. Ông nhìn thấu sự giả dối trong những lời chúc tốt đẹp mà thực tế không mang lại thay đổi nào cho cuộc sống. Đây là lời bình luận sâu sắc về xã hội, nơi mà mọi người vẫn duy trì những tập tục hình thức mà không giải quyết được những vấn đề thực chất.

Vinh khoa thi Hương

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.

Bài thơ châm biếm sự vinh quang của việc đỗ đạt trong khoa thi Hương – kỳ thi tuyển chọn nhân tài trong xã hội phong kiến. Ông vạch trần sự giả dối và hình thức của hệ thống thi cử, nơi mà bằng cấp được xem là thước đo giá trị con người, nhưng thực tế lại chẳng mang lại điều gì thiết thực cho xã hội. Bài thơ thể hiện sự bất mãn của ông với nền giáo dục thời bấy giờ.

Ba cái lăng nhăng

Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ đó
Có chăng chừa rượu với chừa trà

Bài thơ thể hiện sự giễu cợt về những việc lăng nhăng, vô nghĩa trong cuộc sống thường ngày. Tế Xương chỉ trích thói quen của con người khi chạy theo những điều vô bổ, thiếu trọng tâm. Ông sử dụng ngôn từ dí dỏm, hài hước để cảnh báo về việc con người dễ bị cuốn vào những điều phù phiếm mà quên đi những giá trị cốt lõi.

Nhà nho giả danh

Hỏi thăm quê quán ở nơi mô?
Không học mà sao cũng gọi “đồ”?
Ý hẳn người yêu mà gọi thế,
Hay là mẹ đẻ đặt tên cho?
Áo quần đinh đáo trông ra “cậu”.
Ăn nói nhề nhàng khác giọng ngô.
Hỏi mãi mới ra thằng bán sắt,
Mũi nó gồ gồ, trán nó giô.

Tế Xương phê phán những kẻ giả danh trí thức, chỉ biết nói mà không biết làm. Ông dùng sự châm biếm để vạch trần bộ mặt giả tạo của những nhà nho chỉ giỏi sách vở, không thực sự đóng góp cho xã hội. Bài thơ là lời nhắc nhở về sự suy đồi đạo đức và trách nhiệm của tầng lớp trí thức.

Than đạo học

Đạo học ngày nay đã chán rồi
Mười người đi học, chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi
Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ
Trình có ông tiên, thứ chỉ tôi

Bài thơ bày tỏ nỗi buồn về sự suy thoái của nền đạo học. Ông nhận ra rằng, giá trị của việc học tập đã không còn được coi trọng như trước và những người có học thức đang bị lãng quên hoặc bị coi thường. Đây là lời cảnh tỉnh về sự suy đồi của hệ thống giáo dục và nền đạo học trong xã hội thời bấy giờ.

Chế ông đốc học

Ông về đốc học đã bao lâu,
Cờ bạc rong chơi rặt một màu!
Học trò chúng nó tội gì thế,
Để đến cho ông vớ được đầu?

Bài thơ châm biếm ông đốc học – người đứng đầu một trường học, nhưng lại không thực sự giỏi giang hay tài năng. Tế Xương vạch trần sự bất tài của những người nắm giữ vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục, đồng thời phản ánh sự mục ruỗng của nền giáo dục khi người không có tài vẫn được nắm quyền.

Quan tại gia

Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng,
Bốn con làm lính, bố làm quan.
Câu thơ, câu phú, sưu cùng thuế,
Nghiên mực, nghiên son, tổng với làng.
Nước quạt chưa xong, con nhảy ngựa,
Trống hầu vừa dứt, bố lên thang.
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ,
Đem chuyện trăm năm giở lại bàn.

Bài thơ này châm biếm những vị quan không làm tròn trách nhiệm mà chỉ lo chuyện gia đình, coi gia đình là trung tâm. Tế Xương vạch trần sự yếu kém của bộ máy hành chính khi những người có quyền lực chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, gia đình mà bỏ quên lợi ích của dân chúng.

Đánh tổ tôm

Bực chẳng nhẽ anh hùng khi vị ngộ,
Như lúc đen chơi cuộc tổ tôm,
Bài chạm thành cuối cánh phỗng ầm ầm,
Ngồi thôi chẳng bốc quân rác rảnh.
Cũng có lúc thông chi thì bát sách,
Cũng có khi bạch định bốc yêu hồng;
Cất bài lên ông lão vẫn lẩn vòng,
Không đâu cả gặp kề năm bảy phỗng.
Cũng có ván tôm lèo lên chờ rộng,
Vớ phải thằng bạch thủ phỗng tay trên.
Gớm ghê thay đen thực là đen!
Sắc như mác cũng thua thằng vận đỏ.
May mắn nhẽ hữu duyên năng tái ngộ,
Bĩ cực rồi đến độ thái lai;
Tiếng tam khôi chi để nhường ai,
Hết bạch lại hồng, thông mãi mãi.
Nào những kẻ tay trên ban nãy,
Đến bây giờ thay thẩy dưới tay ta;
Tiếng bài cao lừng lẫy khắp gần xa,
Bát vạn ấy người ta ai dám đọ.
Thế mới biết tổ tôm có đen thì có đỏ.
Thì anh hùng vị ngộ có lo chi.
Trước sau, sau trước làm gì?

Thơ của Tú Xương
Đánh tổ tôm

Bài thơ là tiếng cười giễu cợt về thói quen chơi tổ tôm – một trò chơi phổ biến trong giới trí thức lúc bấy giờ. Tế Xương chỉ trích những người chỉ biết vui thú trong trò chơi này mà bỏ qua những vấn đề quan trọng của xã hội. Bài thơ thể hiện sự phản đối của ông đối với sự lãng phí thời gian vào những điều vô bổ.

Than thân

Kể đã ba mươi mấy tuổi rồi,
Tôi ngồi tôi nghĩ cái thằng tôi.
Mấy khoa hương thí không đâu cả,
Ba luống vườn hoang bán sạch rồi.
Gạo cứ lệ ăn đong bữa một,
Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi.
Bắc thang lên hỏi ông trời nhẽ:
Trêo ghẹo người ta thế nữa thôi?

Tế Xương than thân trách phận về cuộc đời nghèo khó, thất bại của mình. Ông không ngần ngại bộc lộ nỗi khổ đau, sự bất lực trước cảnh nghèo, nhưng trong đó vẫn có sự tự giễu, tự châm biếm để làm vơi bớt nỗi buồn. Bài thơ là tiếng lòng của một người trí thức không thể thoát khỏi cảnh ngộ khốn khó của mình.

Bỡn tri phủ Xuân Trường

Tri phủ Xuân Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên.
Chữ “thôi” chữ “cứu” không phê đến,
Ông chỉ quen phê một chữ “tiền”!

Tế Xương châm biếm tri phủ Xuân Trường với sự hài hước và dí dỏm. Ông cười cợt thói quan liêu, bất tài của những viên quan nhỏ trong bộ máy hành chính. Sự giễu cợt trong thơ phản ánh nỗi bất mãn của Tế Xương với hệ thống quan lại tham nhũng và vô trách nhiệm.

Ông tiến sĩ mới

Tiến sĩ khoa này đỗ mấy người?
Xem chừng hay chữ có ông thôi!
Nghe văn mà gớm cho văn nhỉ
Cờ biển vua ban cũng lạ đời!

Bài thơ châm biếm những người mới đạt danh vị tiến sĩ nhưng lại không có tài năng thực sự. Tế Xương mỉa mai hệ thống thi cử, nơi mà bằng cấp được tôn vinh nhưng lại không mang lại giá trị cho xã hội. Đây là một lời phê phán về sự sáo rỗng của danh vọng trong xã hội phong kiến.

Bợm già

Thầy thầy tớ tớ, phố xênh xang,
Thoạt nhác trông ra ngỡ cóc vàng.
Kiện hết sở Tuần, vô sở Sứ
Khi thì thầy số, lúc thầy lang.
Công nợ bớp bơ hình chúa Chổm,
Phong lưu đài các giống ông hoàng.
Phong lưu như thế phong lưu mãi,
Điếu ống, xe dài độ mấy gang?

Tế Xương sử dụng hình ảnh bợm già để châm biếm những kẻ lão luyện, giảo hoạt trong xã hội. Ông cười cợt sự lọc lõi của những người sống lâu trong môi trường đầy bất công, lừa đảo. Bài thơ phản ánh sự suy đồi đạo đức và giá trị của con người trong xã hội đầy rẫy những thủ đoạn.

Phường nhơ

Bấy lâu chơi với rặt phường nhơ,
Quen mắt ưa nhìn chả biết dơ.
Nào sọt nào quang nào bộ gắp,
Đứa bưng đứa hót, đứa đang chờ.
Mình hôi mũi ngạt không kì quản,
Áo ấm cơm no vẫn nhởn nhơ.
Ngán nỗi hàng phường khi cũng tế,
Vẽ ông ôm đít để lên thờ!

Bài thơ phê phán những con người trong xã hội mà ông coi là phường nhơ – những kẻ đục khoét, lợi dụng người khác. Tế Xương dùng ngôn từ sắc bén để chỉ trích tầng lớp tham lam, ích kỷ trong xã hội, và bày tỏ sự khinh miệt đối với những hành vi trái đạo lý.

Hỏi ông trời

Ta lên ta hỏi ông trời:
Trời sinh ta ở trên đời biết chi?
Biết chăng cũng chẳng biết gì
Biết ngồi Thống Bảo, biết đi ả đầu
Biết thuốc lá, biết chè Tàu
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi

Bài thơ là một cuộc đối thoại đầy châm biếm giữa Tế Xương và ông trời. Nhà thơ chất vấn về số phận của mình, về những bất công trong cuộc đời, nhưng lại không mong đợi câu trả lời thực sự từ trời. Đây là lời than vãn đầy xót xa về cuộc đời của ông, khi mọi sự dường như nằm ngoài sự kiểm soát của ông.

Nhớ bạn phương trời

Ta nhớ người xa cách núi sông,
Người xa, xa lắm, nhớ ta không?
Sao đang vui vẻ ra buồn bã,
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng.
Lúc nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng,
Khi riêng riêng cả đến tình chung.
Tương tư lọ phải là mưa gió,
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng.

Tế Xương bộc lộ tình cảm sâu sắc dành cho những người bạn đã xa cách. Bài thơ là tiếng lòng của nhà thơ khi phải đối diện với sự chia ly và nhớ nhung. Qua đó, ông cũng thể hiện sự gắn bó tình bạn, dù khoảng cách địa lý hay thời gian có thể làm xa nhau, nhưng tình cảm vẫn mãi vẹn nguyên.

Lấy lẽ

Cha kiếp sinh ra phận má hồng!
Khéo thay một nỗi lấy chung chồng.
Mười đêm chị giữ mười đêm cả,
Suốt tháng em nằm suốt tháng không.
Hầu hạ đã cam phần cát luỹ,
Nhặt khoan còn ỏm tiếng Hà Đông.
Ai về nhắn bảo đàn em nhé,
Có ế thì tu, chớ chớ chung!

Bài thơ phê phán thói tục lấy lẽ trong xã hội cũ. Tế Xương dùng sự châm biếm để lên án việc người đàn ông cưới thêm vợ lẽ, đồng thời bày tỏ sự thương cảm đối với người vợ chính. Qua đó, ông chỉ trích những bất công và bất bình đẳng trong hôn nhân.

Dại khôn

Thế sự đua nhau nói dại khôn,
Biết ai là dại, biết ai khôn.
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại,
Dại chốn vẵn chương, ấy dại khôn.
Này kẻ nên khôn đều có dại,
Làm người có dại mới nên khôn.
Cái khôn ai cũng khôn là thế,
Mới biết trần gian kẻ dại khôn.

Tế Xương sử dụng hình thức đối lập giữa dại và khôn để mỉa mai cuộc đời. Ông nhận ra rằng, đôi khi sự khôn ngoan trong xã hội lại chẳng mang lại lợi ích gì, ngược lại, cái “dại” mới là điều giúp con người sống bình an.

Bài thơ khắc họa sự đảo lộn giá trị trong xã hội, nơi mà người có tài năng cũng chưa chắc đã thành công, mà đôi khi phải “dại” mới thoát được vòng luẩn quẩn.

Tổng hợp thơ của Tú Xương về chủ đề trữ tình

Đừng bỏ qua tuyển tập thơ chữ Nôm về chủ đề trữ tình cực lãng mạn, thắm thiết của Tú Xương. Các bài thơ bao gồm:

Gửi người cũ

Yêu nhau chẳng lấy được nhau nào
Mình nghĩ làm sao, tớ nghĩ sao?
Trai gái bởi tay bà mụ nặn
Vợ chồng nguyên mối chị Hằng trao
Xa nhau ngán nỗi lòng thương nhớ
Gần lại càng thêm dạ khát khao
Bến Vị non Nùng xa cách mấy
Mà không buộc chặt sợi tơ đào?

Bài thơ mang một nỗi niềm hoài nhớ, đầy tâm trạng của Tế Xương về mối tình đã qua. Dù không còn ở bên nhau nhưng cái tình, cái nhớ vẫn còn, như một cách để nhà thơ gửi gắm niềm thương tiếc đến người cũ. Qua đó, ông cũng bộc lộ sự chân thành trong tình cảm của mình, không chỉ gắn bó với hiện tại mà còn giữ kỷ niệm đẹp về quá khứ.

Vợ tế chồng

Hỡi thương ơi!
Con thơ vợ dại, sống càng thương mà chết lại càng thương;
Cửa vắng nhà thanh, nghĩ cũng khổ mà nói ra cũng khổ.

Cầu trời cầu Phật, nào thiếu cầu đâu;
Tại thuốc tại thầy, hay là tại số.

Nhớ chàng xưa:
Cháu giống con dòng;
Người kim chất cổ.

Tự mười tám trăng màn bảo trẻ, chi hồ giả dã, chữ đủ làm thầy;
Tới bốn ba lều chiếu quan trường, tí ngọ mùi thân, thi sao chưa đỗ.

Trừ ông cử ông tú ông đò chi ngoại, phường ngựa xe điếu tráp ít chơi;
Lấy câu văn câu thơ câu phú làm vui, thú cờ bạc rượu chè chẳng mộ.

Cũng tưởng làm nên quan lớn, toan sự biển cờ cướp lấy, ông Từ ô cũng chốn anh em;
Nào ngờ già dễ văn hay, làm cho thợ tạo chết tươi, ông Tiền hải cũng trong môn hộ.

Tưởng sự cửa nhà;
Thêm tình quyến cố.

Như chú hai đã có em phụng dưỡng, thôi cũng yên lòng;
Nọ thím năm đang lập cửa thừa diên, nhưng chưa xong số.

Mẹ thiếp cũng già đà lẫn cẫn, phố là làng con là rể, ai kẻ trông nom;
Con chàng còn dại dại ngây ngây, thằng mười bốn đứa lên ba, ai vì dạy dỗ.

Gần đã đến mùng năm đoan ngọ, đào đào mận mận, cũng có của ngon vật lạ, chàng đà đi thiếp cũng chán chường;
Xa là tháng tám trung thu, ngựa ngựa voi voi, những là tán giấy đèn cù, cha chẳng ở con nào vui cỗ.

Thương ôi!
Bối rối lòng quê;
Vội vàng tục phố.

Lờ mờ đen tỏ một huê;
Xơ xác quyển vàng vài bộ.

Nghĩ đến họ đến hàng đến làng đến nước, thì trước cửa Diêm vương ngơ ngẩn, chắc chàng chưa ăn cháo tái sinh;
Nghĩ có trai có gái có rể có dâu, thì trên lầu Thị Kính thề nguyền, quyết thiếp chỉ ôm cầm một độ.

Xin giữ đủ ba năm một tiết, tuần tứ cửu ngày bách nhật, khi giỗ đầu lúc giỗ hết, dưới suối vàng ai hỡi xét xoi;
Gọi là một chén tam ngu, lá vàng giấy nén hương thơm, lưng cơm bạc bát canh suông, trên dương thế lấy gì báo bổ.

Hỡi ơi! Thượng hưởng!

Lời bình: 

Bài thơ thể hiện góc nhìn châm biếm về sự gắn bó trong hôn nhân. Tế Xương sử dụng tiếng nói hài hước để kể về cuộc sống của người vợ dành cho người chồng, trong đó có sự chịu đựng, hy sinh nhưng cũng không thiếu những lời chua xót về cuộc sống nghèo khó và bất lực. Sự trào phúng của ông làm nổi bật thực trạng xã hội lúc bấy giờ, khi phụ nữ thường phải chịu nhiều thiệt thòi.

Tự tiếc

Ta thấy người ta vẫn bảo rằng:
Bảo rằng thằng Cuội ở cung Trăng
Cõi đời cũng lắm nơi thanh quí
Chị Nguyệt dung chi đứa tục tằn
Mình tựa vào cây, cây chó ỉa
Chân thò xuống giếng, giếng ai ăn
Con người như thế mà như thế
Như thế thời ra nghĩ cũng xằng

Ở bài thơ này, Tế Xương tự châm biếm bản thân thể hiện nỗi buồn về cuộc đời thất bại của mình. Ông tiếc nuối cho tuổi trẻ, cho những cơ hội đã vuột mất, nhưng thay vì oán trách, ông lại thể hiện bằng những dòng thơ nhẹ nhàng, sâu sắc nhưng không kém phần cay đắng.

Tự ngụ

Trời đất sinh ra chán vạn nghề
Làm thầy làm thợ với làm thuê
Đố ai mà được như ông nhỉ
Sáng vác ô đi tối vác về

Tác phẩm Tú Xương
Tự ngụ

Bài thơ mang sắc thái triết lý, tự vấn về cuộc đời và thân phận. Tế Xương nhìn lại cuộc sống của mình, với sự nghèo khó và những thất bại nhưng ông không để mình chìm đắm trong bi quan, mà thay vào đó, dùng sự châm biếm để vượt qua nỗi đau. Tinh thần này chính là điểm đặc biệt trong phong cách thơ của ông.

Thương vợ

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!

Đây là một trong những bài thơ nổi tiếng và được yêu thích nhất của Tế Xương. Bằng tình yêu và sự thấu hiểu, ông khắc họa hình ảnh người vợ tần tảo, hy sinh cho chồng con.

Tế Xương không ngại tự trào về bản thân mình, khi thấy rằng mình không đủ khả năng để đỡ đần vợ nhưng ông lại bày tỏ tình yêu và sự cảm kích vô hạn dành cho bà. Bài thơ vừa là lời tri ân, vừa là lời tự phê phán đầy sâu sắc.

Thăm bạn nghèo

Khách hỏi nhà ông đến
Nhà ông đã bán rồi
Vợ lăm le ở vú
Con tấp tểnh đi bồi
Anh trói voi bỏ rọ
Đời nào lợn cạo ngôi
Người bảo ông cũng mãi
Ông cũng thế này thôi

Bài thơ vừa là lời động viên bạn bè trong cảnh nghèo khó, vừa là lời tự nhủ chính mình. Tế Xương hiểu rõ nỗi khổ của sự thiếu thốn nhưng ông không vì thế mà đánh mất niềm tin vào cuộc sống. Trong đó có sự đồng cảm giữa những người cùng cảnh ngộ và Tế Xương khéo léo lồng ghép sự hài hước để làm vơi đi nỗi buồn.

Cái nhớ

Cái nhớ hình dung nó thế nào?
Khiến người ngao ngán, ngẩn ngơ sao!
Biết nhau cho lắm thêm buồn nhé
Để khách bên trời dạ ước ao!

Tế Xương thể hiện tâm trạng hoài niệm về những điều đã qua, từ những kỷ niệm thân thương đến những mất mát. Nỗi nhớ trong thơ ông không chỉ là cảm xúc, mà còn là cách để đối diện với cuộc sống hiện tại. Ông nhớ về quá khứ không chỉ với sự tiếc nuối, mà còn để tìm lại những giá trị đã mất.

Vợ chồng ngâu

Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu,
Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền.
Một là duyên, hai thời là nợ,
Sợi xích thằng ai gỡ cho ra?
Vụng về cũng thể cung nga,
Trăm khôn nghìn khéo chẳng qua mục đồng.
Hay là sợ muộn chồng chăng tá?
Hơi đâu mà kén cá chọn canh!
Lấy ai, ai lấy cũng đành,
Rể trời đâu cả đến anh áo buồm.

Sự châm biếm trong bài thơ này thể hiện rõ ràng nhất qua hình ảnh vợ chồng ngâu – ám chỉ sự xa cách và thiếu hiểu nhau trong mối quan hệ hôn nhân. Tế Xương không ngần ngại chế giễu thực trạng hôn nhân mà trong đó, vợ chồng đôi khi không thực sự gắn kết. Bài thơ mang màu sắc hài hước nhưng cũng không kém phần xót xa.

Văn tế sống vợ

Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ
Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?
Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!
Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười
Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ
Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai
Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớ
Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu
Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ
Thế mà:
Mình bỏ mình đi, mình không chịu ở
Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở.
Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?
Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?
Thôi thôi
Chết quách yên mồ
Sống càng nặng nợ
Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hay
Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡ
Mình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ
Tớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ

Đây là một bài thơ độc đáo, bởi Tế Xương viết văn tế khi vợ vẫn còn sống. Sự châm biếm trong thơ phản ánh sự hài hước của ông về cuộc sống hôn nhân. Dù có chút giễu cợt nhưng sâu thẳm là tình yêu thương vô bờ dành cho người vợ đã hy sinh nhiều cho gia đình.

Nghèo mà vui

Kể suốt thế đố ai bằng anh Mán,
Trải mùi đời, khôn chán giả làm ngây.
Hổ sinh ra lúc thời này,
An thân mệnh thế, giấu tay anh hùng.
Không danh cho dễ vẫy vùng,
Mình không phú quí, mắt không vương hầu.
Khi để chỏm, lúc cạo đầu,
Nghêu ngao câu hát nửa tàu nửa ta.
Không đội nón, chịu màu da dãi nắng,
Chẳng nhuộm răng, để trắng để cười đời.
Chốn quyền môn luồn cúi mặc ai ai,
Ngoài cương toả thảnh thơi ai đã biết?
Chỉ ấm ớ giả câm giả điếc,
Cứ vui tràn khi hát khi ngâm.
Trên đời mấy mặt tri âm!

Tinh thần lạc quan trong bài thơ này thể hiện rất rõ. Dù nghèo, Tế Xương vẫn giữ được niềm vui và sự tự hào về cuộc sống. Ông không để những khó khăn vật chất làm mình đánh mất đi niềm tin, mà ngược lại, biến nó thành nguồn năng lượng tích cực để sống.

Hỏi mình

Trải mấy mươi năm vẫn thế ru?
Rằng khôn, rằng dại, lại rằng ngu?
Những là thương cả cho đời bạc,
Nào có căm đâu đến kẻ thù.
No ấm chưa qua vành mẹ đĩ,
Đỗ đành may khỏi tiếng cha cu.
Phen này có dễ trời xoay lại,
Thằng bé con con đã chán cù.

Bài thơ như một cuộc tự vấn nội tâm. Tế Xương tự hỏi về ý nghĩa của cuộc đời, về những gì ông đã làm và nhận lại. Bằng sự tự trào và tự nhìn nhận, ông khám phá sâu sắc hơn về bản thân và con người trong một xã hội đầy biến động.

Sông lấp

Sông kia rày đã nên đồng,
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.

Sông lấp là một trong những bài thơ mang tính chất tượng trưng cao của Tế Xương. Hình ảnh sông bị lấp không chỉ là biểu tượng của sự thay đổi cảnh quan mà còn là sự biến đổi của thời cuộc, của những giá trị truyền thống đang dần bị mai một. Tế Xương bày tỏ sự tiếc nuối và bất lực trước những biến đổi không thể kiểm soát.

Áo bông che bạn

Hỡi ai, ai có thương không?
Đêm mưa, một mảnh áo bông che đầu
Vì ai, ai có biết đâu?
Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô?
Người đi Tam Đảo, Ngũ Hồ
Kẻ về khóc trúc Thương Ngô một mình
Non non nước nước tình tình
Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ!

Tác phẩm tiêu biểu của Tú Xương
Áo bông che bạn

Tình bạn trong thơ Tế Xương luôn được đặt ở vị trí cao quý. Bài thơ này thể hiện sự quan tâm, lo lắng cho bạn bè, ngay cả trong cái nghèo, cái khổ. Ông sẵn sàng chia sẻ những gì mình có, dù chỉ là tấm áo bông đơn sơ, như một cách bày tỏ tấm lòng chân thành.

Chiêm bao

Bỗng thấy chiêm bao thấy những người
Thấy người nói nói lại cười cười
Tỉnh ra lại tiếc người trong mộng
Mộng thế thì bằng tỉnh mấy mươi

Bài thơ như một lời tự sự về những giấc mơ và ảo tưởng. Tế Xương không chỉ nhìn vào thực tại mà còn suy ngẫm về những khát vọng, ước mơ trong cuộc đời. Qua những hình ảnh chiêm bao, ông phê phán sự hão huyền của những mộng tưởng không thực tế.

Khóc em gái

Mệnh sao bạc thế hỡi em ơi!
Hai bốn hai lăm cũng một đời
Bảng hổ vừa treo, cầu Thước bắc
Cành thoa đã rụng, phím đàn rơi
Cây tương tư héo, chồng rầu rĩ
Thuyền độ sinh đưa, Phật rước mời
Những muốn dựng bia toan kỷ niệm
Lòng anh thương xót, xiết bao nguôi!

Bài thơ là tiếng lòng đau đớn của Tế Xương khi mất đi em gái. Ông bộc lộ nỗi đau mất mát, nhưng cũng thể hiện sự tiếc nuối vì không thể làm được nhiều điều hơn cho em. Từ đó, tình cảm gia đình trong thơ ông càng trở nên sâu sắc và đầy xót xa.

Cảm hoài

Thua bạc nhà đi với mẹ nhà,
Bệnh gì chẳng bệnh, bệnh tim la!
Nay đi phố Giấy, mai đầu hát,
Khi ở sông Thương, lúc tỉnh Hà.
Đeo tiếng khoa danh cho thế mỉa,
Cực lòng cha mẹ để con ra!
Nam mô cứu khổ tiêu tai nạn
Nhờ lượng Quan Âm, đức Phật Bà!

Bài thơ thể hiện nỗi hoài niệm về những điều đã qua, về một thời đại mà Tế Xương đã từng sống và gắn bó. Hoài cảm vừa là tiếng lòng tiếc nuối, vừa là lời nhắc nhở về sự trôi qua của thời gian và những giá trị không còn tồn tại trong hiện tại.

Lời kết

Thơ Tú Xương không thể phai mờ dù đã xuất hiện và tồn tại hàng trăm năm. Ông có phong cách sáng tác độc đáo, vừa trào phúng lại vừa trữ tình lãng mạn. Không ngoa khi nói Tú Xương là ông hoàng thơ Nôm trào phúng của Việt Nam.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *